Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN CHO TỈNH TRÀ VINH ĐẾN NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 81 trang )

B GIÁO DC VÀ ÀO TO
TRNG I HC KINH T TP.HCM






NGUYN TH L












LUN VN THC S KINH T










TP. H Chí Minh – Nm 2003



MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
2. Nội dung - mục tiên nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU SƠ LƯC VỀ TÌNH HÌNH KT - XH CÙNG CÁC
CHÍNH SÁCH ĐỊNH HƯỚNG CỦA TỈNH
1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
1.1. Vò trí đòa lý
1.2. Thành tựu kinh tế - xã hội
2. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG ĐẦU VÀO VÀ ĐẦU RA CHO
HÀNG HÓA NÔNG SẢN CỦA TỈNH TRÀ VINH
2.1. THÔNG TIN CHUNG VỀ HO
2.2. CÁC NGUỒN ĐẦU VÀO TRONG SX NÔNG NGHIỆP
2.2.1.Thò trường phân bón-thuốc dùng trong sản xuất nông nghiệp
2.2.2.Thò trường thức ăn cho gia súc gia cầm
2.2.3. Thò trường cây giống và con giống
2.2.4. Hình thức thanh toán cho các nguồn đầu vào
2.2.5. Lý do mua chòu
2.2.6. Cách thức mua các nguồn đầu vào
2.2.7. Lý do chọn nơi mua

* TÓM TẮT KÊNH THỊ TRƯỜNG ĐẦU VÀO TRONG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
2.3. TÌNH HÌNH THU HOẠCH NÔNG SẢN pẨM
2.3.1. Các loại sản phẩm nông nghiệp
2.3.2. Sản lượng thu hoạch và giá bán
1
1
2
2
3

4
4
4
6
7

9
9
14
14
17
20
23
25
26
29

31
32

32
33
33


Trang
1
2.3.3. Thu hoạch vật nuôi
2.4. THỊ TRƯỜNG ĐẦU RA CỦA NÔNG SẢN
2.4.1. Phương thức bán của nông dân
2.4.2. Phương tiện chở đi bán
2.4.3. Đối tượng và nguồn gốc người mua
2.4.4. Phương thức thanh toán của người mua
2.4.5. Cách liên hệ để người mua đến mua sản phẩm
2.4.6. Lý do bán cho các đối tượng
2.4.7. Khó khăn trong quá trình bán ra
* TÓM TẮT KÊNH THỊ TRƯỜNG ĐẦU RA TRONG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
H
ƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG NÔNG THÔN TRÀ VINH ĐẾN NĂM 2010
1
. NHỮNG THUẬN LI - KHÓ KHĂN CỦA NÔNG HỘ Ở TỈNH TRÀ
VINH TRONG SẢN XUẤT
3.1.1. Những thuận lợi
3.1.2. Những khó khăn
2
. MA TRẬN SWOT - THỊ TRƯỜNG ĐẦU VÀO VÀ ĐẦU RA
3
. CÁC GIẢI PHÁP MARKETING NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT

TRIỂN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN TỈNH ĐẾN NĂM 2010
3.3.1. Thò trường đầu vào
3.3.2. Thò trường đầu ra
I
ẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬ
N

1. KIẾN NGHỊ
1.1. Đối với Trung Ương
1.2. Các ban ngành có liên quan ở Tỉnh
1.3. Bản thân người nông dân
2. KẾT LUẬN
2.1. Thò trường đầu vào
2.2. Thò trường đầu ra
TÀI LIỆU THAM KHẢO

35
35
37
38
39
41
42
43

44

45

45

45
45
46

49
50
53
56
56
56
56
56
57
57
58

Trang
2
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Nước ta nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống quan trọng trong nền
kinh tế, cung cấp những sản phẩm thiết yếu như lương thực, thực phẩm cho con
người và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Trong quá
trình phát triển kinh tế, nông nghiệp cần được phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về lương thực, thực phẩm của xã hội, sự ổn đònh xã hội và mức an toàn
về lương thực của xã hội phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nông nghiệp.
Thực tế trong thời gian qua, kinh tế nông nghiệp góp phần to lớn trong tổng
sản phẩm quốc dân, thu hút phần lớn lực lượng lao động của cả nước và lónh vực
này. Do vậy, nghiên cứu về nông nghiệp bao gồm rất nhiều khía cạnh và lónh
vực. Tuy nhiên, trong đó thò trường nông nghiệp và nông thôn là quan trọng và

đòi hỏi phải được xem xét kỹ lưỡng. Bởi cho đến nay, thò trường ở nông thôn
chỉ mới bắt đầu được hình thành, chưa đồng bộ, còn nhiều hạn chế đối với quá
trình sản xuất. Người nông dân, các tổ chức sản xuất nông nghiệp muốn tạo ra
được nông sản thì nhất thiết phải có các yếu tố đầu vào như đất, nước, giống,
lao động, vốn, vật tư, kỹ thuật, thiết bò, công nghệ Đến khi thu hoạch họ lại
lo toan đầu ra cho sản phẩm của mình. Thử nghó nếu không có hay thiếu các
dòch vụ cung ứng đầu vào hoặc các đầu mối tiêu thụ nông sản bò ách tắc thì
người nông dân chòu thiệt thòi và gặp khó khăn trong sản xuất là không thể
tránh khỏi.
Nhận thức được tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp, xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn, tôi nhận thấy đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát
triển thò trường nông sản cho tỉnh Trà Vinh đến năm 2010”. Cần được
nghiên cứu để giải quyết vấn đề khó khăn nhất trong sản xuất nông nghiệp
hiện nay, góp phần giúp phát triển kinh tế Việt Nam nói chung, kinh tế nông
nghiệp Tỉnh Trà Vinh nói riêng. Đưa nền kinh tế nông nghiệp nước ta thực
Trang
3
hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông thôn thời kỳ
2001 - 2010.
2. Mục tiêu - nội dung nghiên cứu
+ Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung nhất của đề tài là nghiên cứu thực trạng cùng với những
thuận lợi, khó khăn thuộc về nhân tố thò trường trong sản xuất nông nghiệp, từ
đó đưa ra một số giải pháp đònh hướng phát triển thò trường nông sản cho Tỉnh
đến năm 2010.
Mục tiêu cụ thể:
- Đưa ra các giải pháp khả thi giúp cho các hộ sản xuất nông nghiệp tìm
nguồn đầu vào, và thò trường tiêu thụ nông sản một cách có hiệu quả, nhằm tăng
thu nhập đảm bảo ổn đònh cuộc sống.
- Đề tài là căn cứ khoa học giúp: Ngân hàng, sở nông nghiệp, phòng nông

nghiệp, các nhà hoạch đònh chính sách cùng các cửa hàng vật tư, thức ăn, con
giống, mạng lưới thu mua, Có những cơ sở để hỗ trợ kòp thời các hộ sản xuất.
+ Nội dung nghiên cứu:
- Tìm hiểu sơ lược đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh.
- Phân tích, đánh giá tình hình mua các yếu tố phục vụ cho quá trình sản
xuất, trồng trọt và chăn nuôi như: giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc
trừ sâu cho cây trồng, thức ăn cho gia súc gia cầm.
- Đánh giá tình hình thu hoạch và bán nông sản của nông hộ.
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc mua vào vật tư nông
nghiệp cho sản xuất cũng như bán ra nông sản của nông hộ.



Trang
4
3. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp thu thập số liệu:
- Dữ liệu sơ cấp: Thông qua xây dựng bảng câu hỏi, phỏng vấn trực tiếp 928
hộ nông dân trong 7 Huyện và 1 Thò Xã của Tỉnh để thu thập dữ liệu.
- Dữ liệu thứ cấp: Thu thập từ các báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Tỉnh,
Huyện, niên giám thống kê, các sách, báo, tạp chí có liên quan đến quá trình sản
xuất và tiêu thụ trong nông nghiệp
+ Phương pháp xử lý số liệu:
Số liệu thu thập xong sẽ được kiểm tra, tiến hành hiệu chỉnh, sàng lọc, mã
hóa và xử lý bằng phần mềm chuyên ngành “SPSS for Windows 10.0” kết hợp
với kỹ thuật thống kê. Sự phân tích, nhận xét, đánh giá được thực hiện theo
phương pháp suy luận khoa học cùng với so sánh, đối chiếu với thực tế và thiết
lập các biểu bảng, biểu đồ, sơ đồ, ma trận minh họa cho những vấn đề nghiên
cứu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Khi nghiên cứu về thò trường nông thôn mà thế mạnh của nó là thò trường hàng hóa nông
sản, thì có rất nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải nghiên cứu. Tuy nhiên, trong đề tài này do
thời gian cho phép có hạn, cùng với những nhân tố khách quan khác tác động, cho nên đề tài
chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở 928 hộ nông dân thuộc 7 Huyện và 1 Thò Xã của Tỉnh Trà
Vinh, đồng thời đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu hai “công đoạn chính” thuộc quá trình sản
xuất của họ, đó là mua vào các tư liệu sản xuất và bán ra các sản phẩm nông sản. Do tính chất
của đề tài, vì đối tượng phỏng vấn là nông dân, do trình độ của họ có hạn cho nên có một số
câu hỏi trong bảng câu hỏi họ trả lời phần nào thiếu chính xác. Cùng với các yếu tố kỹ thuật
trong sản xuất nông nghiệp, và các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội không được đề cập sâu trong
chuyên đề này.
Trang
5
Cụ thể bố cục của đề tài bao gồm các phần sau:
Chương 1: Giới thiệu sơ lược về tình hình kinh tế xã hội cùng các đònh hướng
chính sách của tỉnh
Chương 2: Thực trạng thò trường đầu vào, đầu ra cho hàng hóa nông sản của tỉnh
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển thò trường hàng nông
sản cho tỉnh Trà Vinh đến năm 2010.





















Trang
6
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU SƠ LƯC VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ -
XÃ HỘI CÙNG CÁC CHÍNH SÁCH ĐỊNH HƯỚNG CỦA TỈNH
TRÀ VINH
1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
1.1. Vò trí đòa lý
Tỉnh Trà Vinh là tỉnh thuộc về Miền Tây Nam Bộ, và là một trong những tỉnh nghèo
nhất ở ĐBSCL. Phía Bắc giáp sông Tiền, phía Nam giáp sông Hậu và hai nhánh của Sông
Cửu Long, phía Đông giáp biển Đông, chiều dài của bờ biển là 65 km, phía Tây giáp Tỉnh
Vónh Long. Trà Vinh là một Tỉnh vùng sâu, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp,
chậm phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, giao thông cách trở, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
trình độ dân trí thấp, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn rất hạn chế.
Trà Vinh có tổng diện tích tự nhiên là 236.936 ha, bao gồm đất nông nghiệp 175.000 ha;
lúa 120.000 ha, màu và cây công nghiệp 8.019 ha, cây ăn trái 36.116 ha, đất mặt nước thủy
sản chiếm 19.896 ha đây là điều kiện thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Sản lượng lúa
hiện đạt trên 1 triệu tấn/năm.
Trong tỉnh có 7 huyện và một thò xã, mỗi huyện có vò trí đòa lý khác nhau chính vì vậy mà
mỗi một vùng trong tỉnh có đặc thù riêng biệt hoàn toàn không giống nhau: hai huyện Duyên
Hải và Cầu Ngang có dãy đất đồng bằng ven biển, không có núi đồi, độ cao trung bình từ 2 -3
m so với mực nước biển. Khi đó các huyện như Cầu Kè, Tiểu Cần, Trà Cú có một số dãy đất
gợn lên như lớp sóng gọi là “gò”, hoặc “giồng”, đất ở vùng này thường là cát pha sét nên rất

có lợi thế cho việc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày như cây lạc, đậu phộng, mía và
một số loại hoa màu khác, đa số người dân tộc sinh sống ở những vùng này. Các huyện còn
lại như huyện Châu Thành, Càng Long và Thò Xã nằm trên trục lộ tiếp nối với các tỉnh, và
nằm rất gần ở trung tâm của tỉnh nên rất thuận lợi cho việc phát triển các loại hình dòch vụ -
thương mại, hoạt động này năng động với cơ chế thò trường, kinh doanh đa dạng những ngành
hàng phát triển mạnh như đại lý xe gắn máy, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, vật tư xây
dựng, vàng bạc, mặt khác còn có điều kiện tốt cho việc sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp. Qua đó thấy được trong tỉnh mỗi vùng có đặc thù riêng biệt về khí hậu, vò trí đòa lý, vì
thế mỗi huyện có tiềm lực kinh tế, xã hội khác nhau, đã tạo nên cơ cấu kinh tế của tỉnh Trà
Vinh đa dạng và phong phú bao gồm nhiều lónh vực.
Trang
7
Trà Vinh có mạng lưới sông rạch chằng chòt, phân bố tương đối đều đặn. Mạng lưới sông
rạch và kênh đào được phân chia làm 3 hệ thống: Hệ thống thứ nhất đổ ra biển nằm trên đòa
bàn Huyện Duyên Hải, hệ thống thứ hai: sông rạch đổ ra sông Cổ Chiên nằm trên đòa bàn Thò
Xã Trà Vinh, chảy dài qua các Huyện Càng Long, Châu Thành, Cầu Ngang, hệ thống thứ ba:
đổ ra sông hậu nằm trên đòa bàn của Huyện Cầu Kè tiếp nối đến huyện Tiểu Cần và Trà Cú.
Các hệ thống sông rạch và kênh đào nói trên giao nhau, tạo nên một mạng lưới lưu thông và
điều hòa thủy mực các nguồn nước. Tính trung bình cứ 100 m2 diện tích tự nhiên có tới 10 m
2

diện tích mặt nước. Mạng lưới sông rạch như vậy, có ý nghóa cực kỳ quan trọng trong việc tưới
tiêu, cung cấp nguồn phù sa, nuôi trồng thủy sản cả nước ngọt lẫn nước lợ và giao thông
đường thủy.
Trà Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nóng ẩm quanh năm
và chia ra hai mùa rõ rệt. Lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600 mm. Số giờ nắng trung bình
mỗi năm 2.600 giờ. Nhiệt độ trung bình năm từ 25
0
C đến 27
0

C, độ ẩm trung bình năm
80-85%.
Với điều kiện tự nhiên như vậy Trà Vinh có các nguồn lợi thiên nhiên như sau:
+ Bờ biển dài 65 km và 3.757 km
2
thềm lục đòa, ngư trường với 1,2 triệu tấn, trữ lượng
khai thác 630.000 tấn/năm, khả năng khai thác 50.000 - 55.000 tấn/năm
+ Trên 40.000 ha đất bồi dọc theo bờ biển
+ Hơn 24.000 ha đất ngập mặn có thể chuyển sang nuôi tôm
+ Nằm giữa hai con sông lớn với hệ thống sông rạch chằng chòt, gần 23.000 ha mặt nước
tự nhiên có thể nuôi tôm cá.
+ Với 117.232 ha ruộng lúa thích hợp cho nuôi tôm càng xanh
+ Dọc theo hai con sông lớn có thể nuôi nghêu, sò huyết, cua
Đặc điểm tự nhiên của Tỉnh rất thuận lợi trong việc phát triển ngành nông nghiệp, nhất là
hình thức trồng trọt kết hợp với nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.
Trang
8
1.2. Thành tựu kinh tế - xã hội
Nhìn chung, tình hình kinh tế xã hội của Tỉnh trong những năm đầu sau giải phóng đến
năm 1992 còn ở tình trạng thấp kém, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp với độc canh cây lúa, sản
xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu đời sống của nông dân không
ổn đònh, trên 30 % hộ dân thường xuyên phải cứu đói lúc giáp hạt, cơ sở nông nghiệp tiểu thủ
công nghiệp chậm phát triển, lạc hậu, cơ sở hạ tầng tiếp quản từ chế độ cũ càng xuống cấp và
chưa được quan tâm đầu tư mới cũng chính trong năm 1992 Trà Vinh tách khỏi tỉnh Vónh
Long hoạt động thành một tỉnh độc lập cho nên gặp rất nhiều khó khăn, đời sống đại đa số
nhân dân, nhất là nông dân thu nhập rất thấp, không đủ sống.
Từ thực trạng trên, Tỉnh xác đònh phải phát triển kinh tế của Tỉnh, nâng cao đời sống
nhân dân phải tập trung khai khác đúng tiềm năng nông nghiệp, thủy sản, làm cơ sở cho việc
phát triển công nghiệp, du lòch. Với đònh hướng đúng cùng sự quan tâm hỗ trợ của Trung
Ương và sự nỗ lực phấn đấu vượt mọi khó khăn của Đảng bộ và nhân dân trong Tỉnh, tình

hình kinh tế xã hội của Tỉnh đã từng bước phát triển.
+ Kinh tế:
Nhòp độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh có bước phát triển khá, cụ thể tốc độ phát triển giá trò
sản xuất của tỉnh năm 2001 so với 2000 đạt 109,69%, tăng 9,69% trong đó nông nghiệp tăng
2,43%, lâm nghiệp tăng 4,35%, thủy - hải sản tăng 16,59%, công nghiệp tăng 14,57%, xây
dựng tăng 36,1%, và dòch vụ tăng 16,43%. Còn tốc độ phát triển về giá trò GDP mỗi năm đều
gia tăng 8,6% năm 2001 so với 2000. Cơ cấu kinh tế của tỉnh có một bước chuyển dòch đáng
kể phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa. So với năm 1992, GDP năm 2001
tăng gấp 2 lần.Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ 61,7 % năm 1992 còn 50 % năm
2001, giá trò công nghiệp tăng từ 7,82 % lên 12 %, giá trò thủy sản từ 12,6 % lên 16 %, giá trò
dòch vụ từ 15,82 %; lên 22 %. Rõ ràng chỉ sau 10 năm tỉnh đã có nhiều thay đổi vượt bậc tốc
độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Về cơ cấu kinh tế của tỉnh năm 2001 dòch vụ chiếm tỷ trọng:
22,71% tăng 1,5% so với năm 2000, về công nghiệp xây dựng chiếm: 3,99% tăng 0,75 %,
nông nghiệp chiếm 53,03% giảm 3,29% so với năm 2000, thủy sản chiếm: 11,84% tăng
0,78%, dòch vụ cũng tăng 1,5%, còn lâm nghiệp giảm một lượng không đáng kể 0,08%.
Trang
9
- Sản xuất nông nghiệp, nhờ đầu tư cho thủy lợi, ngọt hóa hơn phân nửa vùng đất bò
nhiễm mặn, diện tích gieo trồng hàng năm đều tăng cùng với ứng dụng, chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật, cải tạo giống cây trồng, chuyển đổi mùa vụ, nên đã phá được thế độc
canh cây lúa, xóa được nạn đói lúc giáp hạt, sản lượng tăng gấp đôi so năm 1992 (449.000 tấn
lên trên 1 triệu tấn với trên 400.000 tấn lúa để xuất khẩu), giá trò sản xuất bình quân tăng 5,46
% năm.
- Về thủy sản tiềm năng của một Tỉnh ven biển. Tỉnh đã tập trung phát triển nghề nuôi
trồng và khai thác hải sản xa bờ, phát triển phong trào nuôi tôm sú, mô hình nuôi tôm càng
xanh, cá nước ngọt kết hợp trồng lúa, giá trò nuôi trồng và khai thác thủy hải sản tăng bình
quân 14,65 %/năm, thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh.
- Về công nghiệp, có một bước đổi mới về công nghệ sản xuất theo hướng phát triển
mạnh công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông ngư nghiệp như chế biến thủy sản đông
lạnh, chế biến mía đường, lương thực, dừa, khôi phục một bước ngành nghề truyền thống như

đồ gốm, thủ công mỹ nghệ đặt biệt là sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thủ công: đan chiếu,
thảm các loại, các đồ dùng từ thân dừa tạo việc làm cho nông dân lúc nhàn rỗi
- Dòch vụ thương mại và xuất khẩu có sự chuyển biến về khai thác thò trường và xác đònh
mặt hàng chủ lực hỗ trợ cho việc phát triển sản xuất.
+ Về xã hội:
Cùng với việc thay đổi nhanh bộ mặt nông thôn thông qua việc đầu tư cơ sở hạ tầng, Tỉnh
đã quan tâm chăm lo đời sống nhân dân với các chương trình mục tiêu cụ thể: giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, chăm lo sức khỏe cộng
đồng Kết quả là đời sống của đại đa số nhân dân từng bước được nâng lên, khắc phục được
nạn đói lúc giáp hạt, giảm hộ nghèo xuống còn khoảng 15 % hộ dân trong toàn Tỉnh. Chất
lượng các hoạt động văn hóa, giáo dục, giải quyết việc làm, y tế, thể dục thể thao không
ngừng được nâng lên. Hoàn thành công tác phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ; 84/94
xã, phường, thò trấn có trạm xá, hơn 65 % hộ dân có nước sạch sinh hoạt, 82/94 xã phường thò
trấn có điện lưới quốc gia, 40 % hộ dân có điện sử dụng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất,
xây dựng gần 2.000 km lộ giao thông liên xã, liên Huyện, xóa gần 1.000 cầu khỉ nông thôn hạ
Trang
10
tỷ lệ tăng dân số bình quân mỗi năm khoảng 0,1 %, tạo một bước chuyển biến tích cực trong
đời sống xã hội nông thôn.
2. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH
Từ đây đến năm 2005 và đònh hướng đến năm 2010 phải tạo sự chuyển biến tích cực để
khai thác có hiệu quả tiềm năng to lớn về đất đai, lao động, tiền vốn ở nông thôn, đưa nông
nghiệp - nông thôn sang hướng phát triển mới toàn diện. Để đạt mục tiêu trên, kế hoạch của
UBND Tỉnh xác đònh giải pháp ưu tiên hàng đầu là phải tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn như thủy lợi, giao thông nông thôn, cơ sở dòch vụ hậu cần, đầu tư chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, ứng dụng và chuyển giao nhanh, có hiệu quả tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, dòch vụ, quản lý, phát triển và mở rộng thò trường tiêu thụ nông sản Hiệu quả
của đầu tư này sẽ mở ra bước phát triển mới cho kinh tế nông - ngư nghiệp và xã hội nông
thôn như sau:
- Đầu tư đồng bộ hệ thống thủy lợi, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả dự án Nam Măng

Thít của chính phủ, khai khát hết tiềm năng của diện tích trồng lúa, đất xen canh lúa màu,
đến năm 2010 chủ động tưới tiêu cả mùa mưa và mùa khô, nâng sản lượng lương thực từ
1.243.000 tấn năm 2005 lên 1.400.000 tấn năm 2010, ngoài đáp ứng nhu cầu lương thực trong
Tỉnh, còn có thể cung cấp lúa 700.000 đến 900.000 tấn mỗi năm.
- Đầu tư cho lónh vực thủy sản làm cơ sở cho việc nuôi thủy sản có giá trò cao (nhất là tôm
sú) sẽ phát triển ổn đònh, giảm thiểu các rủi ro trên cơ sở đầu tư quy hoạch phân vùng, đầu tư
hệ thống thủy lợi - thoát nước, nhà máy cung cấp thức ăn nuôi tôm, công nghệ nuôi tôm, sản
xuất và cung ứng giống, phòng trừ dòch bệnh và bảo vệ môi trường Tăng cường đầu tư phát
triển đánh bắt xa bờ lên 440 chiếc vào năm 2010, nâng sản lượng từ 92.000 tấn năm 2000
(nuôi trồng 36.000 tấn) lên 161.000 tấn năm 2010 (nuôi trồng 81.000 tấn) đáp ứng cho nhu
cầu chế biến xuất khẩu.
- Kết hợp với hệ thống thủy lợi là đầu tư giao thông nông thôn, nhất là các vùng sâu, vùng
xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ, xây dựng hoàn chỉnh các cụm xã kết hợp với đầu tư các dòch
vụ hậu cần cho sản xuất nông nghiệp, các nhà máy công nghiệp chế biến gần với tiêu thụ sản
phẩm nông - ngư nghiệp, thúc đẩy sản xuất nông - ngư nghiệp phát triển giải quyết việc làm
cho nông dân trong mùa nhàn, các hộ không đất, tạo sự chuyển dòch về cơ cấu lao động trong
Trang
11
nông - ngư nghiệp cũng như đất đai, tiền vốn Thay đổi một cách cơ bản bộ mặt đời sống xã
hội nông thôn.
- Từ sự phát triển của nông nghiệp - thủy sản nêu trên sẽ là cơ sở cho việc giải quyết
những vấn đề xã hội bức xúc của Tỉnh như: giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm
nghèo, thay đổi căn bản bộ mặt xã hội nông thôn. Sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nông thôn sẽ
thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển của công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, sự phát triển
của ngành dòch vụ hậu cầu cho nông nghiệp, thủy sản và nhất là xuất khẩu có những mặt
hàng chiến lược, có giá trò kinh tế cao.




















Trang
12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG ĐẦU VÀO VÀ ĐẦU
RA CHO HÀNG HÓA NÔNG SẢN CỦA TỈNH TRÀ VINH
2.1. THÔNG TIN CHUNG VỀ HỘ
Để đảm bảo tính ngẫu nhiên, đại diện đồng thời dữ liệu thu thập được có sự
chính xác cao, trong quá trình điều tra các hộ, đề tài sử dụng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên phân tầng. Phương pháp chọn mẫu này sẽ giúp giải quyết việc
chia nhỏ tổng thể một cách thích hợp nhằm tạo điều kiện chọn mẫu dễ dàng hơn,
đại diện hơn, tăng tính chính xác của kết quả khảo sát và nghiên cứu. Trong quá
trình lấy mẫu, do đặc trưng của Tỉnh Trà Vinh có nhiều dân tộc sinh sống, nên
tổng số mẫu của hộ người dân tộc Kinh chiếm 68,3 %, dân tộc Khmer chiếm
31,7 %, với tỷ trọng này thì chúng ta thấy nó mang tính đại diện khác cao, đồng
thời còn phù hợp với cơ cấu dân tộc chung của Tỉnh. Về số mẫu được chọn ra ở
mỗi Huyện của Tỉnh được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 1: Số mẫu điều tra chia theo Huyện
Huyện/Xã Hộ (người) Phần trăm
(%)
1. Cầu Ngang
2. Châu Thành
3. Tiểu Cần
4. Trà Cú
5. Cầu Kè
6. Duyên Hải
7. Càng Long
8. Thò Xã
266
245
93
84
79
77
49
35
28,7
26,4
10,0
9,1
8,5
8,3
5,3
3,8
Tổng 928 100
Nguồn: Kết quả phỏng vấn điều tra trực tiếp
Trong tổng số mẫu, tỷ lệ mẫu ở Huyện Cầu Ngang chiếm cao nhất: 28,7% do

đặc thù về vò trí và đòa lý của huyện nên đa số người dân nơi này sống bằng
Trang
13
nghề nông, là nghề truyền thống của ông cha ta, kế đến là Huyện Châu Thành
chiếm 26,4%. Số mẫu ở Thò Xã chiếm 3,8% bởi vì Thò Xã là trung tâm kinh tế
thương mại của Tỉnh nên phần lớn người dân ở đây tham gia vào hoạt động
thương mại- dòch vụ, và sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là chính,
còn hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ, chỉ có ở vùng xa trung tâm
Thò Xã. Số mẫu còn lại phân bố đều cho các Huyện Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Kè,
Duyên Hải, Càng Long. Ngoài ra, một nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến đời sống
văn hóa kinh tế của các nông hộ, đó chính là trình độ học vấn.









Bảng 2: Trình độ học vấn của các nông hộ
Trình độ học vấn Hộ (người) Phần trăm (%)
- Không biết chữ
- Cấp 1
- Cấp 2
- Cấp 3
78
371
308
111

9,0
42,7
35,5
12,8
0
20
40
60
80
100
Tỷ trọng (%)
81.7
40
18.4
16.5
Nguồn: Kết quả phỏng vấn điều tra trực tiếp
Vì Trà Vinh là một tỉnh vùng sâu, người nông dân chỉ học hết cấp 1 với tỷ lệ
là 42,7%, số người học hết cấp 2 chiếm tỷ lệ tương đối 35,5%. Bên cạnh đó số
người học hết cấp 3 chiếm 12,8% và một số ít người mù chữ là 9%.Nhìn chung
14.8
1.5
1.6
Trồng
lúa
Chăn
nuôi
Hoa
màu
Cây
ăn trái

Thủy
sản
Đánh
bắt
Khác
Loại hình
Đồ thò 2: Tỷ trọng các loại hình hoạt động của hộ
Trang
14
đa số người dân trong tỉnh có trình độ dân trí còn thấp do điều kiện sống khó
khăn đồng thời cư trú ở vùng sâu vùng xa, nằm rải rác khắp các vùng của tỉnh vì
các hộ sống bằng nghề nông và họ cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng
của việc học hành. Theo kết quả điều tra lấy mẫu ngẫu nhiên toàn bộ số mẫu có
đến 90% người dân của Tỉnh có đi học nhưng đa số chỉ dừng lại ở cấp 1 và một
phần tương đối ở cấp 2. Điều này cho thấy các nông hộ của tỉnh gặp phải những
khó khăn nhất đònh trong việc tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật mới vào sản xuất.
Hầu hết người dân của Tỉnh tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp, trong
đó hoạt động sản xuất lúa chiếm tỷ lệ cao nhất: 81,7% cho thấy ngành nông
nghiệp chiếm vò trí hàng đầu trong các ngành kinh tế của tỉnh; chăn nuôi cũng
chiếm tỉ lệ đáng kể: 40% là do cơ cấu giống có nhiều thay đổi và đặc biệt thế
mạnh của Tỉnh này chăn nuôi bò, đây là loại hình chăn nuôi đang được Nhà
nước khuyến khích phát triển và nhân rộng, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long tỉnh
Trà Vinh chỉ đứng sau tỉnh An Giang Về số lượng trâu bò, chiếm 21,1% năm
1995, 22,8% năm 1997 đàn bò Đồng Bằng Sông Cửu long. Đàn heo cũng gia
tăng, nhưng không lớn, hiện nay chất lượng đàn heo được quan tâm theo hướng
nạc hóa. Tuy nhiên khi tham gia loại hình chăn nuôi này đòi hỏi vốn đầu tư cho
con giống rất cao, và thời gian thu hoạch cũng khá lâu. Hai ngành nông nghiệp
và chăn nuôi đóng góp rất nhiều vào giá trò sản xuất cho toàn Tỉnh. Bên cạnh đó
hoa màu và cây ăn trái cũng được người nông dân quan tâm, nhưng tỷ lệ của hai

ngành này lại không cao, chỉ có 18,4% cho hoa màu và 16,5% cho cây ăn trái.
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, ngành thủy sản mặc dù chiếm tỷ lệ thấp: 14%
và chủ yếu tập trung ở Huyện Duyên Hải một phần nhỏ ở huyện Cầu Ngang và
Cầu Kè, nhưng đây là ngành có tiềm năng phát triển cao nếu được đầu tư hợp lý
thì tốc độ tăng trưởng rất cao, thời kỳ 1996 - 2000 đạt 10,86%, cao gấp 3lần tốc
độ tăng nông nghiệp, mặt khác tỷ trọng ngành thủy sản trong những năm qua
tăng dần, tuy không nhiều, giá trò GDP của thủy hải sản năm 2000 314 tỷ đồng,
năm 2001 là 365 tỷ đồng, cơ cấu thủy hải sản tỉnh gồm khai thác và nuôi trồng.
Nuôi trồng chiếm phần lớn và có xu hướng gia tăng, nuôi trồng được quan tâm
Trang
15
phát triển nhất là nuôi tôm sú ở vùng ngập mặn ven biển, thả nuôi tôm giống.
Ngoài việc thả nuôi tôm sú, nhiều hộ gia đình ở Duyên Hải, Cầu Ngang nuôi cua
biển, nuôi nghêu, nuôi tôm thử nghiệm trên ruộng muối. Ở vùng nước lợ, nước
ngọt như Cầu Ngang, Trà Cú, Cầu Kè nuôi tôm càng xanh, nuôi cá với các mô
hình tôm - lúa, cá - lúa rất có hiệu quả. Còn khai thác hải sản thực hiện chương
trình đánh bắt xa bờ, nhiều ngư dân đã được hỗ trợ đóng mới và nâng cấp tài
thuyền để khai thác hải sản xa bờ hạn chế đánh bắt ven bờ. Tuy nhiên phát triển
thủy sản của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Việc phát triển đánh bắt
xa bờ còn thiếu vốn đầu tư phương tiện đánh bắt hiện đại và đội ngũ cán bộ kỹ
thuật chưa có tay nghề cao, nguồn lợi thủy sản ven bờ ngày càng cạn kiệt đánh
bắt thủy sản chỉ có 1,6% Nuôi trồng thủy sản có phát triển song chưa đều vẫn
mang tính tự phát, chủ yếu nuôi thả ở vùng ngập mặn ven biển chưa có quy
hoạch vùng nuôi, cơ sở hạ tầng cho vùng nuôi vẫn ở mức còn thấp, hệ thống trại
sản xuất giống, hệ thống thủy lợi cấp thoát nước chưa được đủ điện, thiết bò
chuyên dụng và các dòch vụ thức ăn nuôi tôm, kỹ thuật thả nuôi chưa thống nhất
theo một qui trình nhất đònh, đã làm cho năng lực sản xuất tôm giống còn chưa
tốt, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nuôi tôm. Chính vì thế Tỉnh cần xem
xét và hổ trợ cho người dân làm nghề đánh bắt thủy sản để phát triển thêm
ngành này với mục tiêu khai thác hợp lý nguồn tài nguyên của Tỉnh và góp phần

vào việc chuyển dòch cơ cấu kinh tế. Tại sao mỗi huyện của tỉnh có một vài loại
hình sản xuất riêng biệt, Chúng ta cần phân tích sâu hơn để hiểu rõ thế mạnh
sản xuất của mỗi Huyện
Bảng 3: Các hình thức sản xuất phân chia theo Huyện ĐVT:%
Loại hình
sản xuất
Thò

Càng
Long
Cầu
Ngang
Tiểu
Cần
Cầu

Châu
Thành
Duyên
Hải
Trà

- Lúa
- Thủy sản
- Hoa màu
- Đánh bắt
- Cây ăn trái
- Chăn nuôi
80,0
5,7

14,3
2,9
34,3
65,7
89,9
8,2
18,4
-
20,4
51,0
94,4
10,5
26,7
0,8
8,3
50,8
82,8
3,2
15,1
-
28,0
36,6
84,8
5,1
12,7
-
39,2
57,0
89,4
12,2

12,7
0,4
14,3
38,4
1,3
80,5
-
14,3
-
1,3
84,5
4,8
15,5
-
20,2
16,7
Trang
16
Nguồn: Kết quả phỏng vấn điều tra trực tiếp
Huyện Duyên Hải với đặc trưng của vùng nước mặn, người dân hoạt động
trong lónh vực thủy sản gần 80,5%, các Huyện còn lại phần lớn các nông hộ
trồng lúa, cụ thể là Huyện Cầu Ngang rất thích hợp cho việc trồng cây lúa nước,
tỷ lệ các hộ trồng lúa chiếm tỷ trọng cao nhất 94,4 % số hộ điều tra có tham gia
trồng lúa, những Huyện còn lại như Càng Long chiếm 89,9%, Châu Thành
chiếm: 89,4%, huyện Cầu Kè chiếm: 84,8%, huyện Trà Cú chiếm 84,5%, huyện
Tiểu Cần chiếm: 82,8%, Thò Xã: 80%. Chăn nuôi là ngành đứng sau lúa về tỷ lệ
số hộ hoạt động trong ngành, cao nhất ở Thò Xã chiếm 65,7%, do có lợi thế về
nguồn thức ăn, vốn và kỹ thuật, chủ yếu những hộ ở đây nuôi heo và bò, là 2 vật
nuôi truyền thống của Tỉnh và 2 vật nuôi này cũng khá phù hợp với nguồn thức
ăn sẵn có và điều kiện tự nhiên của Tỉnh, các huyện khác chiếm tỷ lệ khá cao

như Cầu Kè 57%, Càng Long 51%, Cầu Ngang 50,8%, Huyện Châu Thành
38,4%, Tiểu Cần 36,6%, khi đó ở hai huyện Trà Cú và Duyên Hải chiếm rất
thấp tương ứng là 16,75 và 1,3%. Trong những Huyện trên Duyên Hải chỉ có thế
mạnh là nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, còn các hoạt động khác do điều kiện tự
nhiên là vùng ven biển nước mặn nên không phù hợp với các loại hình sản xuất
khác. Trong các nơi trồng cây ăn trái, tỷ lệ cao là Huyện Cầu Kè khoảng 39,2%,
do đất phù sa được bồi đắp từ sông Hậu, rất thích hợp cho những loại cây ăn trái
như: chôm chôm, nhãn, sa bô, mận, xoài Hoa màu ở Huyện Cầu Ngang chiếm
tỷ lệ cao nhất với gần 26,7%
Qua kết quả phân tích cho thấy đa số người nông dân của Tỉnh hoạt động
trong lónh vực nông nghiệp, một thế mạnh về kinh tế đối với Tỉnh Trà Vinh nói
riêng và của cả nước nói chung. Do có chủ trương chuyển dòch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp của Tỉnh, phá thế độc canh cây lúa, bố trí lại cơ cấu cây trồng - vật
nuôi nên loại hình canh tác của Tỉnh Trà Vinh khá đa dạng. Tuy nhiên biểu hiện
của sự chuyển dòch còn chưa rõ, trồng lúa và chăn nuôi vẫn là 2 ngành chiếm vò
trí chủ lực đóng góp lớn nhất vào giá trò sản xuất của Tỉnh, còn hoa màu, cây ăn
trái và thủy sản lại chưa phát triển đồng đều. Để đẩy nhanh tốc độ chuyển dòch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp của Tỉnh
Trang
17
thì Tỉnh cần có sự đầu tư hợp lý, chỉ đạo kòp thời về hướng phát triển của các loại
hình canh tác, kết hợp hài hòa giữa nông - ngư - nghiệp sao cho phù hợp với đặc
điểm sinh thái của từng vùng.
2.2. CÁC NGUỒN ĐẦU VÀO TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta trong những năm gần đây là
một bộ phận đã chuyển sang sản xuất hàng hóa. Nhưng nông sản hàng hóa làm
ra chỉ mới đạt được về số lượng chứ chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng
của thò trường trong và ngoài nước. Như vậy vấn đề đặt ra là làm sao có được
những nông sản phẩm vừa chất lượng tốt vừa có năng suất cao để thỏa mãn nhu
cầu thò trường trong và ngoài nước, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất nông

nghiệp của người nông dân. Muốn vậy việc cung cấp các yếu tố đầu vào như
nguồn giống ngắn ngày có năng suất cao, vật tư nông nghiệp chất lượng tốt, thức
ăn gia súc đầy đủ dưỡng chất là việc làm quan trọng và mang ý nghóa thiết thực
đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân cả nước nói chung và của
Tỉnh nói riêng.
2.2.1. Thò trường phân bón - thuốc dùng trong sản xuất nông nghiệp
Năng suất và chất lượng nông sản thu hoạch được là kết quả tổng hợp từ
nhiều kết quả khác nhau như: khí hậu, đất đai, giống, kỹ thuật canh tác Từ thực
tiễn nông nghiệp hàng năm, ông cha ta đã có đúc kết: “Nhất nước, nhì phân, tam
cần, tứ giống”. Câu nói này thể hiện sự quan trọng của phân bón thuốc dùng
trong nông nghiệp trong mối quan hệ với các nhân tố khác để đạt được mục tiêu
cuối cùng trong sản xuất nông nghiệp là thu được nông sản có năng suất cao,
chất lượng tốt.
Trên thò trường nước ta hiện nay, chủng loại phân thuốc dùng cho nông
nghiệp rất đa dạng và phong phú, do các nhà máy của ta sản xuất cũng như nhập
từ nước ngoài về. Điều đó đòi hỏi người trồng trọt phải hiểu biết và sử dụng
đúng các loại phân bón (liều lượng, thời điểm bón, cách phối hợp các loại
phân ) cho từng loại cây trồng trên từng loại đất thì mới mang lại hiệu quả kinh
tế cao, vừa tăng được sản lượng và chất lượng nông sản phẩm, vừa tiết kiệm
Trang
18
được chi phí sản xuất vừa hạn chế đến mức thấp nhất bất lợi của các loại phân
thuốc đối với môi trường.
Nhận thức được sự cần thiết của phân thuốc trong sản xuất nông nghiệp nên
ngày nay, muốn sản phẩm gieo trồng đạt năng suất cao, chất lượng tốt, hầu hết
các hộ nông dân đều sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật
Chính vì thế mạng lưới các cửa hàng vật tư nông nghiệp ngày càng phát triển
rộng xuống các xã, ấp để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của bà con nông dân.
Bảng 4: Nơi mua và chủng loại phân thuốc
Nơi mua Phần trăm

(%)
Chủng loại Phần trăm
(%)
+ Xã ấp
+ Xã Huyện
+ Nơi khác

56,0
28,2
15,8

+ Rất đầy đủ
+ Đầy đủ
+ Khá đầy đủ
+ Thiếu
24,1
58,3
13,7
3,9
Nguồn: Kết quả phỏng vấn điều tra trực tiếp
Theo kết quả điều tra nghiên cứu, để có được các loại phân thuốc dùng vào
việc chăm bón cây trồng thì 56% nông hộ chỉ cần đến các cửa hàng vật tư nông
nghiệp tại xã ấp mình là sẽ mua được đầy đủ phân thuốc cần dùng. Sự lựa chọn
này chiếm tỷ lệ cao nhất là vì để thuận tiện cho việc đi lại cũng như tiết kiệm
chi phí vận chuyển và nó đã trở thành thói quen của bà con nông dân. Bên cạnh
đó có 28,2% người nông dân phải đến các cửa hàng ở chợ Huyện để mua phân
thuốc trừ sâu. Có thể họ cho rằng tại đây họ được chọn lựa nhiều mặt hàng,
chủng loại phân thuốc hơn, chất lượng hàng hóa nơi đây được đảm bảo hơn và
các chủ cửa hàng có uy tín hơn, do vậy họ sẵn sàng đánh đổi chi phí và quãng
đường xa hơn để có được sự thỏa mãn như mong đợi. Cũng có một số người mua

phân thuốc ở nơi khác với tỷ lệ tương đối nhỏ 15,8%. Điều này có thể lý giải là
người mua tin tưởng ở chất lượng của nơi này cũng có thể là do chỗ quen biết
của họ.





Trang
19











Khi lấy ý kiến người nông dân về chủng loại phân bón thuốc dùng nông
nghiệp thì đa số người mua hài lòng với sự đầy đủ về chủng loại phân bón cũng
như thuốc dùng. Chính sự đòi hỏi của thò trường, sự cạnh tranh lành mạnh, muốn
tồn tại và phát triển thì phải tuân theo qui luật cạnh tranh của thò trường. Do vậy,
các nhà máy sản xuất phân thuốc cùng với hệ thống các cửa hàng vật tư đã
mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân, đó là sự cung cấp phong phú chủng
loại, sự phục vụ tận tình chu đáo. Thật vậy, theo nhận xét của hơn phân nửa số
người mua: 58,3% thì nơi họ mua phân thuốc có đầy đủ chủng loại mà họ cần.
Kế đến khoảng 24,1% ý kiến cho rằng nơi mình mua vật tư nông nghiệp là rất

đầy đủ và 13,7% ý kiến chưa hài lòng hoàn toàn họ chỉ cho rằng khá đầy đủ.
Còn lại 3,8% nông hộ cho rằng các cửa hàng họ mua là còn thiếu, thậm chí thiếu
nhiều, phần này chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Đô thò 2: Chủng loại phân thuốc
Rất đầu đủ
24%
Đầy đủ
58%
Khá đầy đủ
14%
Thiếu
3%
Thiếu nhiều
1%
Bảng 5: Sự đa dạng của chủng loại phân thuốc giữa các Huyện
Chủng loại phân
thuốc các Huyện
Thò

Càng
Long
Cầu
Ngang
Tiểu
Cần
Cầu

Châu
Thành
Trà


- Rất đầy đủ
- Đầy đủ
- Khá đầy đủ
- Thiếu
- Thiếu nhiều
32,3
41,9
25,8
-
-
36,4
54,5
6,8
-
2,3
18,7
63,8
12,8
3,1
1,6
23,9
60,2
14,8
1,1
-
15,1
43,8
31,5
8,2

1,4
25,5
58,3
13,2
3,0
-
38,3
56,8
1,2
3,7
-
Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nguồn: Kết quả phỏng vấn điều tra trực tiếp
Trang
20
Như đã phân tích ở trên, nhìn một cách tổng quát, thì phần đông người mua
phân thuốc trừ sâu đều cho nhận xét là đầy đủ về chủng loại. Trong ý kiến về sự
đầy đủ của phân thuốc giữa các Huyện thì Huyện Cầu Ngang đồng ý ý kiến này
với tỷ lệ cao nhất gần 64%, kế đến Tiểu Cần chiếm 60,2%, thứ ba Châu Thành
58,3%, Trà Cú chiếm 56,8%, Càng Long 54,5% còn ở Thò Xã chiếm 41,9%. Về
sự thiếu hay thiếu nhiều được nhận xét bởi những người dân giữa các huyện
chiếm tỷ lệ rất thấp như Càng Long thiếu nhiều chiếm 2,3%, Cầu Ngang thiếu
phân thuốc chiếm 3,1%, khi đó Tiểu Cần 1,1%, ở Cầu Kè người dân cho rằng
chủng loại phân thuốc còn thiếu chiếm khá cao so với các huyện khác 8,2%, do
các cửa hàng ở ấp xã không có vốn lớn nên kinh doanh với qui mô nhỏ và vừa, ở
Châu Thành chiếm 3,0%, và Trà Cú thiếu chiếm 3,7%. Do đặc thù của huyện
Duyên Hải đa số nông hộ đều nuôi trồng thủy - hải sản nên không có điều tra về
lónh vực nông nghiệp.
Vậy, trong điều kiện hiện nay, người dân nói chung ở Tỉnh Trà Vinh và xét
riêng giữa các Huyện thì đa số hộ nông dân cho biết chủng loại vật tư nông

nghiệp nơi bán là đầy đủ, hơn thế nữa là rất đầy đủ. Có rất ít hộ nông dân than
phiền thiếu kém trong sự đa dạng các loại cũng như chất lượng phân thuốc, đây
là tín hiệu đáng mừng trong sản xuất nông nghiệp, bởi lẽ thiếu phân bón, thuốc
trừ sâu thì tình trạng năng suất và phẩm chất nông sản hàng hóa thấp là không
thể tránh khỏi.
Qua phân tích cho thấy cùng với sự phát triển của ngành thương nghiệp nông
thôn, hệ thống các cửa hàng vật tư nông nghiệp tại các xã ấp ngày một đông
đúc, hoạt động khá tốt và việc phân phối các loại thuốc đến người nông dân dễ
dàng và nhanh chóng hơn. Chính sự đòi hỏi của thò trường, sự cạnh tranh đã
mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân, đó là sự đầy đủ và phong phú về
chủng loại, ít để cho tình trạng thiếu hụt vật tư nông nghiệp xảy ra.
2.2.2. Thò trường thức ăn cho gia súc gia cầm
Sau trồng lúa, chăn nuôi là hoạt động sản xuất nông nghiệp đứng thứ hai
mang lại thu nhập đáng kể cho những hộ làm kinh tế nông nghiệp ở Tỉnh này.
Tuy nhiên để chăn nuôi đạt năng suất và hiệu quả cao hơn nữa thì nông dân ta
Trang
21
cần chuyển mạnh từ chăn thả, sử dụng các loại thức ăn thô sơ sang chăn nuôi
công nghiệp, sử dụng các loại thức ăn pha chế trộn sẵn mang lại dinh dưỡng
cao có như vậy ngành chăn nuôi mới thật sự đóng góp nhiều cho sự phát triển
kinh tế, mang lại hiệu quả và thu hoạch cao.
Thức ăn, dinh dưỡng và nuôi dưỡng là các nhân tố hàng đầu có thể gây tác
động hết sức quan trọng đến cơ thể gia súc gia cầm; bằng thức ăn và bằng cách
cho ăn, người ta có thể điều khiển quá trình trao đổi chất làm cho phẩm chất gia
súc gia cầm tốt hơn và nâng cao sức sản xuất của chúng. Cùng với sự phát triển
của ngành chăn nuôi công nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa bắt đầu phát
triển, việc sử dụng thức ăn công nghiệp cho gia súc ngày càng phổ biến. Nhìn
chung các loại thức ăn được sử dụng trong chăn nuôi gia súc, gia cầm khá đa
dạng. Qua điều tra người dân khi chăn nuôi họ thường mua các loại thức ăn như
sau: Bảng 6: Chủng loại và nơi mua thức ăn trong chăn nuôi

Các loại thức ăn Phần trăm
(%)
Nơi mua Phần trăm
(%)
- Tấm
- Cám
- Bột xương
- Thuốc tăng trưởng
- Thức ăn hỗn hợp
- Loại khác
32,9
70,5
13,4
22,1
63,2
12,9
- Xã ấp
- Xã Huyện
- Nhà máy xay xát
- Có sẵn ở nhà
- Mua ở xóm
- Nơi khác
45,8
37,4
7,9
22,4
8,9
10,3
Nguồn: Kết quả phỏng vấn điều tra trực tiếp
Cám là một loại thức ăn thích hợp dùng trong chăn nuôi, đặc biệt là đối với

nuôi heo bởi nó chứa nhiều dinh dưỡng, cung cấp năng lượng trong quá trình
chuyển mỡ trong cơ thể động vật, đồng thời nó còn là sản phẩm phụ của lúa nên
có thể nói nó có rất nhiều ở nông thôn, cho nên hầu hết các hộ nuôi heo đều sử
dụng cám để chăn nuôi. Còn đối với thức ăn hỗn hợp cung cấp cho gia súc
prôtein, khoáng chất, sinh tố cần thiết cho quá trình tăng trưởng của vật nuôi. Do
vậy 2 loại thức ăn này được người dân mua nhiều nhất: 70,5% người chăn nuôi
mua cám và khoảng 63% số người điều tra mua thức ăn hỗn hợp, cho dù sử dụng
thức ăn hỗn hợp trong chăn nuôi thì giúp cho vật nuôi tăng trọng rất nhanh,
Trang
22
nhưng do giá của loại thức ăn này khá cao nên các hộ chăn nuôi thường dùng khi
gia súc còn nhỏ hoặc vừa mới bắt về nuôi hay cho gia súc ăn khi đang trong thời
kỳ mang thay nhằm tăng thêm độ đạm và nhiều chất bổ dưỡng cho gia súc. Đặc
biệt các hộ chăn nuôi thường cho heo nái đang mang thai ăn nhiều thức ăn hỗn
hợp trộn sẵn để thỏa mãn nhu cầu prôtein, năng lượng, canxi và photpho của heo
nái có thai cũng như tăng trọng lượng của heo con sơ sinh.
Tấm vẫn là loại thức ăn truyền thống thường dùng trong chăn nuôi, nhưng
ngày nay do xuất hiện nhiều loại thức ăn hỗn hợp trộn sẵn và các thức ăn tăng
trưởng nên lượng dùng trong khẩu phần thức ăn gia súc có giảm đi đáng kể, cụ
thể qua điều tra chỉ còn có gần 33% số hộ điều tra mua là cho gia súc ăn tấm
Ngoài các thức ăn cơ bản như tấm, cám, thức ăn hỗn hợp, để đảm bảo cho
vật nuôi tăng trưởng và phát triển tốt, rút ngắn thời gian nuôi, đồng thời tăng
phẩm chất vật nuôi hàng hóa thu hoạch, trong chăn nuôi hiện đại, người ta còn
sử dụng các loại thuốc tăng trưởng, bột xương, bột cá cho gia súc gia cầm. Tuy
nhiên tỷ lệ nông dân dùng thuốc tăng trưởng hay bột cá, bột xương lại không
cao, chỉ có khoảng 22% cho thuốc tăng trưởng và 13,4% cho bột xương trong chế
độ dinh dưỡng cho gia súc gia cầm. Bởi lẽ những loại thức ăn như thế này thường
32.9
70.5
13.4

22.1
63.2
12.9
0
20
40
60
80
Phần trăm
(%)
Tấm Cám Bột
xương
Thuốc
tăng
trưởng
Thức
ăn HH
Loại
khác
Tên thức ăn
Đồ thò 3: Các loại thức ăn cho gia súc
Trang
23
bán với giá cao, thay vào đó người chăn nuôi sẽ tận dụng những loại thức sẵn có
của mình như rau, cây chuối, bèo, hay các thức ăn dư thừa. Và cũng chính vì thế
mà đã tồn tại tỷ lệ gần 13% số hộ điều tra trong khẩu phần ăn của gia súc gia
cầm sử dụng những loại thức ăn khác, trong đó có cả rau xanh cỏ tươi hay rơm
rạ, vừa để bổ sung chất dinh dưỡng và chất sơ cho vật nuôi, vừa để tiết kiệm chi
phí.
Cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi, các cửa hàng gia súc đã không

ngừng lớn mạnh, cung cấp ngày càng nhiều loại thức ăn chất lượng cao giúp gia
súc gia cầm tăng trọng tốt, tỷ lệ nạc cao, thời gian tăng trưởng ngắn. Mạng lưới
cửa hàng cung cấp thức ăn gia súc của Tỉnh Trà Vinh khá phát triển, có mặt
khắp các Huyện, thò xã, thậm chí vào các xã ấp tạo thuận lợi cho nông dân trong
ngành chăn nuôi. Bảng số liệu trên cho thấy khi cần mua thức ăn gia súc, có gần
46% hộ chăn nuôi đã tìm đến cửa hàng vật tư nông nghiệp trong xã, ấp của họ
để mua thức ăn, cho thuận tiện gần nhà và dễ chuyên chở ít tốn chi phí và 37,4%
hộ mua ở chợ Huyện. Loại thức ăn họ mua nhiều nhất ở hai nơi đây là thức ăn
hỗn hợp trộn sẵn, thuốc tăng trưởng, bột cá bột xương
Cũng như những nơi khác, khi chăn nuôi, nông dân thường sử dụng tấm, cám
hoặc rau cỏ làm nguồn thức ăn chính nên có gần 1/4 số hộ sử dụng nguồn thức
ăn sẵn tại nhà. Một số hộ mua thức ăn ở các nhà máy xay xát, mua ở xóm hoặc
nơi khác. Những vấn đề trên chứng tỏ mạng lưới các cửa hàng thức ăn gia súc
phân bố khá rộng rãi có mặt hầu hết các xã Huyện. Điều này cũng là một trong
những lợi thế đáng kể đối với người chăn nuôi.
2.2.3. Thò trường cây giống và con giống
Trong trồng trọt cũng như chăn nuôi có thể nói cây giống và con giống là
những yếu tố quan trọng quyết đònh năng suất, chất lượng của sản phẩm thu
hoạch. Chính vì vậy, việc lựa chọn nguồn giống mang tính chất quyết đònh đối
với năng suất thu hoạch sau này của bà con nông dân.
Sản xuất nông nghiệp khác với nhiều ngành sản xuất khác ở đặc tính sinh
học vì nó được tiến hành trên các cơ thể sống là cây trồng, vật nuôi. Để hoàn
Trang
24

×