Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHO VAY CẦM CỐ Ở NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.24 KB, 84 trang )

1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1 Lý luận cơ bản về tín dụng
1.1.1 Khái niệm và bản chất của tín dụng ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung:
 Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử
dụng.
 Sự chuyển nhượng này mang tính tạm thời hay có thời hạn.
 Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
1.1.1.2 Bản chất của tín dụng ngân hàng
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng người cho vay chỉ nhượng lại quyền sử dụng
vốn cho người đi vay trong một thời hạn nhất định. Do người đi vay không có quyền
sở hữu số vốn ấy nên phải hoàn trả lại cho người cho vay khi đến thời hạn đã thoả
thuận. Việc hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn
được tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Ở đây, quá trình vận động mang tính chất hoàn
trả của tín dụng là biểu hiện đặc trưng nhất của sự khác biệt giữa quan hệ tín dụng và
các mối quan hệ kinh tế khác.
1.1.2 Chức năng, phân loại và vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.2.1 Chức năng của tín dụng ngân hàng
* Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả
Thông qua chức năng này tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn vốn
tạm thời thừa từ các cá nhân, tổ chức kinh tế để bổ sung kịp thời cho những doanh
nghiệp, Nhà nước hay cá nhân đang gặp thiếu hụt về vốn.
Trên thực tế vận dụng chức năng này của tín dụng được thể hiện thông qua hoạt
động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây là loại hình tín dụng gián
tiếp của xã hội, nghĩa là quá trình tập trung và phân phối vốn phải trải qua các tổ chức
trung gian. Ngoài ra, trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, chức năng của tín


dụng còn được thể hiện bằng loại hình tín dụng trực tiếp như mua bán chịu hàng hoá
2
giữa các doanh nghiệp hay Nhà nước và các doanh nghiệp sẽ tự huy động vốn thông
qua phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán …
Như vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường cùng với sự đa dạng các hình thức tín
dụngthì việc tổ chức phân phối tín dụngcũng được phong phú hơn, tạo điều kiện điều
phối vốn linh hoạt và hiệu quả hơn.
* Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế
Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần phản ánh
được tình hình phát triển nền kinh tế về các mặt như khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong
xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ …
Trong hoạt động cho vay của ngân hang để góp phần đảm bảo an toàn cho nguồn
vốn, ngân hang luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của đơn vị nhằm
phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng
vốn của đơn vị có hiệu quả hay không.
Như vậy với những chức năng trên sẽ góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối
cục bộ của nền kinh tế với những giải pháp khắc phục kịp thời. Từ đó phát huy vai trò
quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
* Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội
Hoạt động tín dụng đã góp phần tiết kiệm tiền mặt và chí phí lưu thông cho xã
hội được biểu hiện qua những điểm sau:
 Tín dụng phát huy chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ góp phần
chuyển nhượng khoản vốn nhàn rỗi đang ở trạng thái đứng yên trong xã hội đưa vào
chu chuyển để phục vụ trong sản xuất lưu thông hàng hóa. Điều này nghĩa là đã góp
phần tăng nhịp độ vòng quay của đồng tiền, giảm lượng tiền thừa.
 Mặt khác, các chủ thể kinh tế có nhu cầu vốn còn phát hành các chứng từ có giá
trị như tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu … đặc biệt những nước có điều kiện kinh tế phát
triển lâu đời còn cho phép các kỳ phiếu hoặc các khế ước nợ được lưu thông và
chuyển nhượng trong thời gian có hiệu lực làm phong phú thêm các phương tiện thanh

toán và tiết kiệm đáng kể lượng tiền mặt cần thiết trong lưu thông.
 Trong điều kiện hệ thống ngân hàng phát triển thì song song với quá trình tổ
chức nghiệp vụ tín dụng sẽ là việc mở rộng nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
3
Điều này cũng giảm nhu cầu về tiền mặt trong lưu thông đồng thời giảm những chi phí
lưu thông khác như chi phí in ấn giấy bạc, vận chuyển tiền …
1.1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
* Dựa vào mục đích của tín dụng – Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có
thể phân chia thành các loại sau:
 Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp là loại cho vay ngắn
hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, dịch vụ.
 Cho vay tiêu dùng cá nhân là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay
để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
 Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu
 Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu kinh
doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập
khẩu.
* Dựa vào thời hạn tín dụng – Theo tiêu thức này tín dụng có thể phân chia
thành các loại sau:
 Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn được một năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
 Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm . Mục đích của
loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
 Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho
vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
* Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng – Theo tiêu thức này, tín dụng có
thể được phân chia thành các loại sau:

 Cho vay không có bảo đảm là loại cho vay không có tài sản cầm cố, cầm cố
hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn
để quyết định cho vay.
 Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo cho tiền vay
như vay cầm cố, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
4
* Dựa vào phương thức cho vay – Theo tiêu thức này, tín dụng có thể được
phân chia thành các loại sau:
 Cho vay theo món.
 Cho vay theo hạn mức tín dụng.
* Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay – Theo tiêu thức này, tín dụng có thể
được phân chia thành các loại sau:
 Cho vay chỉ một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo
hạn.
 Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
 Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tuỳ khả năng
tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
1.1.2.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
 Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
Để thực hiện mục tiêu mở rộng sản xuất ở từng doanh nghiệp, yêu cầu về nguồn
vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Bởi vì, đẩy mạnh tiến độ
phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà doanh nghiệp còn phải
biết tận dụng các dòng chảy khác của vốn trong xã hội. Từ đó, tín dụng ngân hàng với
tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn
bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh
nghiệp nhanh chóng đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập
trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
 Góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả
Với chức năng tập trung và tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín
dụng ngân hàng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông.

Lượng tiền dôi thừa này nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể gây ảnh
hưởng xấu đến tình trạng lưu thông tiền tệ dẫn đến mất cân đối trong quan hệ hàng –
tiền và hệ thống giá cả bị biến động là điều không thể tránh khỏi. Do đó, trong nền
kinh tế bị lạm phát, tín dụng được xem như là một trong những biện pháp hữu hiệu
nhất để làm giảm lạm phát.
 Góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội
Hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn
phục vụ cho các tầng lớp dân cư. Trong nền kinh tế, ngoài các ngân hàng còn có hệ
5
thống những tổ chức tín dụng sẵn sàng cung cấp vốn vay cho các cá nhân để phát triển
kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh hoạt, … Bên cạnh đó, còn phát triển
những loại hình như Ngân hàng chính sách xã hội, quỹ xoá đói giảm nghèo, Nhà nước
còn thực hiện những chính sách ưu đãi nhằm mục đích cải thiện từng bước đời sống
của nhân dân, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, qua đó, góp phần ổn định
trật tự, xã hội.
1.2 Lý luận cơ bản về cầm cố tài sản
1.2.1 Khái niệm cầm cố tài sản
Căn cứ vào Luật dân sự, Cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố) giao tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự.
1.2.2 Các bên trong cầm cố tài sản
1.2.2.1 Bên cầm cố tài sản
* Nghĩa vụ của bên cầm cố tài sản:
 Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thoả thuận.
 Báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, nếu
có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận cầm cố có quyền huỷ hợp đồng
cầm cố tài sản và yêu cầu bồi thờng thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận
quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố.
 Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản
cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

* Quyền lợi của bên cầm cố tài sản:
 Yêu cầu bên nhận cầm cố đình chỉ việc sử dụng tài sản cầm cố trong trường hợp
có quy định, nếu do sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút
giá trị.
 Được bán tài sản cầm cố, nếu được bên nhận cầm cố đồng ý.
 Được thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu có thỏa thuận.
 Yêu cầu bên nhận cầm cố giữ tài sản cầm cố trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ
được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt.
 Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố.
6
1.2.2.2 Bên nhận cầm cố tài sản
* Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố tài sản:
 Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm cố thì
phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố.
 Không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố; không
được đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác.
 Không được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu
không được bên cầm cố đồng ý.
 Trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc
được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
* Quyền lợi của bên nhận cầm cố tài sản:
 Yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản
đó.
 Yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy
định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ.
 Được khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản
cầm cố, nếu có thoả thuận.
 Được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho
bên cầm cố.
1.2.3 Hình thức của cầm cố tài sản

Việc cầm cố tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng
hoặc ghi trong hợp đồng chính.
1.2.4 Đối tượng của cầm cố tài sản
 Tài sản thực (vật có thực) như xe cộ, máy móc, hàng hoá, vàng, tàu biển, máy
bay, các loại khác.
 Tiền gồm tiền mặt, tiền trên tài khoản.
 Giấy tờ có giá (giấy tờ trị giá được bằng tiền) như cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu …
 Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi
nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác.
 Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố.
7
Căn cứ vào tính chất quản lý, tài sản cầm cố được chia ra làm hai loại: có đăng
ký quyền sở hữu và không đăng ký quyền sở hữu. Đối với tài sản không đăng ký
quyền sở hữu, tài sản cầm cố phải được chuyển giao cho bên cầm cố, ngược lại đối với
tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì tài sản có thể do bên cầm cố, bên nhận cầm cố
hoặc bên thứ ba giữ theo thoả thuận của bên nhận cầm cố và bên cầm cố.
1.2.5 Phân loại cầm cố
1.2.5.1 Cầm cố pháp lý và cầm cố công bằng
Cầm cố pháp lý là hình thức cầm cố mà trong đó người đi vay (người cầm cố)
thoả thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không thực hiện được nghĩa vụ trả
nợ. Theo hình thức này, khi người đi vay không thanh toán được nợ ngân hàng được
quyền bán tài sản hoặc cho thuê với tư cách là người chủ sở hữu mà không cần thực
hiện các thủ tục tố tụng để nhờ sự can thiệp của toà án.
Cầm cố công bằng (cầm cố thông thường) là hình thức cầm cố mà trong đó ngân
hàng chỉ nắm giữ giấy chứng nhận sở hữu tài sản hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất để đảm bảo món vay. Khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp
đồng, việc xử lý tài sản phải dựa trên cơ sở thoả thuận giữa người cho vay và người đi
vay hoặc phải nhờ đến sự can thiệp của toà án, nếu có tranh chấp.
1.2.5.2 Cầm cố thứ nhất và cầm cố thứ hai

Cầm cố thứ nhất là việc cầm cố tài sản để đảm bảo cho món nợ thứ nhất. Cần
lưu ý rằng cầm cố thứ nhất không có nghĩa là lần đầu tiên đem tài sản đi cầm cố cho
một khoản vay, mà cầm cố thứ nhất được xác định trong mối tương quan giữa các
khoản vay có cầm cố, tức là việc sử dụng một tài sản làm đảm bảo cho nhiều khoản
vay và cầm cố cho khoản vay đầu tiên cho khoản vay đang tồn tại là cầm cố thứ nhất.
Cầm cố thứ nhất có hai trường hợp: Cầm cố cho một bên cho vay và cầm cố cho
nhiều bên cho vay dưới hình thức hợp vốn (đồng tài trợ). Trong trường hợp cầm cố
cho khoản vay hợp vốn, việc quản lý tài sản và giấy tờ của tài sản bảo đảm do một
ngân hàng đại diện thực hiện.
Cầm cố thứ hai là hình thức cầm cố, trong đó người đi vay sử dụng phần giá trị
chênh lệch giữa giá trị tài sản cầm cố và khoản nợ thứ nhất được đảm bảo bằng tài sản
đó để đảm bảo cho khoản nợ thứ hai.
Trong cầm cố để thực hiện nhiều nghĩa vụ (cầm cố thứ nhất và cầm cố thứ hai)
có điểm lưu ý sau:
8
 Trong trường hợp phải xử lý tài sản cầm cố để thanh toán một khoản nợ đến
hạn, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn, cũng được coi là đến hạn.
 Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký cầm cố.
Theo quy định hiện hành cầm cố thứ nhất và cầm cố thứ hai chỉ được thực hiện tại một
tổ chức tín dụng.
1.2.5.3 Cầm cố trực tiếp và cầm cố gián tiếp
Cầm cố trực tiếp hay còn gọi là cầm cố bằng tài sản hình thành từ vốn vay là
hình thức cầm cố mà tài sản cầm cố do vốn vay tạo nên.
Cầm cố gián tiếp là hình thức cầm cố mà trong đó tài sản cầm cố và tài sản dùng
vốn vay để mua là hai tài sản khác nhau.
1.2.6 Xử lý tài sản cầm cố
Trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không
thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thoả thuận thì tài sản cầm cố được xử lý
theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của
pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền

bán tài sản cầm cố.
Thanh toán tiền bán tài sản cầm cố: Tiền bán tài sản cầm cố được sử dụng để
thanh toán nghĩa vụ cho bên nhận cầm cố sau khi trừ chi phí bảo quản, bán tài sản và
các chi phí cần thiết khác có liên quan để xử lý tài sản cầm cố; trong trường hợp nghĩa
vụ được bảo đảm là khoản vay thì thanh toán cho bên nhận cầm cố theo thứ tự nợ gốc,
lãi, tiền phạt, tiền bồi thờng thiệt hại nếu có; nếu tiền bán còn thừa thì phải trả lại cho
bên cầm cố; nếu tiền bán còn thiếu thì bên cầm cố phải trả tiếp phần còn thiếu đó.
1.2.6.1 Các trường hợp xử lý
 Đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
 Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi
phạm nghĩa vụ theo thoả thuận theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
 Pháp luật quy định tài sản đảm bảo phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ khác.
 Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
9
1.2.6.2 Nguyên tắc xử lý
 Trong trường hợp tài sản được dùng để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ thì việc
xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận giữa các bên, nếu không có thoả thuận
thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
 Trong trường hợp tài sản được dùng để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ thì
việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận giữa bên bảo đảm và các bên cùng
nhận bảo đảm, nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì tài sản được
bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
 Việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công
khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch
bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với quy định.
 Người xử lý tài sản bảo đảm là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận
bảo đảm uỷ quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thoả thuận
khác.

 Việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh doanh
của bên nhận bảo đảm.
1.2.6.3 Phương thức xử lý
 Bán tài sản bảo đảm.
 Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện
nghĩa vụ của bên bảo đảm.
 Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong
trường hợp cầm cố quyền đòi nợ.
 Phương thức khác do các bên thoả thuận.
1.2.6.4 Nghĩa vụ của người xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp một tài
sản dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ
 Thông báo cho các bên cùng nhận bảo đảm khác về việc xử lý tài sản theo quy
định.
 Thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm.
 Thanh toán tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm theo thứ tự ưu tiên thanh
toán.
10
1.2.6.5 Thời hạn xử lý
Tài sản bảo đảm được xử lý trong thời hạn do các bên thoả thuận, nếu không có
thoả thuận thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền quyết định về thời hạn xử lý,
nhưng không được trước 07 ngày kể từ ngày thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm,
trừ trường hợp được quy định phải xử lý ngay.
1.2.6.6 Thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý
Bên giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản đó cho người xử lý tài sản bảo đảm
theo thông báo của người này, nếu hết thời hạn ấn định trong thông báo mà bên giữ tài
sản bảo đảm không giao tài sản thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền thu giữ tài
sản bảo đảm theo quy định để xử lý hoặc yêu cầu Toà án giải quyết.
Khi thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm, người xử lý tài sản bảo đảm có trách
nhiệm:
 Thông báo trước cho người giữ tài sản về việc áp dụng biện pháp thu giữ tài sản

bảo đảm trong một thời gian hợp lý. Văn bản thông báo phải ghi rõ lý do, thời hạn
thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm, quyền và nghĩa vụ các bên.
 Không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp người giữ tài sản bảo đảm là người thứ ba thì bên bảo đảm có
trách nhiệm phối hợp với người xử lý tài sản bảo đảm thực hiện việc thu giữ tài sản
bảo đảm.
Bên bảo đảm hoặc người thứ ba giữ tài sản bảo đảm phải chịu các chi phí hợp lý,
cần thiết cho việc thu giữ tài sản bảo đảm, trong trường hợp không giao tài sản để xử
lý hoặc có hành vi cản trở việc thu giữ hợp pháp tài sản bảo đảm mà gây thiệt hại cho
bên nhận bảo đảm thì phải bồi thường.
Trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, nếu bên giữ tài sản bảo đảm
có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi
vi phạm pháp luật khác thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm,
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo
quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản
thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
11
1.2.6.7 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo đảm trong thời gian chờ xử lý
tài sản bảo đảm
Trong thời gian chờ xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm được khai thác, sử
dụng tài sản bảo đảm hoặc cho phép bên bảo đảm hoặc uỷ quyền cho người thứ ba
khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm theo đúng tính năng và công dụng của tài sản. Việc
cho phép hoặc uỷ quyền khai thác, phương thức khai thác và việc xử lý hoa lợi, lợi tức
thu được phải được lập thành văn bản.
Hoa lợi, lợi tức thu được phải được hạch toán riêng, trừ trường hợp có thoả thuận
khác. Sau khi trừ các chi phí cần thiết cho việc khai thác, sử dụng tài sản, số tiền còn
lại được dùng để thanh toán cho bên nhận bảo đảm.
1.2.6.8 Xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ trong tương lai
Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được giao kết để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ trong tương lai thì nghĩa vụ trong tương lai có thứ tự ưu tiên thanh toán theo thứ tự
đăng ký giao dịch bảo đảm đó, không phụ thuộc vào thời điểm xác lập giao dịch dân
sự làm phát sinh nghĩa vụ trong tương lai.
1.2.6.9 Chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm
 Người mua tài sản bảo đảm, người nhận chính tài sản bảo đảm thay thế cho việc
thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm đối với mình có quyền sở hữu tài sản đó. Thời
điểm chuyển quyền sở hữu được xác định theo quy định.
 Trong trường hợp tài sản bảo đảm có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì
người nhận chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đó được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm được thực hiện
theo quy định của pháp luật về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản. Trong
trường hợp pháp luật quy định việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo
đảm phải có sự đồng ý bằng văn bản của chủ sở hữu, hợp đồng mua bán tài sản giữa
chủ sở hữu tài sản hoặc người phải thi hành án với người mua tài sản về việc xử lý tài
sản đảm bảo thì hợp đồng bảo đảm được dùng để thay thế cho các loại giấy tờ này.
12
1.2.6.10 Quyền nhận lại tài sản bảo đảm
Trước thời điểm xử lý tài sản bảo đảm mà bên bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ của mình đối với bên nhận bảo đảm và thanh toán các chi phí phát sinh do việc
chậm thực hiện nghĩa vụ thì có quyền nhận lại tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác về thời điểm được nhận lại tài sản bảo đảm trước khi xử lý.
1.2.7 Huỷ bỏ việc cầm cố tài sản
Việc cầm cố tài sản có thể bị huỷ bỏ nếu được bên nhận cầm cố đồng ý, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.2.8 Chấm dứt cầm cố tài sản
Việc cầm cố tài sản chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
 Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt.

 Việc cầm cố tài sản được huỷ bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm
khác.
 Tài sản cầm cố đã được xử lý.
 Theo thoả thuận giữa các bên.
1.3 Cầm cố tài sản trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng
Những loại tài sản cầm cố thông dụng để bảo đảm cho nợ vay ngân hàng như
sau:
1.3.1 Cầm cố hàng hoá
Hình thức bảo đảm hàng hoá có ưu thế bảo đảm bằng bất động sản, vì các lý do
sau đây:
 Khi khách hàng không thanh toán được nợ đúng hạn, ngân hàng có thể bán
được hàng hoá một cách dễ dàng hơn so với bán bất động sản.
 Giúp cho các doanh nghiệp thực hiện dự trữ vật tư hàng hoá theo chu kỳ và thời
vụ nhằm ổn định sản xuất và đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Để phát huy được các ưu thế trên đây khi cầm cố hàng hoác ngân hàng cần quan
tâm 3 vấn đề chính sau đây:
* Điều kiện cầm cố hàng hoá
 Hàng hoá có giá trị ổn định.
 Hàng hoá dễ tiêu thụ trong hiện tại và tương lai.
 Hàng hoá được phép lưu thông và khách hàng được phép kinh doanh loại hàng
hoá đó.
13
Hàng hoá cầm cố thông dụng bao gồm: hàng hoá mới mua hoặc nhập khẩu như
nguyên liệu, nhiên liệu dùng cho sản xuất, kinh doanh, hàng hoá sản xuất chờ tiêu thụ
hoặc xuất khẩu: máy móc, thiết bị, xe cộ mới hoặc đang sử dụng.
* Quản lý hàng hoá cầm cố
Việc quản lý hàng hoá cầm cố được thực hiện theo các cách sau:
 Quản lý tại kho ngân hàng: cách thức quản lý này bảo đảm nắm chắc hàng hoá
cầm cố, nhưng tốn kém về cơ sở vật chất và quản lý. Trên thực tế ít ngân hàng áp dụng
phương thức quản lý này.

 Quản lý tại kho của khách hàng cầm cố nghĩa là hàng hoá cầm cố được đặt tại
một kho riêng của khách hàng và được đặt dưới sự quản lý của ngân hàng. Đồng thời
để xác nhận hàng hoá đó đã được cầm cố, ngân hàng phải ký một hợp đồng thuê kho
với khách hàng và đăng ký hợp đồng đó với cơ quan quản lý nhà nước. Giá thuê kho ở
hợp đồng này chỉ mang tính chất tượng trưng. Để đảm bảo an toàn cho hàng hoá cầm
cố, ngân hàng phải chọn những kho kiên cố và có hệ thống thiết bị bảo đảm an toàn,
phù hợp với tính chất của hàng hoá cầm cố. Mặt khác, ngân hàng là người duy nhất
giữ chìa khoá và được phép ra vào kho, đồng thời ngân hàng có bảng niêm phong kho
mang tên ngân hàng.
 Quản lý tại kho của bên thứ ba: Người thứ ba có thể là người nhận ký thác đơn
thuần, có thể là người nhận ký gửi để bán hàng hoá hộ hoặc có thể là người nhận gia
công hàng hoá. Để người thứ ba có trách nhiệm quản lý hàng hoá, người này phải
tham gia vào việc ký kết hợp đồng cầm cố và phải cam kết rằng chỉ được chuyển giao
hàng hoá khi có sự đồng ý của ngân hàng. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật, đối
với tài sản không đăng ký quyền sở hữu thì khi cầm cố tài sản phải giao cho tổ chức
tín dụng giữ. Vì vậy, đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, ngân hàng có thể lập
thủ tục thuê kho của bên thứ ba bảo hiểm giống như quản lý tại kho khách hàng cầm
cố hoặc áp dụng phương thức cầm cố các quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng ký thác,
hợp đồng gia công …
* Xác định quyền sở hữu tài sản của người cầm cố
Tài sản cầm cố bao gồm tài sản có đăng ký quyền sở hữu và tài sản không đăng
ký quyền sở hữu. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì việc xác định quyền sở
hữu tài sản chủ yếu dựa trên các loại giấy tờ chứng nhận đăng ký tài sản do cơ quan
nhà nước cấp. Đối với hàng hoá không đăng ký quyền sở hữu tài sản thì việc xác định
14
quyền sở hữu tài sản tương đối phức tạp. Các ngân hàng thường giám định dựa trên cơ
sở hoá đơn, giấy chứng nhận hoàn thành thủ tục Hải quan, bản kê khai tồn kho …
Ngoài ra ngân hàng còn phải kiểm tra các mặt hoạt động để có thêm thông tin bổ sung
nhằm hạn chế rủi ro pháp lý.
1.3.2 Cầm cố các chứng khoán

Cho vay cầm cố bằng chứng khoán là một nghiệp vụ cho vay đơn giản, khách
hàng chuyển giao chứng khoán cho ngân hàng để nhận tiền vay. Khi đáo hạn khách
hàng trả nợ cho ngân hàng và nhận lại các chứng khoán đã cầm cố.
Các loại chứng khoán cầm cố:
 Công trái.
 Tín phiếu kho bạc.
 Trái phiếu đô thị.
 Cổ phiếu.
 Trái phiếu công ty.
 Các loại giấy nợ khác.
1.3.3 Bảo đảm bằng tiền gửi
Tiền gửi dùng làm bảo đảm cho khoản ứng trước của ngân hàng chủ yếu là tiền
gửi có kỳ hạn và tiết kiệm kể cả chứng chỉ tiền gửi, còn đối với tiền gửi thanh toán thì
dùng làm bảo đảm cho ngân hàng phải được chuyển sang một tài khoản một tài khoản
phong toả.
Tiền gửi là tài sản là tài sản bảo đảm an toàn và ít tốn kém, vì lý do:
 Không cần phải địng giá.
 Chi phí phát sinh trong việc quản lý tài sản bảo đảm không đáng kể.
 Việc xử lý tài sản để thu hồi nợ tương đối đơn giản.
1.3.4 Bảo đảm bằng vàng
Bảo đảm bằng vàng là hình thức bảo đảm trong cho vay đối với cá nhân. Vàng
dùng làm tài sản bảo đảm được ký gửi và bảo quản tại ngân hàng. Phần lớn các ngân
hàng thương mại Việt Nam đều có nghiệp vụ kinh doanh vàng, đây là một thuận lợi
cho việc phân kim và định giá vàng, làm cơ sở xác định mức cho vay.
15
1.3.5 Bảo đảm bằng các khoản phải thu
Các khoản nợ của người thứ ba đối với khách hàng vay vốn được coi là tài sản
bảo đảm cho các khoản vay ngắn hạn.
Việc thực hiện bằng các khoản phải thu được thực hiện bằng hai cách:
 Bảo đảm không thông báo: Các khoản phải thu dùng làm bảo đảm chỉ có sự

thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn – chủ nợ của khoản phải thu, mà
không thông báo cho con nợ biết về sự cầm cố này. Theo cách này khách hàng vay
vốn cam kết sẽ chuyển giao cho ngân hàng khi con nợ thanh toán.
 Bảo đảm có thông báo: Theo cách cho vay này thì việc cầm cố khoản phải thu
phải thông báo cho con nợ biết và người này phải thanh toán khoản nợ trực tiếp cho
ngân hàng, thay vì thanh toán cho chủ nợ - người vay vốn.
1.3.6 Bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu
Các công ty xây dựng hoặc các công ty cung ứng thiết bị, vật tư có hợp đồng về
xây dựng hoặc hợp đồng cung cấp, nếu thiếu vốn để thực hiện hợp đồng có thể nhượng
lại hợp đồng đó cho ngân hàng để được tài trợ vốn ngắn hạn. Theo phương thức bảo
đảm này, sau khi hoàn thành thủ tục cầm cố hợp đồng thầu người nhận thầu chuyển
giao hợp đồng cho ngân hàng và thông báo cho bên thanh toán chi trả trực tiếp cho
ngân hàng theo các điều kiện thoả thuận trong hợp đồng. Theo định kỳ hoặc sau khi
kết thúc hợp đồng nhận thầu, ngân hàng và người nhận thầu đối chiếu các khoản tín
dụng đã cấp và các khoản thanh toán của chủ đầu tư để tất toán cho khoản vay.
Ngoài việc bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu chính, ngân hàng cũng có thể cho
vay bằng hợp đồng nhận thầu phụ, tức hợp đồng được ký kết giữa người nhận thầu
chính và người nhận thầu lại. Trong trường hợp này khoản thanh toán cho vốn vay
không phải từ chủ đầu tư mà từ người nhận thầu chính.
1.3.7 Bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Xuất phát từ việc giải quyết các tổn thất tài chính gắn liền với tử vong, thương tật
và hưu trí mà phần lớn các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vừa có ý nghĩa bảo vệ rủi ro
vừa là hình thức tiết kiệm. Tính chất tiết kiệm bao gồm trong hợp đồng bảo hiểm sẽ
giúp cho người thụ hưởng có một ngân quỹ trong tương lai. Nguồn ngân quỹ này
chính là cơ sở bảo đảm để thực hiện các quan hệ tín dụng.
Cho vay bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm áp dụng cho các cá nhân và trong một
số trường hợp cho các doanh nghiệp nhỏ. Đây là hình thức bảo đảm tương đối tiện lợi
16
vì tính thanh khoản cao và ít tốn kém về chi phí quản lý. Tuy nhiên, hình thức bảo đảm
này cần chú ý hai vấn đề sau: hợp đồng bảo hiểm có được phép chuyển nhượng không

và cách xử lý khi người đóng bảo hiểm vi phạm hợp đồng. Dựa vào hai cơ sở trên đây
để ngân hàng quyết định chấp nhận hợp đồng bảo hiểm làm bảo đảm, định giá trị bảo
đảm và thủ tục bảo đảm.
Chương 1 trình bày những lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản
và cầm cố tài sản trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng là cơ sở cho việc phân
tích thực trạng cấp tín dụng cầm cố hạt nhựa tại Ngân hàng TMCP Á Châu – chi
nhánh Ông Ích Khiêm ở chương 2.
17
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN PHẨM CHO VAY CẦM CỐ LÔ HÀNG
HẠT NHỰA TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
CHI NHÁNH ÔNG ÍCH KHIÊM
2.1 Giới thiệu sơ lược về ngân hàng TMCP Á Châu và chi nhánh Ông Ích
Khiêm
2.1.1 Giới thiệu ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)
2.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Á Châu
Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh về Ngân hàng thương mại (NHTM), hợp tác xã
tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990, đã tạo dựng một
khung pháp lý cho hoạt động NHTM tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó, ngân hàng
TMCP Á Châu (ACB) đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do Ngân
hàng Nhà nước cấp ngày 24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Uỷ ban Nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi
vào hoạt động.
 Tên gọi : Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
 Tên giao dịch quốc tế : Asia Commercial Bank
 Tên viết tắt : ACB
 Trụ sở chính : 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, TP. Hồ Chí
Minh
 Website : www.acb.com.vn
 Vốn điều lệ : 2.053.106.520.000 VND

 Giấy phép thành lập : Số 533/GP-UB do Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh cấp ngày 13/5/1993.
 Giấy phép hoạt động : Số 059067 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ
Chí Minh cấp cho đăng ký lần đầu ngày 19/5/1993,
đăng ký thay đổi lần thứ 10 ngày 11/5/2007.
 Mã số thuế : 0301452948
 Ngành nghề kinh doanh:
18
+ Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có
kỳ hạn, không kỳ hạn, tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của các tổ
chức trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác.
+ Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu
và giấy tờ có giá; hùn vốn và liên doanh theo luật định.
+ Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng.
+ Thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán quốc tế.
+ Huy động các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong
quan hệ với nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép.
+ Hoạt động bao thanh toán.
2.1.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh và định hướng phát triển
2.1.1.2.1 Hoạt động kinh doanh
Hầu hết các chỉ tiêu hoạt động năm 2007 đều vượt mức kế hoạch đặt ra từ đầu
năm. Theo đó, ACB vẫn đang duy trì vị thế ngân hàng đứng đầu khối ngân hàng
thương mại cổ phần về lợi nhuận, tổng tài sản, dư nợ tín dụng và tiền gửi khách hàng.
Đặc biệt, lợi nhuận tăng gấp 3 lần so với năm 2006, góp phần mang lại nguồn lợi
nhuận tích lũy đáng kể, nâng cao sức mạnh tài chính của ACB.
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
2007/2006
+/-

%
Tổng tài sản
44.650,00
85.392,00
40.742,00
91,20%
Huy động khách hàng
29.395,00
55.283,00
25.888,00
88,18%
Tổng dư nợ tín dụng
17.365,00
31.974,00
14.609,00
84,13%
Thu dịch vụ
173,00
343,00
170,00
98,27%
Lợi nhuận trước thuế
687,00
2.127,00
1.440,00
209,61%
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 của Ngân hàng TMCP Á Châu.
ACB có nguồn vốn ổn định phục vụ cho hoạt động kinh doanh trong thời gian tới
từ việc phát hành trái phiếu trung dài hạn trị giá 4.170 tỷ đồng. Với lãi suất thấp và
không chịu dự trữ bắt buộc, trái phiếu phát hành qua hai đợt năm 2007 đã đáp ứng

được yêu cầu vừa tăng trưởng nhanh vừa lợi nhuận cao.
19
2.1.1.2.2 Định hướng phát triển trong năm 2008
Môi trường hoạt động năm 2008 sẽ tiếp tục biến động theo chiều hướng rất phức
tạp, tạo ra cả cơ hội và thách thức cho các ngân hàng. Trên thế giới, kinh tế Mỹ có thể
suy thoái diện rộng kéo theo thâm hụt thanh khoản toàn cầu và khu vực, ảnh hưởng
xấu đến xuất khẩu của Việt Nam, gây khó khăn cho việc huy động vốn từ nước ngoài,
đồng thời đưa giá vàng vào xu thế tăng. Trong nước, các biện pháp đảm bảo tăng
trưởng và kiềm chế lạm phát sẽ làm hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu nhiều sức
ép và khó khăn. Sẽ có nhiều ngân hàng mới, bao gồm cả các ngân hàng nước ngoài
tham gia thị trường và cạnh tranh về thị phần, đặc biệt là thị phần huy động, sẽ quyết
liệt hơn. Thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản sẽ ngày càng quy củ hơn và
tiếp tục là nơi thu hút đầu tư xã hội.
Trong năm 2008, ACB tiếp tục thực hiện chiến lược kinh doanh xoay quanh 5
mục tiêu:
 Tăng trưởng nhanh và bền vững.
 Kiểm soát rủi ro tốt để đảm bảo an toàn.
 Duy trì cấu trúc tài chính lành mạnh và lợi nhuận cao.
 Chuẩn bị nhân lực kế thừa.
 Hoàn thiện văn hóa công ty.
Năm 2008 còn là năm tạo tiền đề cho việc hiện thực hóa kế hoạch 2008-2010 của
ACB: dự kiến năm 2010 tổng tài sản và dư nợ cho vay sẽ tăng gấp 3,6 lần, vốn chủ sở
hữu tăng gấp 2,5 lần và lợi nhuận trước thuế tăng gấp 3 lần so với năm 2007.
Để thực thi chiến lược này, năm 2008 ACB phấn đấu nâng chỉ tiêu hoạt động
(bao gồm tổng tài sản, dư nợ cho vay, huy động tiền gửi khách hàng và lợi nhuận) lên
gấp 1,6-2 lần so với năm 2007. Các chỉ số tài chính chủ yếu như ROE sẽ được duy trì
ở mức trên 30%, thu nhập ròng từ lãi/tổng tài sản bình quân 2,3%, thu nhập dịch vụ
tăng gấp đôi. Vốn chủ sở hữu sẽ tiếp tục tăng thông qua việc dùng toàn bộ lợi nhuận
chia cổ tức năm 2007 và thặng dư vốn 1.704 tỷ đồng để nâng vốn điều lệ, chuyển đổi
550 tỷ đồng trái phiếu đổi thành cổ phiếu, và phát hành thêm 1.350 tỷ đồng trái phiếu

chuyển đổi (đã thực hiện trong tháng 02/2008).
Ngoài ra, ACB còn thực hiện các chương trình và dự án trọng điểm, bao gồm:
 Triển khai mô hình bán hàng trực tiếp toàn hệ thống.
20
 Chuyển đổi cơ cấu tổ chức theo hướng tách bạch vai trò kinh doanh với vận
hành và tăng cường hệ thống kiểm tra kiểm soát.
 Giới thiệu thêm các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiết kiệm, vay vốn, và đầu tư của
khách hàng.
 Tăng trưởng mạng lưới cả về số lượng chi nhánh, phòng giao dịch và địa bàn
hoạt động.
Do môi trường kinh doanh của năm 2008 thay đổi nhanh như dự báo, ACB nhận
thức được yêu cầu linh hoạt trong xây dựng các chương trình hành động ngắn hạn phù
hợp với diễn biến của thị trường, quyết liệt trong việc triển khai các dự án trọng điểm
và tận dụng tốt cơ hội.
Với nỗ lực chung của tập thể ACB, 2008 sẽ là năm kết thúc một cách trọn vẹn
chương trình hành động 5 năm 2004-2008, đồng thời tạo tiền đề thực hiện chiến lược
kinh doanh 2008-2010 đầy tham vọng mà ACB đã đặt ra với tầm nhìn đến 2015.
2.1.2 Giới thiệu ngân hàng TMCP Á Châu – chi nhánh Ông Ích Khiêm
2.1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Á Châu – chi
nhánh Ông Ích Khiêm
Chi nhánh Ông Ích Khiêm được thành lập theo quyết định số 1493/NHNN –
HCM 02 ngày 11/07/2005 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 25/11/2005. Chi
nhánh toạ lạc tại số 132 Ông Ích Khiêm, phường 5, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
Số lượng nhân viên lúc mới đi vào hoạt động là 25 nhân viên, cùng với quá trình hoạt
động và phát triển số lượng nhân viên đã tăng, số nhân viên hiện nay là 40. Đa số nhân
viên tại Chi nhánh trẻ, năng động và nhiệt tình trong công việc.
Cho đến nay, Chi nhánh đã hoạt động được hơn 2 năm và đã đạt được nhiều
thành tựu như danh hiệu Chi nhánh đạt thành tích Giỏi hai năm liên tục 2006, 2007 và
nằm trong Top 20 trên 121 chi nhánh, phòng giao dịch của hệ thống Ngân hàng Á
Châu.

21
2.1.2.2 Sơ đồ bộ máy tổ chức tại ngân hàng TMCP Á Châu – chi nhánh Ông
Ích Khiêm

2.1.2.3 Tình hình hoạt động kinh doanh tại ngân hàng TMCP Á Châu – chi
nhánh Ông Ích Khiêm
2.1.2.3.1 Đặc điểm và tình hình chung
Chi nhánh Ông Ích Khiêm là một trong số những chi nhánh còn rất trẻ của hệ
thống Ngân hàng Á Châu. Tuy mới thành lập và hoạt động chỉ hơn 2 năm nhưng Chi
nhánh Ông Ích Khiêm đã luôn đạt được những thành tích tốt trong hoạt động và luôn
vượt chỉ tiêu được giao.
Ngành nghề kinh doanh chính của Chi nhánh Ông Ích Khiêm:
 Nhận tiền gửi bằng Việt Nam đồng, ngoại tệ, vàng.
 Cho vay phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
 Dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, chuyển tiền nhanh Western Union.
 Thu đổi ngoại tệ.
 Giao dịch vàng tại sàn (đang triển khai).
 Các dịch vụ thẻ quốc tế và thẻ nội địa (ACB Card).
 Các dịch vụ ngân hàng khác…
Chi nhánh Ông Ích Khiêm được kết nối trực tuyến với Hội sở và tất cả các đơn vị
trong hệ thống Ngân hàng Á Châu. Khách hàng của Chi nhánh Ông Ích Khiêm có thể
gửi tiền và rút tiền ở mọi nơi trong toàn hệ thống Ngân hàng Á Châu, được cung cấp
PHÒNG KINH DOANH
PHÒNG GIAO DỊCH VÀ
NGÂN QUỸ
GIÁM ĐỐC
BỘ PHẬN
TÍN
DỤNG


NHÂN

BỘ PHẬN
TÍN
DỤNG
DOANH
NGHIỆP
BỘ PHẬN
DỊCH VỤ
TÍN
DỤNG


BỘ PHẬN
PHÁP LÝ
CHỨNG
TỪ
BỘ
PHẬN
HÀNH
CHÍNH
BỘ
PHẬN
GIAO
DỊCH
BỘ
PHẬN
TTQT
BỘ
PHẬN

QUỸ
22
các dịch vụ qua ngân hàng điện tử (Home Banking, Phone Banking, Mobile Banking,
Internet Banking).
Nhìn chung, tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ông Ích Khiêm luôn
đạt kết quả tốt, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước và luôn vượt kế hoạch, tình hình
huy động và cho vay diễn biến tốt, tình hình nợ quá hạn rất tốt đa số các thời điểm đều
đạt mức 0% (tuỳ thời điểm nhưng luôn trong mức kiểm soát được của chi nhánh).
Chi nhánh Ông Ích Khiêm đang tích cực khai thác và phát huy tối đa những điểm
mạnh của chi nhánh như hiện tại chi nhánh đang dần xây dựng được hình được hình
ảnh đối với khách hàng trên địa bàn Quận 11, nơi có nhiều tiềm năng với số lượng
doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh hoạt động tốt, có mức tăng trưởng khả quan. Việc
theo sát chỉ tiêu của từng sản phẩm để có kế hoạch tiếp thị cụ thể đạt được hiệu quả tốt
như đối với khách hàng cá nhân, sản phẩm cho vay mua nhà ở và sữa chữa nhà phát
triển rất tốt với đối tượng chính là người sử dụng sau cùng, đối với khách hàng doanh
nghiệp, sản phẩm Bao thanh toán và Cho vay sản xuất, Tài trợ xuất nhập khẩu, Cho
vay cầm cố hạt nhựa phát triển khá mạnh với đối tượng chủ yếu là những doanh
nghiệp vừa có tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, chi nhánh có đội ngũ nhân viên có nghiệp
vụ tốt, tinh thần trách nhiệm cao, chất lượng phục vụ khách hàng và sự hỗ trợ nội bộ
tốt. Cùng với sự đa dạng cũng như chính sách tổng thể linh hoạt, kịp thời của hệ thống
Ngân hàng Á Châu đã giúp Chi nhánh Ông Ích Khiêm khẳng định thế mạnh cũng như
hình ảnh trên địa bàn và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh đó, Chi nhánh Ông Ích Khiêm vẫn đang nổ lực và có kế hoạch nhằm
khắc phục những điểm yếu nội tại về sự phát triển chưa đồng đều giữa các sản phẩm
như sản phẩm Cho vay tiêu dùng tín chấp cán bộ công nhân viên, Cho vay mua xe,
Cho vay du học, Cho vay dự án phát triển chưa mạnh; về vị trí toạ lạc của chi nhánh
nằm khuất trong hẻm nên việc nhận biết sự hiện diện của chi nhánh đối với khách
hàng còn chưa cao; về sự biến động nhân sự trong thời gian gần đây cũng gây không ít
khó khăn trong hoạt động của chi nhánh đặc biệt là đội ngũ nhân viên mới còn ít kinh
nghiệm.

2.1.2.3.2 Tình hình huy động vốn
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả, phát triển và
bền vững thì ngân hàng phải có một nguồn vốn đủ mạnh và ổn định để đáp ứng kịp
thời các nhu cầu vay vốn của khách hàng cùng với việc mở rộng hoạt động đầu tư của
23
ngân hàng. Do đó, công tác huy động vốn luôn được xem là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của Ngân hàng Á Châu nói chung và chi nhánh Ông Ích Khiêm nói riêng.
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp tình hình huy động tại Chi nhánh Ông Ích Khiêm
năm 2006-2007
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
2007/2006
Doanh số
Tỷ
trọng
(%)
Doanh
số
Tỷ
trọng
(%)
+/-
%
1
Khách hàng
cá nhân, DNTN
245.299

85%
516.200
83%
270.901
110,44
%
2
Khách hàng
doanh nghiệp
43.356
15%
108.100
17%
64.744
149,33
%
Tổng huy động
288.356
100%
624.300
100%
335.944
116,5%
Nguồn: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ông Ích Khiêm năm 2006-2007.
 Hoạt động huy động vốn của chi nhánh chủ yếu huy động từ đối tượng khách
hàng cá nhân và doanh nghiệp tư nhân, chiếm tỷ trọng lớn năm 2006 là 85% năm 2007
là 83%, trong khi đó tỷ trọng của đối tượng khách hàng là doanh nghiệp chỉ chiếm
thấp hơn nhiều năm 2006 là 15% năm 2007 là 17%. Điều này cũng dễ hiểu, vì nguồn
vốn của doanh nghiệp chủ yếu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên số dư
tiền gửi trên tài khoản của đối tượng này thường không cao và chủ yếu là số dư trên tài

khoản tiền gửi thanh toán và ký quỹ. Trong khi, đối với khách hàng là cá nhân thì số
dư tài khoản của của họ chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm nên số dư này luôn được duy trì
cao và ngày càng tăng.
 Huy động từ khách hàng cá nhân và doanh nghiêp tư nhân năm 2007 tăng
270.901 triệu đồng so với năm 2006 (tăng 110,44%), chủ yếu là do số dư Tiền gửi tiết
kiệm tăng cao, số dư Tiền gửi thanh toán còn tương đối thấp chưa đạt mức kế hoạch
đặt ra và tỷ trọng tiền gửi của doanh nghiệp tư nhân còn thấp.
 Huy động doanh nghiệp năm 2007 tăng 64.744 triệu đồng so với năm 2006
(tăng 149,33%). Do nguồn tiền gửi của khách hàng doanh nghiệp có tính ổn định
không cao. Đồng thời, do cơ cấu nợ vay hiện tại của chi nhánh là doanh nghiệp vừa và
nhỏ có nhu cầu vay cao nên số dư duy trì trên tài khoản của khách hàng không nhiều.
24
 Nhìn chung, tình hình huy động vốn của chi nhánh vẫn tăng đều qua các kỳ
hoạt động, cụ thể năm 2007 tăng 335.944 triệu đồng so với năm 2006 (tăng 116,5%).
 Sau hơn hai năm hoạt động, chịu sự cạnh tranh của rất nhiều chi nhánh khác
trong cùng hệ thống Ngân hàng Á Châu cũng như sự cạnh tranh gay gắt của các chi
nhánh thuộc những ngân hàng TMCP khác hoạt động trong cùng địa bàn với số lượng
ngày càng nhiều; bên cạnh còn có những yếu tố khách quan khác như vị trí của chi
nhánh nằm trong hẻm không được thuận lợi, khách hàng trên địa bàn quận 11 đa số là
người Hoa chủ yếu giao dịch tiền mặt, ít giao dịch tài khoản, hiểu biết về các sản phẩm
ngân hàng không nhiều cùng khuynh hướng duy trì quan hệ ổn định, lâu dài với các
ngân hàng đã giao dịch lâu năm và người Hoa cũng rất cẩn thận, thường so sánh lãi
suất giữa các ngân hàng nhưng Chi nhánh Ông Ích Khiêm vẫn thu hút được một lượng
tiền huy động tương đối lớn. Kết quả đạt được cho thấy, chi nhánh tuy còn rất non trẻ
nhưng đã bắt kịp đà phát triển chung của ACB. Đó là nỗ lực không ngừng của lãnh
đạo cùng toàn thể nhân viên tại Chi nhánh Ông Ích Khiêm, luôn có những kế hoạch,
chính sách hoạt động đúng đắn, phù hợp, luôn thể hiện sự năng động, nhiệt tình, chu
đáo và luôn tạo nên sự khác biệt, ấn tượng tốt đẹp với khách hàng đến giao dịch tại chi
nhánh.
2.1.2.3.3 Hoạt động tín dụng

Tín dụng cũng như huy động là những hoạt động chủ yếu của một ngân hàng. Sự
chuyển hoá từ vốn tiền gửi sang vốn tín dụng để phục vụ cho các nhu cầu trong xã hội
nói chung và bổ sung vốn lưu động sản xuất kinh doanh nói riêng không những tạo ra
lợi nhuận trong nền kinh tế mà còn mang ý nghĩa đặc biệt đối với ngân hàng, bởi vì,
lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động kinh doanh của một ngân hàng là từ tín dụng, đó cũng
là nguồn thu nhập chính để bồi hoàn lại nguồn tiền gửi huy động từ khách hàng và bù
đắp những chi phí trong hoạt động kinh doanh.
Tình hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ông Ích Khiêm như sau:
25
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp tình hình hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ông
Ích Khiêm năm 2006-2007
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
2007/2006
Doanh số
Tỷ trọng
(%)
Doanh
số
Tỷ
trọng
(%)
+/-
%
1
Khách hàng
cá nhân, DNTN

90.869
51%
254.000
62%
163.131
179,52%
2
Khách hàng
doanh nghiệp
88.400
49%
156.500
38%
68.100
77,04%
Tổng cho vay
179.269
100%
410.500
100%
231.231
128,99%
Nguồn: Kết quả hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ông Ích Khiêm năm 2006-2007.
 Tỷ trọng giữa hai đối tượng khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp tư nhân và
khách hàng doanh nghiệp mà chi nhánh hiện đang cung cấp dịch vụ tín dụng là tương
đối cân bằng, tỷ lệ năm 2006 là 49% và 51%, sang năm 2007 tỷ lệ này có sự thay đổi
là 38% và 62%. Sự thay đổi tỷ lệ này là vì dư nợ của đối tượng khách hàng doanh
nghiệp giảm sút do tình hình nguồn vốn của họ vào cuối năm có biến động nên giảm
dư nợ vay đáng kể, nên sự thể hiện này có phần không chính xác. Nhưng ta có thể thấy
được qua số liệu của năm 2006, tỷ trọng phân phối giữa khách hàng cá nhân, doanh

nghiệp tư nhân và khách hàng doanh nghiệp tương đối cân bằng và trong quý I/2008
thì con số này lại được cân bằng trở lại sau biến động vào cuối năm 2007 và tỷ trọng
như sau 58% và 42%. Có thể nói rằng, hiện tại mức độ phục vụ của chi nhánh đối với
hai đối tượng khách hàng trên là tương đối cân bằng. Nhưng trong tương lai, Ban lãnh
đạo chi nhánh có kế hoạch phát triển mạnh hoạt động tín dụng phục vụ đối tượng
khách hàng doanh nghiệp, xây dựng bộ phận tín dụng doanh nghiệp là bộ phận kinh
doanh mạnh nhất và mang lại nguồn lợi nhuận nhiều nhất cho chi nhánh.
 Dư nợ cho vay đối với khách hàng cá nhân và doanh nghiệp tư nhân năm 2007
tăng 163.131 triệu đồng so với năm 2006 (tăng 179,52%) và vượt kế hoạch trong năm
9.284 triệu đồng (vượt 3,97%). Tình hình phát triển của tín dụng cá nhân khá đồng đều
và dư nợ đều tăng theo sản phẩm.

×