Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Thực trạng về kế toán quản trị chi phí, doanh thu, lợi nhuận tại công ty cổ phần Hà Đô 2 và các giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 97 trang )

Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Lời mở đầu
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành viên của tổ chức Thương
mại thế giới WTO, điều này đặt ra những thách thức mới cho Việt Nam trong qua
trình hội nhập, nhưng nó cũng mở ra những cơ hội phát triển kinh tế trong tương lai.
Sau 2 năm gia nhập WTO, mặc dù nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng xấu bởi cuộc
khủng hoảng tài chính của Hoa Kỳ năm 2007 và bùng phát mạnh năm 2008 nhưng
nền kinh tế nước ta vẫn có nhưng nền kinh tế nước ta vẫn có những bước phát triển
đáng chú ý. Cụ thể như: GDP tăng trong những năm qua có mức tăng khá cao và
đặc biệt, năm 2009 GDP tăng 5,2%, mức tăng cao nhất khu vực Đông Nam Á. Các
chỉ tiêu kinh tế xã hội, các lĩnh vực hoạt động sản xuất đều có mức tăng đáng kể.
Trong đó phải kể đến ngành xây dựng cơ bản, đây là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nền kinh tế quốc dân và là ngành đóng góp đáng kể vào GDP nước ta
trong những năm qua.
Ngành xây dựng có nhiều đặc điểm khác so với các ngành khác như: sản
phẩm của ngành xây dựng thường có giá trị rất lớn, đối tượng tập hợp chi phí thay
đổi theo từng công trình, chi phí đầu vào thường nhiều chủng loại có giá trị lớn và
rất khó kiểm soát, có nhiều loai chi phí có sự biến động lớn trong thời gian ngắn ví
dụ như sắt, thép, xi măng… Chính vì thế, việc quản lý chi phí là một vấn đề trọng
tâm của các công trình xây dựng và của toàn xã hội. Đối với DN, quản lý chi phí
đòi hỏi Doanh nghiệp nắm rõ những loại chi phí phải bỏ ra trong quá trình xây
dựng, bản chất từng loại chi phí và sự biến động của từng loại vật tư để tìm cách
giảm chi phí tới mức thấp nhất. Đối với nhà nước, kế toán về chi phí giá thành giúp
nhà nước quản lý tốt hơn vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản và quản lý về thu thuế đối
với DN xây dựng.
Qua quá trình thực tập tại Công ty CP Hà Đô 2, em chọn đề tài nghiên cứu
là:” Thực trạng về kế toán quản trị chi phí, doanh thu, lợi nhuận tại công ty cổ
phần Hà Đô 2 và các giải pháp hoàn thiện”. Mục đích của đề tài là vận dụng lý
thuyết về chi phí, doanh thu, lợi nhuận và quản tri chi phí vào nghiên cứu thực tế tại
công ty CP Hà Đô 2, qua đó nêu lên nhận xét về thực tế quản lý chi phí của công ty
và đề xuất ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện công tác kế toán tại công ty.


SV: Mai Đình Đình 1 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thấy giáo Nguyễn Mạnh
Thiều và các anh chị phòng tài chính kế toán công ty CP Hà Đô 2 đã hướng dẫn và
tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này. Do thời gian thực tập và kiến thức
còn có hạn nên luận văn của em cũng không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong được
sự chỉ bảo, góp ý của thầy giáo Nguyễn Mạnh Thiều và anh Phạm Đức Dục –
Trưởng phòng kế toán tài chính công ty Hà Đô 2.
Bố cục đề tài của em gồm 3 phần:
• Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chi phí và quản trị chi phí,
doanh thu, lợi nhuận.
• Chương 2: Thực trạng về tập hợp chi phí, tính giá thành và quản trị
chi phí tại công ty CP Hà Đô 2.
• Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện những vấn đề
còn tồn tại về công tác kế toán, quản trị chi phí tại công ty CP Hà Đô
2 – Bộ Quốc Phòng
SV: Mai Đình Đình 2 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ, GIÁ THÀNH
VÀ QUẢN TRỊ CHI PHÍ, DOANH THU, LỢI NHUẬN TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 Sự cần thiết của kế toán quản trị trong hệ thống kế toán của doanh nghiệp
xây lắp
1.1.1 Tổng quan về kế toán quản trị trong doanh nghiệp
Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh
tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn
vị kế toán.
Kế toán quản trị thực chất là kế toán về chi phí, nó được tổ chức nhằm cung
cấp các thông tin thực tế về tình hình kinh tế tài chính của doanh nghiệp cho các đối
tượng sử dụng bên trong doanh nghiệp. các thông tin của kế toán quản trị như: Chi

phí từng bộ phận (trung tâm chi phí), từng công việc sản phẩm; Phân tích đánh giá
tình hình thực hiện kê shoạch về doanh thu, chi phí, lợi nhuận; quản lý tài sản, vật
tư, tiền vốn, công nợ; Phân tích mối quan hệ giữa giữa chi phí với khối lượng và lợi
nhuận; lựa chọn thông tin thích hợp cho các quyết định dầu tư ngắn hạn và dài hạn;
Lập dự toán ngân sách sản xuất kinh doanh, v.v. Nhằm phục vụ cho việc điều
hành, kiểm tra và ra quyết định kinh tế.
Nội dung của kế toán quản trị:
+ Lập dự toán chi phí SXKD;
+ Xác định giá phí đơn vị sản phẩm;
+ Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chi phí bộ phận theo từng trung tâm chi
phí;
+ Phân tích mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng và lợi nhuận;
+ Phân tích thông tin chi phí để lựa chọn thông tin thích hợp cho các quyết định
kinh doanh.
SV: Mai Đình Đình 3 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Kế toán quản trị nhấn mạnh đến việc quản trị chi phí trong doanh nghiệp
nhằm mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận.Thực chất kế toán quản trị chi phí được tách ra
từ kế toán chi phí, giai đoạn đầu của kế toán quản trị được hình thành từ kế toán chi
phí giúp cho việc xác định và kiểm tra chi phí của các nhà quản trị. Song kế toán chi
phí cung cấp cả thông tin kế toán tài chính và KTQT vì đối tượng sử dụng thông tin
kế toán chi phí bao gồm các cá nhân, tổ chức bên ngoài và các nhà quản trị bên
trong doanh nghiệp. Điều đó khẳng định về mặt đối tượng sử dụng thông tin kế toán
chi phí nói chung rộng hơn đối tượng sử dụng thông tin KTQT chi phí. Về mặt nội
dung kế toán chi phí bao gồm hai bước cơ bản:
+ Tập hợp chi phí, tính giá thành, phân tích chênh lệch chi phí trong kỳ để cung cấp
thông tin KTQT và thông tin cho việc lập các báo cáo tài chính;
+ Cân đối chi phí, xử lý điều chỉnh chênh lệch chi phí và giá thành sản phẩm trong
kỳ về chi phí thực tế.
Như vậy, kế toán quản trị chi phí nhấn mạnh đến tính dự báo của thông tin

và trách nhiệm của các nhà quản lý thuộc các cấp quản lý (trong đó tập trung vào
cấp quản trị cấp thấp như các tổ, đội, phân xưởng sản xuất hay bộ phận quản lý và
phục vụ- là nơi trực tiếp phát sinh các chi phí) nhằm gắn trách nhiệm của các nhà
quản trị với chi phí phát sinh thông qua hình thức thông tin chi phí được cung cấp
theo các trung tâm chi phí (nguồn gây ra chi phí).
Kế toán chi phí quan tâm đến các chi phí thực tế phát sinh theo loại chi phí,
tổng mức chi phí và chi tiết theo từng mặt hàng.
Như vậy, kế toán quản trị chi phí trả lời câu hỏi chi phí sẽ là bao nhiêu, thay
đổi như thế nào khi có sự thay đổi về sản lượng sản xuất, ai phải chịu trách nhiệm
giải thích về những thay đổi bất lợi của chi phí và giải pháp cần đưa ra để điều
chỉnh, thì kế toán chi phí trả lời câu hỏi chi phí thực tế đã phát sinh là bao nhiêu,
những chi phí nào được tính vào giá thành sản phẩm, giá thành thực tế của từng đơn
vị sản phẩm.
SV: Mai Đình Đình 4 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Ngày nay, lượng vốn trong các công trình tăng ngày càng cao, quy mô công
trình ngày càng lớn yêu cầu kế toán quản trị chi phí để tối đa hóa lợi nhuận là một
yêu cầu không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp, để thực hiện được chức năng này,
kế toán quản trị phải thực hiện được các nhiệm vụ sau:
- Tính toán xác định nhu cầu về vốn, xây dựng mô hình về vốn hợp lý cho
những mục tiêu nhất định như thực hiện một thời hạn giao hàng, hoàn thành một
công trình,…
- Đo lường, tính toán chi phí cho những mục tiêu nhất định
- Tìm ra những giải pháp tác động lên các chi phí để tối ưu hóa mối quan hệ
giữa chi phí – lợi nhuận
Xét về mặt tổ chức kế toán trong một đơn vị, kế toán quản trị có mối quan hệ
chặt chẽ với kế toán tài chính, đây là hai bộ phận không thể tách rời của kế toán
doanh nghiệp. kế toán tài chính cung cấp các thông tin cho các nhà đầu tư bên ngoài
doanh nghiệp còn kế toán quản trị cung cấp thông tin cho các nhà quản lý doanh
nghiệp, do đó thông tin trong báo cáo quản trị thường phản ánh thực trạng tình hình

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. thông tin trong kế toán tài chính là thông tin
hiện tại ví dụ như về tình hình tài sản, vốn kinh doanh của doanh nghiệp, còn thông
tin kế toán quản trị cung cấp thường là thông tin của hiện tại, quá khứ và định
hướng trong tương lai. Tuy nhiên kế toán tài chính và kế toán quản trị cũng có
nhiều điểm tương đồng. Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cập đến các sự
kiện kinh tế trong doanh nghiệp và đều quan tâm đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn
sở hữu, doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, quá trình lưu
chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Một bên phản ánh tổng quát và một bên phản ánh
chi tiết, tỉ mỉ của các vấn đề đó.
Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu
của kế toán. Hệ thống ghi chép ban đầu là cơ sở để kế toán tài chính soạn thảo các
báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp cho các đối tượng ở bên ngoài. Đối với kế toán
quản trị, hệ thống đó cũng là cơ sở để vận dụng, xử lý nhằm tạo ra các thông tin
SV: Mai Đình Đình 5 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
thích hợp cho việc ra quyết định của các nhà quản trị. Kế toán quản trị sử dụng rộng
rãi các ghi chép hàng ngày của kế toán tài chính, mặc dù có khai triển và tăng thêm
số liệu cũng như nội dung của các thông tin.
1.1.2 Bản chất của ngành xây lắp ảnh hưởng đến tổ chức công tác quản trị chi
phí, doanh thu, lợi nhuận trong doanh nghiệp
Ngành xây lắp là ngành tạo cơ sở hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế, tạo tiền đề
cho nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đây là ngành có nhiều điểm khác biệt về cách thức sản xuất
cũng như phương thức quản lý so với các doanh nghiệp khác:
Sản phẩm của ngành xây lắp là những công trình, hạng mục công trình, vật
kiến trúc,… có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công dài, giá trị công
trình lớn,… Do việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải có dự toán thi
công, nên chi phí phải được quản lý theo chi phí đã dự toán và theo hạn mức chi
phí do nhà nước quy định.
Sản phẩm của ngành xây lắp thì cố định tại nơi sản xuất còn các tổ đội sản

xuất và máy móc thi công thì vận động theo địa điểm đặt sản phẩm nên việc quản lý
chi phí sản xuất chung và chi phí nhân công sẽ khó khăn.
Sản phẩm của xây dựng sau khi hoàn thành không được nhập kho mà được
tiêu thụ ngay, việc xác định giá thành của sản phẩm xây lắp khó thực hiên, thường
xác định theo khối lượng sản phẩm hoàn thành, do đó tính chi phí cho kỳ báo cáo và
quản lý doanh thu trong kỳ thường khó khăn.
Những đặc điểm của ngành xây lắp phần nào ảnh hưởng đến việc tổ chức công
tác kế toán trong doanh nghiệp, do đó việc quản lý chi phí trong doanh nghiệp xây
lắp có những điểm khác biệt sau:
 Kế toán chi phí phải theo từng khoản mục chi phí, hạng mục công trình
nhằm thường xuyên so sánh, kiểm tra chi phí theo dự toán. Đối tượng tập hợp chi
phí có thể là toàn bộ công trình, hay 1 hạng mục của công trình, đơn vị đặt hàng.
 Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị do
chủ đầu tư chuyển đến mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây lắp chi
ra.
SV: Mai Đình Đình 6 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
1.1.3 Tổng quan về chi phí và giá thành sản xuất nghành xây lắp
1.1.3.1 Khái niệm chi phí sản xuất
Trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bỏ ra những
khoản chi phí nhất định, tuy nhiên không phải tất cả mọi khoản chi phí đều là chi
phí sản xuất.
“Chi phí sản xuất là biểu bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống,
lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định”
Như vậy, bản chất của chi phí sản xuất của doanh nghiệp là:
- Những phí tổn (hao phí) về các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
gắn liền với mục đích kinh doanh.
- Lượng chi phí phụ thuộc vào khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu
hao trong kỳ và giá cả của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí.

- Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phải được đo lường bằng thước đo
tiền tệ và được xác định trong một khoảng thời gian xác định.
Nói tóm lại, trên góc độ kế toán tài chính, chi phí sản xuất được nhìn nhận
như những khoản phí tổn đã phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp, được kế toán ghi nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu, bằng chứng chứng minh
việc phát sinh của chúng. Còn trên góc độ kế toán quản trị, chi phí sản xuất không
đơn thuần được nhận thức như vậy, mà nó còn được nhận thức theo cả khía cạnh
thông tin để phục vụ cho việc so sánh, lựa chọn phương án tối ưu trong từng tình
huống ra quyết định kinh doanh cụ thể, mà ít chú ý hơn vào chứng minh chi phí sản
xuất phát sinh bằng các chứng từ kế toán.
1.1.3.2 Phân loại chi phí ngành xây dựng
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp gồm nhiều loại với tính chất kinh tế khác
nhau, mục đích, công dụng và yêu cầu tổ chức khác nhau, do đó để thuận tiện cho
việc ra quyết định sản xuất và quản lý chi phí, chúng ta cần có những cách phân loại
phù hợp.
Để quản lý chi phí trong DN, kế toán quản trị có các cách phân loại sau:
SV: Mai Đình Đình 7 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
 Phân loại CPSX theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên Báo
cao tài chính:
 Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản
phẩm hay quá trình mua hàng hóa để bán
 Chi phí thời kỳ: là những chi phí không liên quan đến hoạt động kinh
doanh của cả kỳ, các chi phí này không tạo nên giá trị của hàng tồn kho mà chúng
ảnh hưởng mà chúng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh trong kỳ chúng
phát sinh.
 Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp của chi phí với các đối tượng kế
toán chi phí:
 Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan đến một đối tượng chịu
chi phí ( một loại sản phẩm, một công nghệ, giai đoạn công nghệ. 1 phân xưởng sản

xuất, ), chúng ta có thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí căn cứ
vào chứng từ ban đầu.
Trong ngành xây dựng, thông thường chi phí trực tiếp bao gồm chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung được tập hợp theo
từng công trình
 Chi phí gián tiếp: là những chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng
chịu chi phí. Vì vậy phải tiến hành phân bổ chi phí đó cho các đối tượng bằng
phương pháp gián tiếp thông qua các tiêu thức phân bổ hợp lý.
 Phân loại CPSX theo mối quan hệ với quy trình công nghệ SXSP và quá
trình kinh doanh;
 Chi phí cơ bản: là những chi phí có liên quan trực tiếp đến quy trình
công nghệ sản xuất chế tạo sản phẩm , nếu thiếu một chi phí nào đó thì quy trình
công nghệ không thực hiện được như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công
trực tiếp, khấu hao tài sản cố định,….
 Chi phí chung: là những chi phí tổ chức, quản lý và phục vụ sản xuất
mang tính chất chung như chi phí quản lý phân xưởng, quản lý DN.
 Phân loại chi phí sản xuất phục vụ cho việc lập kế hoạch kiểm tra và ra
quyết định.
SV: Mai Đình Đình 8 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
- Biến phí: là những chi phí thay đổi về tổng số khi có sự thay đổi mức độ hoạt
động của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, biến phí gồm nhiều loại như: chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, lương nhân công công trường và các chi phí phát sinh liên quan đến
hoạt động của các công trường.
- Định phí: là các chi phí mà về tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi về
mức độ hoạt động. Chi phí này bao gồm lương nhân viên quản lý công ty, thông
thường mưc lương này sẽ không thay đổi nếu ko có sự điều chỉnh của người điều
hành công ty.
 Các cách phân loại khác về chi phí:

 Chi phí chênh lêch: là những chi phí chỉ có ở phương án này nhưng
không có hoặc chỉ có 1 phần ở phương án khác. Đây là một trong những căn cứ cơ
bản để lựa chọn phương án tối ưu.
 Chi phí cơ hội: là những chi phí bị mất đi khi lựa chọn phương án này
mà không lựa chọn phương án khác
 Chi phí chìm: là những chi phí đã bỏ ra trong quá khứ mà DN sẽ phải
gánh chịu bất kể lựa chọn phương án nào.
Đối với các nhà quản trị cấp cao trong doanh nghiệp, chi phí cơ hội và chi phí
chìm thường là yếu tố chi phí cơ bản để xem xét có thực hiện dự án kinh doanh hay
không, trên cơ sở tính toán mức chi phí định mức và dự toán chi phí cho từng công
trình, nhà quản trị sẽ quyết định thực hiện dự án có chi phí cơ hội thấp nhất. Đối với
các nhà quản trị chi phí cấp dưới, việc thực hiện quản trị chi phí thường nhằm mục
đích theo dõi lượng chi phí phát sinh trong kỳ so với lượng chi phí dự toán, chi phí
định mức để có quyết định điều chỉnh chi phí kịp thời.
Như vậy kế toán quản trị phân chia chi phí trong doanh nghiệp nhằm phục vụ
mục đích sử dụng thông tin của nhà quản trị, tức là tách riêng các chi phí mà chúng
sẽ biến động ở mức hoạt động khác nhau hoặc sắp xếp theo nhu cầu của một số nhà
quản trị cá biệt có trách nhiệm về chi phí đó và có thể kiểm soát chúng. Để quản ký
chi phí có hiệu quả, kế toan quản trị sử dụng thông tin của kế toán tài chính theo các
khoản mục sau:
SV: Mai Đình Đình 9 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : là toàn bộ các chi phí nguyên vật liệu chính
(xi măng, sắt, thép ) vật liệu phụ (đinh, que hàn ) và vật liệu khác được sử dụng
trực tiếp để tạo nên thực thể công trình.
- Chi phí nhân công trực tiếp : Là các khoản chi phí phải trả cho công nhân trực
tiếp tham gia xây dựng bao gồm tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất
tiền lương.
- Chi phí máy thi công: Là các khoản chi phí mà đơn vị xây lắp bỏ ra có liên
quan trực tiếp đến việc sử dụng máy thi công phục vụ cho xây dựng, lắp đặt các

công trình, hạng mục công trình (máy thi công không phân biệt của đơn vị hay thuê
ngoài ) như : chi phí NVL sử dụng máy thi công, chi phí tiền lương công nhân trực
tiếp điều khiển máy thi công và chi phí bằng tiền khác.
- Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí gắn liền với quá trình xây lắp
nhưng không thuộc ba khoản mục kể trên, cụ thể là: tiền lương các khoản trích theo
lương của bộ phận xây lắp, các chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khấu hao TSCĐ
Do đặc thù của KTQT là cung cấp thông tin cho nhà quản trị để ra quyết
định quản lý kịp thời, nên việc phân loại chi phí trong KTQT khác với KTTC.
Trong KTTC, chi phí thường được phân loại theo đối tượng chịu chi phí hoặc theo
chức năng của chi phí. Trong KTQT thường phân loại chi phí theo mục đích sử
dụng thông tin của nhà quản trị, tức là tách riêng các chi phí mà chúng sẽ biến động
ở mức hoạt động khác nhau hoặc sắp xếp theo nhu cầu của một số nhà quản trị cá
biệt có trách nhiệm về chi phí đó và có thể kiểm soát chúng.
1.1.3.3 Khái niệm về giá thành
Quá trình sản xuất luôn tồn tại hai mặt đối lập nhau, nó có liên quan mật thiết
với nhau, đó là chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra và kết quả sản xuất đã thu được
(sản phẩm công việc hoàn thành) phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội được tính
giá thành. Do đó, giá thành sản xuất sản phẩm được xác định bao gồm những chi
phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác được dùng để sản xuất
hoàn thành một khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nhất định.
SV: Mai Đình Đình 10 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Vậy, “giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là biểu hiện bằng tiền các chi
phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm (công việc, lao vụ) nhất định do
doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành”.
1.1.3.2 Phân loại giá thành sản phẩm:
Thông thường, do đặc điểm của ngành xây dựng và do yêu cầu quản lý chi
phí, kế toán xây dựng thường phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu để
tính giá thành sản phẩm, theo cách này, giá thành được chia thành ba loại sau:
 Giá thành dự toán: là tổng số các chi phí dự toán để thực hiện một khối lượng

xây lắp. Giá thành dự toán được lập trước khi tiến hành xây lắp trên cơ sở các định
mức thiết kế được duyệt và khung giá quy định đơn giá chi phí do nhà nước quy
định(đơn giá bình quân khu vực thống nhất).
Giá trị dự toán công
trình, hạng mục
công trình
=
Giá thành dự toán
công trình, hạng
mục công trình
+
Thu nhập
chịu thuế
tính trước
+
Thuế
GTGT
đầu ra
 Giá thành kế hoạch: là chỉ tiêu được xây dựng trước khi tiến hành thi công
công trình trên cơ sở giá thành dự toán, điều kiện, khả năng, năng lực thi công của
doanh nghiệp và mức phấn đấu hạ giá thành. Với doanh nghiệp không có giá dự
toán thì giá thành kế hoạch được xác định trên giá thành thực tế năm trước và các
định mức kỹ thuật của doanh nghiệp.
 Giá thành thực tế: là toàn bộ các chi phí thực tế đã phát sinh tập hợp được
trong kỳ sau khi hoàn thành công tác xây dựng bao gồm các phí tổn trong định mức,
ngoài định mức.
Thông thường, giá thành dự toán thấp hơn giá thành định mức nhằm thực hiện mục
tiêu tiết kiệm chi phí. Trong quá trình thi công, chi phí xây dựng phải thường xuyên
được kiểm tra theo dự toán và theo định mức quy định để quản lý lượng vật tư nhâp
xuất nhằm giảm chi phí xử dụng vốn trong DN. Vì thời gian thi công dài nên để

theo dõi những chi phí phát sinh, có thể phân chia giá thành thực tế thành:
SV: Mai Đình Đình 11 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
• Giá thành thực tế công tác xây lắp: phản ánh giá thành của một khối lượng
công tác xây lắp đạt đến một điểm dừng kỹ thuật nhất định. Giá thành thực tế này
được xác định dựa vào khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành. Nó cho phép xác
định kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để điều chỉnh cho thích hợp ở những giai
đoạn sau và phát hiện những nguyên nhân tăng giảm.
• Giá thành thực tế công trình, hạng mục công trình hoàn thành:là toàn bộ chi
phí chi ra để tiến hành thi công một công trình, hạng mục công trình từ khi bắt đầu
xây dựng đến khi đưa vào hoạt động.
Ngoài ra các cách phân loại trên, trong xây dựng còn sử dụng hai chỉ tiêu giá
thành sau:
o Giá dự thầu xây lắp: là giá thành dự toán xây lắp do chủ đầu tư đưa ra để
các doanh nghiệp xây lắp dựa vào đó tính giá thành của mình.
o Giá đấu thầu công trình được ký kết giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây
lắp sau khi thỏa thuận giao nhận thầu. Đây là giá để doanh nghiệp xác định doanh
thu cho mình. Thông thường giá thành sản xuất phải thấp hơn giá đấu thầu.
→Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt nhưng có
mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tạo ra sản phẩm., nó biểu hiện hai
mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt
khác nhau bên trong nó là chi phí sản xuất và lượng giá trị sử dụng thu được cấu
thành bên trong sản phẩm hoàn thành. Bản chất của giá thành là sự dịch chuyển các
yếu tố chi phí vào những sản phẩm, công việc đã hoàn thành. Như vậy giá thành và
chi phí giống nhau về chất vì chúng đều cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí về
lao động sống và lao động vật hóa đã bỏ ra, nhưng chúng khác nhau về lượng, chi
phí được tính cho một kỳ nhất định, không phân biệt cho loại sản phẩm nào, đã
hoàn thành hay chưa còn giá thành là những khoản chi phí được tập hợp cho một
loại sản phẩm, công trình hoàn thành, không phân biệt chi phí đó được bỏ vào kỳ

trước hay kỳ sau trong toàn bộ quá trình sản xuất.
SV: Mai Đình Đình 12 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Giá thành
=
CPSX dở
+
CPSX phát
-
CPSX dở
sản xuất dang đầu kỳ sinh trong kỳ dang cuối kỳ
Hơn nữa, giá thành sản phẩm mang tính chất chủ quan, việc giới hạn chi phí tính
vào giá thành sản phẩm gồm những chi phí nào còn tùy thuộc vào quan điểm tính
toán xác định chi phí, doanh thu và kết quả cũng như quy định của chế độ quản lý
kinh tế tài chính, chế độ kế toán hiện hành
1.2 Nội dung phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong DN xây lắp.
1.2.1 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để tập hợp
chi phí sản xuất theo các phạm vi giới hạn đó.
Phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí trong doanh nghiệp sản xuất có thể là:
 Nơi phát sinh chi phí: công trường, đội thi công hay từng xí nghiệp. các
chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công, trong từng đơn vị đó lại
tập hợp chi phí theo từng hạng mục công trình,… Cuối tháng tổng hợp chi phí phát
sinh ở từng đơn vị so sánh với dự toán đơn vị được cấp phát để xác định hạch toán
kinh tế nội bộ. Khi công trình, hạng mục công trình đó hoàn thành phải tính giá
thành riêng cho từng hạng mục bằng phương pháp tổng hợp chi phí trực tiếp.
 Nơi chịu chi phí: Công trình hay hạng mục công trình: hàng tháng, chi
phí phát sinh liên quan đến hạng mục công trình nào thì được tập hợp cho hạng mục
hay công trình đó.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đúng và phù hợp với đặc

điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong việc
tổ chức hạch toán ban đầu đến tổ chức tổng hợp số liệu, ghi chép trên tài khoản, sổ
chi tiết. Cụ thể:
SV: Mai Đình Đình 13 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
− Nó là cơ sở để tổ chức hạch toán ban đầu, mở các tài khoản, sổ chi tiết và
lâp báo cáo chi phí
− Bảo đảm cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành kip thời chính xác
− Tạo điều kiện tăng cường quản lý, hạch toán chi phí nội bộ.
1.2.2 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất:
“Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là cách thức mà kế toán sử dụng để
tập hợp, phân loại các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ theo các đối
tượng tập hợp chi phí đã xác định”. Nội dung cơ bản của phương pháp kế toán tập
hợp chi phí sản xuất là căn cứ vào các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác
định để mở các sổ kế toán nhằm ghi chép, phản ánh các chi phí phát sinh theo đúng
các đối tượng hoặc tính toán, phân bổ phần chi phí phát sinh cho các đối tượng đó.
Có hai phương pháp tập hợp chi phí sản xuất:
 Phương pháp tập hợp trực tiếp: áp dụng với các chi phí liên quan trực
tiếp đến đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, chi phí liên quan đến đối tượng
tập hợp nào được tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó căn cứ vào các chứng từ hạch
toán ban đầu như phiếu xuất kho NVL, bảng chấm công,…
 Phương pháp tập hợp gián tiếp:
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp các chi phí gián tiếp, đó là các chi
phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí đã xác định mà kế toán
không thể tập hợp trực tiếp các chi phí này cho từng đối tượng đó.
Theo phương pháp này, trước tiên căn cứ vào các chi phí phát sinh, kế toán
tiến hành tập hợp chung các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng theo địa điểm
phát sinh hoặc theo nội dung chi phí. Để xác định chi phí cho từng đối tượng cụ thể
phải lựa chọn các tiêu chuẩn hợp lý và tiến hành phân bổ các chi phí đó cho từng
đối tượng liên quan.

Viêc phân bổ chi phí cho từng đối tượng thường được tiến hành theo hai
bước sau:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ theo công thức sau:
SV: Mai Đình Đình 14 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
T
C
H =
Trong đó: H: Hệ số phân bổ chi phí.
C: Là tổng chi phí cần phân bổ cho các đối tượng.
T: Là tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ của các đối tượng cần
phân bổ chi phí.
Bước 2: Xác định chi phí cần phân bổ cho từng đối tượng tập hợp cụ thể:
ii
HxTC =
Trong đó:
i
C
: Phần chi phí phân bổ cho đối tượng i.
i
T
: Đại lượng tiêu chuẩn phân bổ dùng để phân bổ chi phí của
đối tượng i.
1.2.3 Nội dung kế toán tập hợp chi phí sản xuất(theo phương pháp kê khai
thường xuyên):
1.2.3.1 Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
“Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, bao gồm các khoản chi phí về nguyên vật
liệu chính, nửa thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ… sử dụng trực tiếp cho việc
sản xuất chế tạo sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ”.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi

phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp thường được quản lý theo các định mức chi phí do doanh nghiệp xây dựng. Chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế trong kỳ được xác định theo công thức sau:
SV: Mai Đình Đình 15 Lớp KK44/21.17
Chi phí
nguyên vật
liệu trực tiếp
thực tế
trong kỳ
=
Trị giá
nguyên vật
liệu trực
tiếp còn lại
đầu kỳ
Trị giá
nguyên vật
liệu trực
tiếp dùng
trong kỳ
Trị giá
nguyên vật
liệu trực
tiếp còn lại
cuối kỳ
Trị giá phế
liệu thu hổi
(nếu có)
+ - -
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều

Căn cứ vào chứng từ như: Phiếu xuất kho, phiếu nhập kho, căn cứ vào hoá
đơn mua hàng… kế toán tiến hành tập hợp chi phí nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp
cho sản xuất sản phẩm. Để kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tíếp, kế toán sử dụng
tài khoản TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Trình tự kế toán tập hợp chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Phương pháp tập hợp:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường liên quan trực tiếp đến đối tượng
kế toán tập hợp chi phí sản xuất nên thường sử dụng phương pháp trực tiếp
- Trường hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp liên quan đến nhiều đối tượng
phải phân bổ cho từng đối tượng. Tiêu chuẩn phân bổ chi phí nguyên vật liệu chính,
nửa thành phẩm mua ngoài dùng cho sản xuất sản phẩm là chi phí nguyên vật liệu
định mức( kế hoạch), khối lượng sản phẩm sản xuất. Đối với nguyên vật liệu phụ
dùng cho sản xuất sản phẩm, tùy từng loại vật liệu phụ trong quá trình sản xuất, tiêu
chuẩn phân bổ thường là chi phí định mức hoặc chi phí kế hoạch, chi phí thực tế của
nguyên vật liệu chính, khối lường sản phẩm sản xuất , giờ máy chạy, …
Trong các doanh nghiệp xây lắp, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường
được tập hợp cho từng công trình, chứng từ chi phí nguyên vật liệu do các chủ
SV: Mai Đình Đình 16 Lớp KK44/21.17
TK 152
TK 621 TK152
TK 154
TK 632
(3)
(1)
(2)
TK 111, 112, 141…
TK 133
(4)
(5)

(2’)
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
nhiệm công trình hoặc những cá nhân có liên quan nộp về phòng kế toán và được
tập hợp trực tiếp cho công trình đó. Việc quản lý chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
1.2.3.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp:
“Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực
tiếp sản xuất sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các loại lao vụ, dịch vụ gồm: Tiền
lương chính, tiền lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo sổ tiền lương của công nhân sản xuất”.Về mặt
nguyên tắc, chi phí nhân công trực tiếp cũng được tập hợp giống như chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp.
Theo chế độ quy định thực hiện trong quý 4 năm 2009 thì các khoản trích
theo lương được tính như sau:
- Quỹ BHXH được trích 20% trên tiền lương co bản. Trong đó
15% tính vào chi phí sản xuất, còn 5% trừ vào thu nhập của công nhân viên.
- Quỹ BHYT được trích 3% trên tiền lương cơ bản. Trong đó,
2% tính vào chi phí và 1% trừ vào thu nhập của công nhân viên.
- KPCĐ được trích lập 2% trên tiền lương thực tế và được tính
hết vào chi phí.
Để tập hợp chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản TK 622-
Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này dùng để phản ánh chi phí nhân công
trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dó đó không hạch toán vào
tài khoản này những khoản chi trả về tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp…
cho nhân viên phân xưởng, nhân viên quản lý, nhân viên bán hàng. Phần chi phí
nhân công trực tiếp vượt trên mức bình thường không được tính vào giá thành sản
phẩm dịch vụ mà phải kết chuyển vào tài khoản TK 632- giá vốn hàng bán. TK
622 được mở chi tíêt cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh. Kế
toán thường căn cứ vào các chứng từ như: bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã
hội, bảng chấm công, bảng tính và thanh toán lương… để tập hợp chi phí nhân công
trực tiếp.

SV: Mai Đình Đình 17 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Trình tự kế toán chi phí nhân công trực tiếp được phản ánh qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp
Chú thích:
(1) Tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho công nhân viên trực tiếp
sản xuất, chế tạo sản phẩm
(2) Trích trước tiền lương nghỉ phép theo kế hoạch của công nhân trực
tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm
(3) Các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất, chế tạo
sản phẩm
(4) Chi phí nhân công trực tiếp trên mức bình thường
(5) Cuối kỳ phân bổ và kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp để tính giá
thành
Phương pháp tập hợp:
CP NCTT thường liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi
phí sản xuất nên thường sử dụng phương pháp trực tiếp.
Trường hợp CP NCTT liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí
sản xuất phải phân bổ cho từng đối tượng. Tiêu chuẩn phân bổ thường là CP nhân
SV: Mai Đình Đình 18 Lớp KK44/21.17
TK 622
TK 154
(5)
TK 334
(1)
TK 335
(2)
TK 632
(4)
(3)

TK 338
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
công trực tiếp theo kế hoạch ( định mức), giờ công định mức, giờ công thực tế, khối
lượng sản phẩm sản xuất.
Chi phí nhân công trực tiếp được quản lý theo định mức đã xây dựng và
được theo dõi cho từng đối tượng tính giá thành. Chi phí nhân công trực tiếp trong
các doanh nghiệp xây lắp thường được xác định trên khoản lương khoán cho các
đơn vị thi công, theo đó tiền lương phải trả cho nhân công được thể hiện trên bảng
chấm công và bảng thanh toán lương.
1.2.2.3 Kế toán chi phí sử dụng máy thi công:
Máy thi công là các loại máy móc được sử dụng trực tiếp để thi công xây lắp
các công trình như máy trộn bê tông, cần cẩu, máy xúc, máy đóng cọc, máy đầm
dùi,…
Chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân công và
các chi phí khác có liên quan đến sử dụng máy thi công và được phân thành 2 loại:
chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
- Chi phí thường xuyên: là những chi phí phát sinh trong quy trình sử dụng
máy thi công, được tính thẳng vào giá thành ca máy như: tiền lương của công nhân
trực tiếp điều khiển hay phục vụ máy, khấu hao và sửa chữa thường xuyên máy thi
công, …
- Chi phí tạm thời: là những chi phí phải phân bổ dần theo thời gian sử dụng
máy như: chi phí tháo lắp, vận chuyển chạy thử máy thi công khi di chuyển từ công
trường này đến công trường khác, chi phí về xây dựng, tháo dỡ những công trình
tạm thời loại nhỏ như lều lán … phục vụ cho sử dụng máy thi công. Những chi phí
này có thể phân bổ dần hoạc trích trước theo kế hoạch cho nhiều kỳ.
Trong doanh nghiệp xây lắp, thường máy thi công được sử dụng cho nhiều
công trường cho nên phải phân bổ chi phí sử dụng máy thi công cho các công
trường theo các tiêu thức hợp lý. Có hai hình thức tổ chức quản lý máy thi công:
- Tổ chức đội máy thi công riêng biệt chuyên thực hiện các khối lượng xây lắp
thi công bằng máy, chi phí sử dụng máy thi công được hạch toán cho phù hợp với tổ

chức quản lý chi phí của doanh nghiệp.
SV: Mai Đình Đình 19 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
- DN xây lắp giao máy cho các đội, xí nghiệp sử dụng thì chi phí sử dụng máy
được hạch toán vào tài khoản 623.
Tài khoản sử dụng: để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy thi công, kế
toán sử dụng tài khoản 623. Tài khoản này chỉ sử dụng để hạch toán chi phí trong
trường hợp doanh nghiệp thực hiện công trình theo phương thức thi công hỗn hợp
vừa thi công thủ công vừa thi công bằng máy. Không hạch toán vào tài khoản này
các khoản trích theo lương như BHXH, BHYT KPĐ của công nhân sử dụng máy thi
công.
Phương pháp tập hợp chi phí sử dụng máy thi công:
- Đối với các chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối
tượng tập hợp chi phí thì sử dụng phương pháp trực tiếp
- Các chi phí liên quan được sử dụng cho đối tượng sử
dụng thì phải phân bổ cho các đối tượng sử dụng theo các tiêu thức hợp lý. Việc
tính toán phân bổ chi phí phải dựa trên cơ sở giá thành một giờ/máy hoặc giá thành
một ca/máy hoặc một đơn vị khối lượng công việc thi công bằng máy hoàn thành.
Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phụ thuộc vào hình thức sử dụng máy:
Nếu tổ chức đội máy thi công riêng biệt và có phân cấp hạch toán cho đội máy
có tổ chức hạch toán kế toán riêng, thì việc hạch toán được tiến hành như sau:
Hạch toán các chi phí liên quan tới hoạt động của đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 621, 622, 627 - Chi phí sản xuất
Có các TK liên quan
Hạch toán chi phí sử dụng máy và tính giá thành ca máy thực hiện trên TK 154
- "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang".
Nợ TK154 (Chi tiết chi phí máy thi công)
Có TK 621, 622, 627 - Chi phí sản xuất
Căn cứ vào giá thành ca máy (theo giá thành thực tế hoặc giá khoán nội bộ)
cung cấp cho các đối tượng (công trình, giai đoạn công việc ), tuỳ theo phương

SV: Mai Đình Đình 20 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
thức tổ chức hạch toán và mối quan hệ giữa đội máy thi công với đơn vị sản xuất,
ghi:
+ Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức cung cấp lao vụ máy lẫn nhau
giữa các bộ phận, kế toán ghi:
Nợ TK 623 (6238) - Chi phí sử dụng máy
Có TK 154 (Chi tiết chi phí máy thi công)
+ Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức bán lao vụ máy lẫn nhau giữa
các bộ phận trong đơn vị, ghi:
Nợ TK 623 (6238) - Chi phí sử dụng máy
Nợ TK 133 - Thuế GTGT đầu vào (nếu có)
Có TK 511, 512 - Doanh thu
Nếu không tổ chức đội máy thi công riêng biệt hoặc có tổ chức đội máy thi
công riêng biệt nhưng không tổ chức kế toán riêng cho đội máy thi công thì toàn bộ
chi phí sử dụng máy sẽ hạch toán như sau:
Căn cứ vào số tiền lương (lương chính, lương phụ không bao gồm các khoản:
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, tiền công phải trả cho công
nhân điểu khiển máy, phục vụ máy, ghi:
Nợ TK 623 (6231) - Chi phí lương công nhân sử dụng máy
Có TK 334, 111 - Tiền lương công nhân sử dụng máy
Khi xuất kho hoặc mua nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ sử dụng cho xe,
máy thi công, ghi:
Nợ TK 623 (6232) - Chi phí NVL sử dụng cho máy thi công
Nợ TK 133 - Thuế GTGT đầu vào (nếu được khấu trừ thuế GTGT)
Có TK 111, 112, 331, 152, 153,
Căn cứ tính khấu hao xe, máy thi công sử dụng ở đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 623 (6234) - Chi phí khấu hao xe máy thi công
SV: Mai Đình Đình 21 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều

Có TK 214 - Hao mòn tài sản cố định
Chi phí dịch vụ mua ngoài phát sinh (sửa chữa máy thi công mua ngoài, điện,
nước, tiền thuê TSCĐ, ), ghi:
Nợ TK 623 (6237) - Chi phí dịch vụ mua ngoài
Nợ TK 133 - Thuế GTGT đầu vào (nếu được khấu trừ thuế GTGT)
Có TK 111, 112, 331
Chi phí bằng tiền phát sinh,kế toán ghi:
Nợ TK 623 (6238) - Chi phí bằng tiền khác
Nợ TK 133 - Thuế GTGT đầu vào (nếu được khấu trừ thuế GTGT)
Có TK 111, 112
Căn cứ vào bảng phân bổ chi phí sử dụng máy thi công (chi phí thực tế ca máy)
tính cho từng công trình, hạng mục công trình, ghi:
Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 623 - Chi phí sử dụng máy thi công
Trường hợp thuê ca máy thi công:
Khi trả tiền thuê xe, máy thi công, ghi:
Nợ TK 627 (6277) - Chi phí dịch vụ mua ngoài
Có TK 111, 112, 331
Cuối kỳ hạch toán, kết chuyển chi phí thuê máy thi công vào khoản mục chi phí
sử dụng máy, ghi:
Nợ TK 154 (khoản mục chi phí máy thi công)
Có TK 627 (6277) - Chi phí dịch vụ mua ngoài
Tuy nhiên, do có đặc điểm hoạt động khác với các doanh nghiệp xây lắp nên
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ thường không tổ chức ra đội máy thi
công riêng mà máy thường được sử dụng chung trong từng đơn vị sản xuất để thực
SV: Mai Đình Đình 22 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
hiện các khối lượng công việc cần sử dụng máy. Khoản mục chi phí này trong các
đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ thường được hạch toán như sau:
Căn cứ vào số tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân điểu khiển máy,

phục vụ máy, ghi:
Nợ TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 334, 111 - Lương phải trả công nhân sử dụng máy
Khi xuất kho hoặc mua nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ sử dụng cho xe,
máy thi công, kế toán ghi:
Nợ TK 621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Có các TK 111, 112, 331, 152, 153,
Khấu hao, bảo dưỡng xe, máy thi công sử dụng ở đội, ghi:
Nợ TK 627 - Chi phí sản xuất chung
Có TK 214, 111, 112 - Chi phí khấu hao, bảo dưỡng máy
Cuối kỳ, kết chuyển toàn bộ chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí chung
của đội máy để tập hợp toàn bộ chi phí sử dụng máy và tính giá thành ca máy, kế
toán ghi:
Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 621, 622, 627 - Chi phí sử dụng máy thi công
1.2.2.4 Kế toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung của hoạt động xây lắp là những chi phí có liên quan đến
việc tổ chức, phục vụ và quản lý thi công của các đội xây lắp ở các công trường xây
dựng. chi phí sản xuất chung là chi phí tổng hợp bao gồm nhiều khoản chi phí khác
nhau thường có mối quan hệ gián tiếp với các đối tượng xây lắp như: tiền lương
nhân viên quản lý công trường, , khấu hao tài sản cố định dùng cho hoạt động của
đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động sản xuất chung của đội.
SV: Mai Đình Đình 23 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
Do những đặc điểm ngành xây dựng, khi kế toán chi phí sản xuất chung cần chú
ý những quy định sau:
- Phải tổ chức hạch toán theo từng công trình, hạng mục công trình, đồng thời
phải chi tiết theo các điều khoản quy định
- Thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất chung.

- Khi thực hiện giao khoán chi phí sản xuất chung cho các đội xây dựng thì
phải quản lý tốt chi phí đã giao khoán.
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất chung: thông thường trong kế toán xây
dựng, chi phí sản xuất chung thường được tập hợp theo phương pháp trực tiếp, các
chi phí phát sinh được các đội sản xuất tập hợp trực tiếp đối với từng công trình.
Các chi phí như khấu hao tài sản cố định, chi phí dụng cụ sản xuất có thể được tập
hợp cho nhiều công trình nên thường được phân bổ cho từng công trình, tiêu thức
phân bổ thường là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp + chi phí nhân công trực tiếp, tổng thời gian lao động
trực tiếp, tổng số giờ máy hoạt động, tổng chi phí lao động trực tiếp,…
Chi phí sản xuất chung bao gồm các nội dung sau:
- Chi phí nhân viên: bao gồm tiền lương, các khoản có tính chất lương, các
khoản trích theo lương của nhân viên phân xưởng, bộ phận sản xuất.
- Chi phí vật liệu: là chi phí vật liệu sử dụng chung cho sản xuất như dùng cho
quản lý phân xưởng, sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định bộ phân sản xuất.
- Chi phí dụng cụ sản xuất: là chi phí về công cụ dụng cụ dùng cho hoạt động
sản xuất.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là khấu hao tài sản cố định dùng cho hoạt
động sản xuất.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là chi phí mua ngoài dịch vụ dùng cho hoạt động
sản xuất.
- Chi phí bằng tiền khác: là chi phí ngoài các chi phí kể trên phục vụ chu hoạt
động sản xuất chung ở các bộ phận sản xuất.
Tài khoản sử dụng: TK 627
Trình tự kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung:
SV: Mai Đình Đình 24 Lớp KK44/21.17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Mạnh Thiều
SV: Mai Đình Đình 25 Lớp KK44/21.17
(8)
TK 142, 242

TK 152, 153
TK 154
TK 111, 112, 138, 152
TK 627
TK 334, 338
(3)
(2)
(9)
(1)
TK 214
Sơ đồ 1.3: kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung
(4)
TK 632
TK 352
TK 111, 112, 141, 331
TK 133
(10)
(5)
(7)
(6)
(7’)

×