Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Nghiên cứu tác động của việc thực hiện chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng đến đời sống và việc làm của người dân khi nhà nước thu hồi đất của một số dự án trên địa bàn huyện yên mỹ, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.65 MB, 129 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang trong tiến trình đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới trong điều kiện toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ.
Trước bối cảnh lịch sử mới, chúng ta có những thời cơ mới song cũng phải
đối mặt với những thách thức hết sức to lớn, đặc biệt là nhu cầu giải phóng
mặt bằng (GPMB). Việc thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế đất nước trong
thời gian ngắn tăng cao ảnh hưởng trực tiếp đến một bộ phận không nhỏ dân
cư nông thôn cả về đời sống và việc làm là một thực tế khách quan. Tình
trạng thiếu việc làm cho người lao động hiện nay đang diễn ra hết sức bức
thiết, đặc biệt là đối với lao động nông thôn, lao động phải chuyển đổi nghề
nghiệp do quá trình đô thị hoá và bị thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị, Đây cũng là thách thức lớn đối với chiến lược phát triển
nông nghiệp, nông thôn nói riêng, phát triển đất nước nói chung.
Thực tế hiện nay cho thấy, công tác thu hồi đất của công dân để phục
vụ phát triển các dự án đầu tư trong nước, nước ngoài và việc đền bù cho
những người bị thu hồi đất là vấn đề hết sức nhạy cảm, đòi hỏi phải giải quyết
công bằng, dứt điểm. Giải quyết không tốt, không thoả đáng quyền lợi của
người dân có đất bị thu hồi và những người bị ảnh hưởng khi thu hồi đất để
dẫn đến bùng phát khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể đông
người, sẽ trở thành vấn đề xã hội phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình
hình an ninh trật tự, mất ổn định xã hội và phần nào ảnh hưởng đến lòng tin
của người dân đối với các chính sách của nhà nước. Nếu việc thu hồi đất bị
lạm dụng, quỹ đất nông nghiệp bị giảm dần, về lâu dài có thể ảnh hưởng tới
an ninh lương thực quốc gia.
Hưng Yên là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc,
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội luôn gắn với chiến lược phát triển của vùng
1
và cả nước. Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Hưng Yên nói chung và quá trình đô thị hoá của các huyện nói riêng,
nhu cầu sử dụng đất cho việc phát triển cơ sở hạ tầng ngày càng trở nên bức


xúc. Thực hiện chủ trương chính sách của tỉnh về hợp tác đầu tư, với lợi thế là
một huyện có hệ thống giao thông phát triển, có các tuyến quốc lộ 5, quốc lộ
39, chạy qua địa bàn, những năm gần đây, huyện Yên Mỹ đã chấp nhận một
số dự án đầu tư như: khu công nghiệp Thăng Long II; khu Đô thị của công ty
Cổ phần đầu tư Bất động sản Thương mại Thăng Long, dự án đã lấy đi gần
400 ha đất; đất nông nghiệp bị thu hẹp nhiều người dân thiếu đất hoặc
không còn đất để canh tác. Mặc dù quá trình thu hồi đất, địa phương đã ban
hành nhiều chính sách cụ thể đối với người dân bị thu hồi đất về các vấn đề
như bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái
định cư…
Tuy nhiên, trên thực tế một bộ phận nhỏ nông dân bị mất đất được đền
bù bằng tiền chưa định hướng ngay được những ngành nghề hợp lý để có thể
ổn định cuộc sống; chỉ một phần được đào tạo nghề, còn đại đa số không có
việc làm hay có việc làm nhưng không ổn định, thu nhập thấp. Đời sống của
nông dân vốn đã thấp kém, nay bị mất đất lại càng khó khăn thêm. Để giải
quyết những bức xúc trong vấn đề việc làm và thu nhập cho người nông dân-
đối tượng bị tác động lớn nhất sau khi thu hồi đất và gặp nhiều khó khăn trong
tìm kiếm việc làm mới, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu tác động của việc
thực hiện chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng đến đời sống và việc
làm của người dân khi Nhà nước thu hồi đất của một số dự án trên địa bàn
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung:
- Nghiên cứu tác động của việc thực hiện chính sách bồi thường giải
phóng mặt bằng đến đời sống và việc làm của người dân có đất bị thu hồi.
2
Mục đích cụ thể:
- Đánh giá một cách tổng thể thực trạng đời sống, việc làm, thu nhập và
các tiêu chí khác của đời sống xã hội cộng đồng dân cư nông thôn sau khi
Nhà nước thu hồi đất.

- Đề xuất các giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới nhằm ổn định
và nâng cao đời sống của người dân có đất bị thu hồi cả trong hiện tại và
tương lai.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Những kết quả khoa học thu được thông qua thực hiện đề tài sẽ bổ
sung cơ sở thực tiễn để đánh giá chung tình hình đời sống việc làm của người
dân trước và sau khi bị Nhà nước thu hồi đất.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả của đề tài ngoài việc đóng góp để giải quyết vấn đề thực tiễn
bức xúc đang đặt ra hiện nay ở huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên, kết quả nghiên
cứu còn là tài liệu tham khảo cho các địa phương có cùng hoàn cảnh.
3
2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
2.1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ, tái đinh cư
2.1.1.1. Bồi thường
Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra. Đền bù là trả lại tương
xứng với giá trị hoặc công lao [27].
Như vậy, bồi thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao cho
một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì hình vi của chủ thể khác mang lại.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
Trong đó, giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất
đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định [16].
2.1.1.2. Hỗ trợ
Hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào [27]. Hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề
mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới [16].

2.1.1.3. Tái định cư
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để
sinh sống và làm ăn. Tái định cư bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh
khỏi khi Nhà nước thu hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát
triển.
Tái định cư (TĐC) được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về
đất, tài sản; di chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại
cuộc sống, thu nhập, cơ sở vật chất tinh thần tại đó.
4
Như vậy, TĐC là hoạt động nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế
- xã hội đối với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung.
Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở
thì người sử dụng đất được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau;
- Bồi thường bằng nhà ở;
- Bồi thường bằng giao đất ở mới;
- Bồi thường bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở [16].
Tái định cư là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan
trọng trong chính sách giải phóng mặt bằng.
2.1.2. Đặc điểm của quá trình giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng là quá trình đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện
khác nhau đối với mỗi một dự án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các
bên tham gia và lợi ích của toàn xã hội.
- Tính đa dạng thể hiện: mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất
khác nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí nhất định.
Đối với khu vực nội thành, khu vực ven đô, khu vực ngoại thành, mật độ
dân cư khác nhau, ngành nghề đa dạng và đều hoạt động sản xuất theo một
đặc trưng riêng của vùng đó. Do đó, giải phóng mặt bằng cũng được tiến hành
với những đặc điểm riêng biệt.
- Tính phức tạp thể hiện: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội đối với mọi người dân. ở khu vực nông

thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai
lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân
thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng
này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận
cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn
đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó
5
khăn và việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời
sống dân cư sau này [26].
2.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng
2.1.3.1. Yếu tố cơ bản trong quản lý nhà nước về đất đai
a. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử
dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó
Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển
của nền kinh tế - xã hội. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất
đai đòi hỏi các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính
ổn định cao và phù hợp với tình hình thực tế.
Ở nước ta, do các đặc điểm lịch sử, kinh tế xã hội của đất nước trong
mấy thập kỷ qua có nhiều biến động lớn, nên các chính sách về đất đai cũng
theo đó không ngừng được sửa đổi, bổ sung. Từ năm 1993 đến năm 2003,
Nhà nước đã ban hành hơn 200 văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử
dụng đất. Sau khi quốc hội thông qua Luật đất đai 2003 cùng với các văn bản
hướng dẫn thi hành đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Với một hệ thống quy
phạm khá hoàn chỉnh, chi tiết, cụ thể, rõ ràng, đề cập mọi quan hệ đất đai phù
hợp với thực tế. Các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai của Nhà nước đã
tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tổ chức thực hiện các nội dung quản
lý Nhà nước về đất đai, giải quyết tốt mối quan hệ đất đai ở khu vực nông
thôn, bước đầu đã đáp ứng được quan hệ đất đai mới hình thành trong quá
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa; hệ thống pháp luật đất đai luôn đổi mới,

ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng,
an ninh và ổn định xã hội [7].
Theo đó, chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng cũng luôn được
Chính phủ không ngừng hoàn thiện, sửa đổi nhằm giải quyết các vướng mắc
6
trong công tác bồi thường GPMB, phù hợp với yêu cầu thực tế triển khai. Với
những đổi mới về pháp luật đất đai, thời gian qua công tác GPMB đã đạt
những kết quả đáng khích lệ, đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu về mặt bằng
cho việc phát triển các dự án đầu tư. Tuy nhiên bên cạnh đó, do tính chưa ổn
định, chưa thống nhất của pháp luật đất đai qua các thời kỳ mà công tác bồi
thường GPMB đã gặp khá nhiều khó khăn và cản trở. Thực tiễn triển khai cho
thấy việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai có ảnh hưởng rất lớn đến công tác bồi thường GPMB. Hệ thống văn bản
pháp luật đất đai còn có những nhược điểm như là số lượng nhiều, mức độ
phức tạp cao, không thuận lợi trong sử dụng, nội bộ hệ thống chưa đồng bộ,
chặt chẽ gây lúng túng trong xử lý và tạo kẽ hở trong thực thi pháp luật [7].
Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm về quản lý, sử dụng đất
đai, việc tổ chức thực hiện các văn bản đó cũng có vai trò rất quan trọng. Kết
quả kiểm tra thi hành Luật Đất đai năm 2007 của Bộ Tài nguyên cho thấy
UBND các cấp đều có ý thức quán triệt việc thực thi pháp luật về đất đai nhưng
nhận thức về các quy định của pháp luật nói chung còn yếu, ở cấp cơ sở còn rất
yếu. Từ đó dẫn tới tình trạng có nhầm lẫn việc áp dụng pháp luật trong giải
quyết giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó việc tuyên truyền, phổ biến
của các cơ quan có trách nhiệm chưa thật sát sao. Tại nhiều địa phương, đang
tồn tại tình trạng nể nang, trọng tình hơn chấp hành quy định pháp luật trong
giải quyết các mối quan hệ về đất đai. Cán bộ địa chính, chủ tịch UBND xã nói
chung chưa làm tốt nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành
vi vi phạm pháp luật về đất đai trên địa bàn. Đó là nguyên nhân làm giảm hiệu

lực thi hành pháp luật, gây mất lòng tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu
tư và đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ GPMB [3].
7
b. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Đất đai là có hạn, không gian sử dụng đất đai cũng có hạn. Để tồn tại
và duy trì cuộc sống của mình con người phải dựa vào đất đai, khai thác và sử
dụng đất đai để sinh sống. Quy hoạch sử dụng đất đai là biện pháp quản lý
không thể thiếu được trong việc tổ chức sử dụng đất của các ngành kinh tế -
xã hội và các địa phương, là công cụ thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
có tác dụng quyết định để cân đối giữa nhiệm vụ an toàn lương thực với
nhiệm vụ CNH-HĐH đất nước nói chung và các địa phương nói riêng [22].
Thông qua việc lập, xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất để
tổ chức việc bồi thường GPMB thực sự trở thành sự nghiệp của cộng đồng mà
Nhà nước đóng vai trò là người tổ chức. Bất kỳ một phương án bồi thường
GPMB nào đều dựa trên một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nhằm đạt
được các yêu cầu như là phương án có hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất. Quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất có tác động tới chính sách bồi thường đất đai
trên hai khía cạnh:
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ quan
trọng nhất để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất, mà theo quy định của Luật đất đai, việc giao đất, cho thuê đất chỉ được
thực hiện khi có quyết định thu hồi đất đó của người đang sử dụng;
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nhân tố ảnh
hưởng tới giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất; từ đó tác động tới giá đất
tính bồi thường.
Tuy nhiên chất lượng quy hoạch nói chung và quy hoạch nói riêng còn
thấp, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, tính khả thi thấp, đặc biệt là thiếu tính bền
vững. Phương án quy hoạch chưa dự báo sát tình hình, quy hoạch còn mang
nặng tính chủ quan duy ý chí, áp đặt, nhiều trường hợp quy hoạch theo phong
trào. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng quy hoạch “treo”,

dự án “treo” [3].
8
c. Yếu tố giao đất, cho thuê đất
Nhiệm vụ giao đất, cho thuê đất có tác động rất lớn đến công tác bồi
thường GPMB và TĐC. Nguyên tắc giao đất, cho thuê đất, phải căn cứ vào
quy hoạch, kế hoạch là điều kiện bắt buộc, nhưng nhiều địa phương chưa thực
hiện tốt nguyên tắc này; hạn mức đất được giao và nghĩa vụ đóng thuế đất
quy định không rõ ràng, tình trạng quản lý đất đai thiếu chặt chẽ dẫn đến khó
khăn cho công tác đền bù. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường
tính từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 đến ngày 28/2/2007 thì tổng diện tích đã
giao, đã cho thuê là 1.081.011 ha, trong đó diện tích đất đã giao là 925.631 ha
(giao đất có thu tiền sử dụng đất là 581.620 ha, giao đất không thu tiền là
344.011 ha); diện tích đất đã cho thuê là 155.380 ha (trong đó diện tích đất
cho các nhà đầu tư nước ngoài thuê là 1.386 ha) [3].
d. Yếu tố lập và quản lý hồ sơ địa chính
Lập và quản lý chặt chẽ hệ thống hồ sơ địa chính (HSĐC) có vai trò
quan trọng hàng đầu để “quản lý chặt chẽ đất đai trong thị trường bất động
sản”, là cơ sở xác định tính pháp lý của đất đai. Trước tháng 12 năm 2004, rất
nhiều địa phương chưa lập đầy đủ HSĐC theo quy định; đặc biệt có nhiều xã,
phường, thị trấn chưa lập sổ địa chính (khoảng trên 30% số xã đã cấp GCN)
để phục vụ yêu cầu quản lý việc sử dụng đất đai, một số địa phương chưa lập
đủ sổ mục kê đất đai, sổ cấp GCN như Thành phố Hà Nội, các tỉnh Hà Tây,
Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Kiên Giang, Trà Vinh, [3].
Từ năm 2004 đến nay, việc lập HSĐC phải được thực hiện theo quy
định tại Thông tư 29/2004/TT-BTNMT của Bộ tài nguyên và Môi trường,
nhưng còn nhiều địa phương chưa triển khai thực hiện, nếu có thực hiện cũng
là chưa đầy đủ, chưa đồng bộ ở cả 3 cấp. Vì các tài liệu đo đạc bản đồ này có
độ chính xác thấp nên đang làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý
đất đai như không đủ cơ sở giải quyết tranh chấp đất đai, khó khăn trong giải
9

quyết bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Vì vậy, việc đo vẽ lại bản đồ địa
chính chính quy để thay thế cho các loại bản đồ cũ và lập lại HSĐC là rất cần
thiết.
e. Công tác đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Đăng ký đất đai (Land Registration) là một thành phần cơ bản quan
trọng nhất của hệ thống quản lý đất đai, đó là quá trình xác lập hồ sơ về quyền
sở hữu đất đai, bất động sản, sự đảm bảo và những thông tin về quyền sở hữu
đất [7]. Theo quy định của các nước, đất đai là một trong các tài sản phải đăng
ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Ở nước ta, theo quy định của Luật đất đai,
người sử dụng đất phải đăng ký quyền sử dụng đất với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (cụ thể là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất) và được cấp
GCNQSDĐ. Chức năng của đăng ký đất đai là cung cấp những căn cứ chuẩn
xác và an toàn cho việc thu hồi, chấp thuận và từ chối các quyền về đất.
Trong công tác bồi thường GPMB, GCNQSDĐ là căn cứ để xác định
đối tượng được bồi thường, loại đất, diện tích đất tính bồi thường. Hiện nay,
công tác đăng ký đất đai ở nước ta vẫn còn yếu kém, đặc biệt công tác đăng
ký biến động về sử dụng đất; việc cấp GCNQSDĐ vẫn chưa hoàn tất. Chính
vì vậy mà công tác bồi thường GPMB đã gặp rất nhiều khó khăn. Làm tốt
công tác đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ thì công tác bồi thường GPMB sẽ
thuận lợi, tiến độ GPMB nhanh hơn.
f. Yếu tố thanh tra chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý và sử
dụng đất đai
Công tác bồi thường GPMB là một việc làm phức tạp, gắn nhiều đến
quyền lợi về tài chính nên rất dễ có những hành vi vi phạm pháp luật nhằm
thu lợi bất chính, chính quyền địa phương cấp trên. Hồi đồng thẩm định phải
có kế hoạch thanh tra, kiểm tra và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên trong
quá trình triển khai thực hiện công tác bồi thường GPMB, kịp thời phát hiện
10
các sai phạm, vi phạm pháp luật để xử lý tạo niềm tin trong nhân dân [26].
2.1.3.2. Yếu tố giá đất và định giá đất

Hiện nay ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giá cả đất đai dựa
trên chuyển nhượng quyền sử dụng, là tổng hòa giá trị hiện hành địa tô nhiều
năm. Một trong những điểm mới của Luật đất đai 2003 là các quy định về giá
đất. Nếu như trước đây Nhà nước chỉ quy định một loại giá đất áp dụng cho
mọi quan hệ đất đai khác nhau thì Luật đất đai 2003 đề cập nhiều loại giá đất
để xử lý từng nhóm quan hệ đất đai khác nhau [12].
- Trước khi có Luật đất đai năm 2003:
Những vấn đề liên quan đến việc xác định giá đất, bồi thường, giải
phóng mặt bằng, tái định cư đều được quy định tại các văn bản dưới luật như
Nghị định số 87/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ quy định
khung giá các loại đất; Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 9 năm 1994 của
Chính phủ quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để
sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính
phủ ban hành quy định về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
Giá đất để tính bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất do UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quyết định trên cơ sở khung giá đất do
Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP. Khung giá đất để tính bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại Nghị định số 87/CP đã
được áp dụng trong một thời gian khá dài (trên mười năm), mặc dù trong quá
trình áp dụng có quy định việc điều chỉnh khung giá đất để tính bồi thường
bằng hệ số K nhưng mức tăng cao nhất cũng chỉ là 1, 2 lần đối với đất nông
nghiệp hạng i. Do vậy giá đất để tính bồi thường vẫn thấp hơn nhiều so với
giá thực tế, dẫn đến phát sinh hàng loạt các khiếu kiện về bồi thường, giải
11
phóng mặt bằng tại các địa phương [1].
- Từ khi có Luật đất đai 2003: Quy định giá đất được hình thành trong
các trường hợp sau đây (Điều 55):
- Do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định giá theo

quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 56 của Luật này;
- Do đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất;
- Do người sử dụng đất thỏa thuận về giá đất với những người có liên
quan khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử
dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Những vấn đề quan trọng, có tính nguyên tắc liên quan đến xác định
giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư đã được quy định khá cụ
thể tại Luật đất đai năm 2003. Đặc biệt, việc xác định giá đất được thực hiện
theo nguyên tắc “sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường
trong điều kiện bình thường” (khoản 1 Điều 56). Thực hiện các quy định về
giá đất tại Luật đất đai năm 2003, ngày 16 tháng 11 năm 2004, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 188/2004/NĐ-CP về phương pháp xác định giá đất và
khung giá các loại đất.
Khi định giá đất, người định giá phải căn cứ vào nguyên tắc và phương
pháp định giá đất; phải cân nhắc đầy đủ ảnh hưởng của chính sách đất đai của
Chính phủ trên cơ sở nắm chắc tư liệu thị trường đất đai, căn cứ vào những
thuộc tính kinh tế và tự nhiên của đất đai theo chất lượng và tình trạng thu lợi
thông thường trong hoạt động kinh tế thực tế của đất đai.
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, nguyên tắc định giá đất là
phải sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, tình hình
phổ biến hiện nay là giá đất do các địa phương quy định và công bố đều
không theo đúng nguyên tắc đó, dẫn tới nhiều trường hợp ách tắc về bồi
thường đất đai và phát sinh khiếu kiện.
12
2.1.3.3. Thị trường Bất động sản
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, thị trường bất động sản
ngày càng được hình thành và phát triển. Ngày nay thị trường bất động sản đã
trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống các loại thị trường của
nền kinh tế quốc dân, nó có những đóng góp vào ổn định xã hội và thúc đẩy
nền kinh tế đất nước trong thời gian qua và trong tương lai.

Luật đất đai 1987 và pháp lệnh về nhà ở (1991) là cơ sở đầu tiên mở
đường cho thị trường bất động sản hình thành và phát triển [7]. Luật đất đai
2003 là văn bản pháp quy tập trung nhất phản ánh chính sách đất đai hiện
hành trên cơ sở tổng kết hoạt động thực tiễn của 17 năm đổi mới, đã quy định
chi tiết hơn về các điều kiện để hình thành thị trường bất động sản và các hoạt
động về tài chính đất đai, thể hiện tập trung trong các mục “Tài chính về đất
đai và giá đất”, “Quyền sử dụng đất trong thị trường bất động.
Việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản góp phần giảm
thiểu việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư (do người đầu tư có thể
đáp ứng nhu cầu về đất đai thông qua các giao dịch trên thị trường); đồng thời
người bị thu hồi đất có thể tự mua hoặc cho thuê đất đai, nhà cửa mà không
nhất thiết phải thông qua Nhà nước thực hiện chính sách TĐC và bồi thường.
Giá cả của Bất động sản được hình thành trên thị trường và nó sẽ tác
động tới giá đất tính bồi thường.
2.1.4. Chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng của một số nước và các
tổ chức ngân hàng quốc tế
2.1.4.1. Trung Quốc
Ở Trung Quốc, đất đai thuộc chế độ công hữu, gồm sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể. Đất đai ở khu vực thành thị và đất xây dựng thuộc sở hữu nhà
nước. Đất ở khu vực nông thôn và đất nông nghiệp thuộc sở hữu tập thể, nông
dân lao động. Theo quy định của Luật đất đai Trung Quốc năm 1998, đất đai
13
thuộc sở hữu nhà nước được giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo các
hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất (cấp đất), giao đất có thu tiền sử
dụng đất và cho thuê đất.
Đất thuộc diện được cấp bao gồm đất sử dụng cho cơ quan nhà nước,
phục vụ mục đích công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng và phục vụ cho mục
đích quốc phòng, an ninh. Đất sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh thì
được Nhà nước giao đất theo hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc
là cho thuê đất.

Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để sử
dụng vào mục đích công cộng, lợi ích quốc gia thì Nhà nước có chính sách
bồi thường và tổ chức TĐC cho người bị thu hồi đất.
Vấn đề bồi thường cho người có đất bị thu hồi được pháp luật đất đai
Trung Quốc quy định như sau:
Về thẩm quyền thu hồi đất: Chỉ có Chính phủ (Quốc vụ viện) và chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới có quyền thu hồi đất. Quốc vụ
viện có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp từ 35 ha trở lên và 70 ha trở lên đối
với các laọi đất khác. Dưới hạn mức này thì do chính quyền tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương ra quyết định thu hồi đất. Đất nông nghiệp sau khi thu hồi sẽ
chuyển từ đất thuộc sở hữu tập thể thành đất thuộc sở hữu nhà nước.
Về trách nhiệm bồi thường: Pháp luật đất đai Trung Quốc quy định,
người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi thường. Phần lớn tiền
bồi thường do người sử dụng đất trả. Tiền bồi thường bao gồm các khoản như
lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước và các khoản tiền trả cho người có
đất bị thu hồi. Ngoài ra, pháp luật đất đai Trung Quốc còn quy định mức nộp
lệ phí trợ cấp đời sống cho người bị thu hồi đất là nông dân cao tuổi không
thể chuyển đổi sang ngành nghề mới khi bị mất đất nông nghiệp, khoảng từ
442.000-2.175.000 nhân dân tệ/ha.
14
Các khoản phải trả cho người bị thu hồi đất gồm tiền bồi thường đất
đai, tiền trợ cấp TĐC, tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất. Cách tính
tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp TĐC căn cứ theo giá trị tổng sản lượng
của đất đai những năm trước đây rồi nhân với một hệ số do Nhà nước quy
định. Còn đối với tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất thì xác định theo
giá thị trường tại thời điểm thu hồi đất.
Về nguyên tắc bồi thường: các khoản tiền bồi thường phải đảm bảo cho
người dân bị thu hồi đất có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ. ở Bắc
kinh, phần lớn các gia đình dùng số tiền bồi thường đó cộng với khoản tiền
tiết kiệm của họ có thể mua được căn hộ mới. Còn đối với người dân ở khu

vực nông thôn có thể dùng khoản tiền bồi thường mua được hai căn hộ ở cùng
một nơi.
Tuy nhiên, ở thành thị, cá biệt cũng có một số gia đình sau khi được
bồi thường cũng không mua nổi một căn hộ để ở. Những đối tượng trong diện
giải toả mặt bằng thường được hưởng chính sách mua nhà ưu đãi của Nhà
nước, song trên thực tế họ thường mua nhà bên ngoài thị trường.
Về tổ chức thực hiện và quản lý giải toả mặt bằng: Cục quản lý tài
nguyên đất đai ở các địa phương thực hiện việc quản lý giải toả mặt bằng.
Người nhận khu đất thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng giải toả mặt bằng
khu đất đó, thường là các đơn vị chịu trách nhiệm thi công công trình trên khu
đất giải toả.
Nhìn chung hệ thống pháp luật về bồi thường và TĐC của Trung Quốc
đều nhằm bảo vệ những người mà mức sống có thể bị giảm do việc thu hồi
đất để thực hiện các dự án. Theo một nghiên cứu gần đây của WB thì các luật
về TĐC của Trung Quốc đối với các dự án phát triển đô thị, công nghiệp và
giao thông "đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của WB trong tài liệu hướng dẫn
thực hiện TĐC".
15
2.1.4.2. Australia
Luật đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia thuộc sở hữu Nhà
nước và sở hữu tư nhân. Luật đất đai bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của
chủ sở hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp,
thừa kế theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích luỹ đất đai.
Theo luật của Australia 1989 có hai loại thu đất, đó là thu đất bắt buộc
và thu đất tự nguyện.
Thu hồi đất tự nguyện được tiến hành khi chủ đất cần được thu hồi đất.
Trong thu đất tự nguyên không có quy định đặc biệt nào được áp dụng mà
việc thoả thuận đó là nguyên tắc cơ bản nhất. Chủ có đất cần được thu hồi và
người thu hồi đất sẽ thoả thuận giá bồi thường đất trên tinh thần đồng thuận
và căn cứ vào thị trường. Không có bên nào có quyền hơn bên nào trong thoả

thuận và cũng không bên nào được áp đặt đối với bên kia.
Thu hồi đất bắt buộc được Nhà nước Australia tiến hành khi Nhà nước
có nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích công cộng và các mục đích khác.
Thông thường, nhà nước có được đất đai thông qua đàm phán.
Trình tự thu đất bắt buộc được thực hiện như sau: Nhà nước gửi cho
các chủ đất một văn bản trong đó nêu rõ mục tiêu thu hồi đất vì các mục đích
công cộng. Văn bản này gồm các nội dung chính như cơ quan muốn thu hồi
đất, miêu tả chi tiết mảnh đất, mục đích sử dụng đất sau khi thu hồi và các
giải thích vì sao mảnh đất đó phù hợp với mục tiêu công cộng đó. Chủ sở hữu
mảnh đất có thể yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tài Chính và quản lý xem xét lại vấn
đề thu hồi đất. Nếu chủ sở hữu vẫn chưa hài lòng thì có thể tiếp tục yêu cầu
trọng tài phúc thẩm hành chính phán xử. Trọng tài phúc thẩm hành chính
không thể xem xét tính đúng đắn về quyết định của Chỉnh phủ nhưng có thể
xem xét các vấn đề liên quan khác. Nhà nước thông báo rộng rãi quyết định
thu hồi đất và chủ sở hữu đất phải thông báo cho bất kỳ ai muốn mua mảnh
16
đất đó về quyết định thu hồi đất của Chính phủ. Sau đó, Nhà nước sẽ ban
hành quyết định thu hồi đất và thông báo trên báo chí. Chủ sở hữu đất nhận
được thông báo khuyên tiến hành các thủ tục yêu cầu bồi thường. Chủ sở hữu
đất thông thường có quyền tiếp tục ở trên đất ít nhất là 6 tháng sau khi đã có
quyết định thu hồi đất. Ngay sau khi có quyết định thu hồi đất, chủ đất có thể
yêu cầu nhà nước bồi thường. Nguyên tắc của bồi thường là công bằng và
theo giá thị trường. Thông thường, các yếu tố sẽ được tính toán trong quá
trình bồi thường đó là giá thị trường, giá đặc biệt đối với chủ sở hữu, các chi
phí liên quan như chi phí di chuyển, chi phí TĐC.
2.1.4.3. Chính sách bồi thường và TĐC của các tổ chức ngân hàng quốc tế
Ngân hàng Thế giới (WB) là một trong những tổ chức tài trợ quốc tế
đầu tiên đưa ra chính sách về TĐC bắt buộc. Tháng 2/1980, lần đầu tiên chính
sách TĐC được ban hành dưới dạng một Thông báo Hướng dẫn Hoạt động
nội bộ (OMS 2.33) cho nhân viên. Từ đó đến nay chính sách TĐC đã được

sửa đổi và ban hành lại nhiều lần.
Như chúng ta đã biết, khi Nhà nước thu hồi đất và TĐC thì những
người BAH là những người mà do hậu quả của dự án họ phải chịu thiệt hại
toàn bộ hay một phần tài sản vật chất và phi vật chất, bao gồm nhà cửa, cộng
đồng, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, các phương tiện sản xuất bao
gồm đất đai, nguồn thu nhập, kế sinh nhai do đất đai tạo ra, đặc trưng văn hoá
và tiềm năng về sự hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo đời sống, tài nguyên cho sinh
tồn và hệ sinh thái.
Kinh nghiệm của WB cho thấy việc TĐC không tự nguyện do các dự
án phát triển gây nên, trong trường hợp không thể giảm thiểu được, thường
dẫn đến những hiểm hoạ nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường do
các hệ thống sản xuất bị phá vỡ, con người phải đối mặt với sự bần cùng hoá
khi những tài sản, công cụ sản xuấ hay nguồn thu nhập của họ bị mất đi. Tất
17
cả những điều đó nếu giải quyết không tốt sẽ dẫn đến những khó khăn, căng
thẳng về xã hội và dễ dàng dẫn tới sự bần cùng hoá đời sống dân cư.
Từ tháng 2/1994, ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã bắt đầu áp
dụng bản Hướng dẫn hoạt động của WB về TĐC và từ tháng 11/1995 Ngân
hàng này đã có chính sách riêng của Ngân hàng về TĐC bắt buộc.
Nhìn chung, phương châm của ADB cũng tương tự như của WB đều có
xu hướng giảm thiểu đến mức thấp nhất các tác động của việc thu hồi đất,
đồng thời có chính sách thoả đáng, phù hợp đảm bảo cho người BAH không
gặp phải bất lợi trong cuộc sống, khôi phục, cải thiện chất lượng cuộc sống,
nguồn sống. Để thực hiện được phương châm đó, thì chìa khoá dẫn tới sự
thành công đó là phải chấp nhận và thực hiện chính sách phát triển mà con
người là trung tâm. Kinh nghiệm về lý thuyết cũng như thực tiễn cho thấy,
các yếu tố đảm bảo cho bồi thường, TĐC thành công là những chính sách phù
hợp của Chính phủ: nguồn tài chính đầu tư, khâu tổ chức thực hiện của chính
quyền địa phương và trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật của nhân dân.
Bên cạnh đó, sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền là yếu tố đồng hành trong quá trình thức hiện các dự án.
Đối với đất đai và tài sản được bồi thường, chính sách của WB và ADB
là phải bồi thường theo giá xây dựng mới đối với tất cả các công trình xây
dựng và quy định thời hạn bồi thườngTĐC hoàn thành trước một tháng khi dự
án triển khai thực hiện.
Việc lập kế hoạch cho công tác bồi thường TĐC được các tổ chức cho
vay vốn quốc tế coi là điều bắt buộc trong quá trình thẩm định dự án. Mức độ
chi tiết của kế hoạch phụ thuộc vào số lượng người BAH và mức độ tác động
của dự án. Kế hoạch bồi thường TĐC phải được coi là một phần của chương
trình phát triển cụ thể, cung cấp đầy đủ nguồn vốn và cơ hội cho các hộ BAH.
Ngoài ra còn phải áp dụng các biện pháp sao cho người bị di chuyển hoà nhập
được với cộng đồng mới.
18
Về quyền được tư vấn và tham gia của các hộ BAH, các tổ chức quốc
té quy định các thông tin về dự án cũng như chính sách bồi thường TĐC của
dự án phải được thông báo đầy đủ, công khai để tham khảo ý kiến, hợp tác,
thậm chí trao quyền cho các hộ BAH và tìm mọi cách thoả mãn nhu cầu chính
đáng của họ trong suốt quá trình lập kế hoạch bồi thường TĐC cho tới khi
thực hiện công tác lập kế hoạch.
2.1.4.4. Nhận xét, đánh giá
Việc xây dựng và phát triển các công trình đều cần có đất. Do đất đai
có hạn, vì thế mọi Nhà nước đều phải sử dụng quyền lực của mình để thu hồi
đất hoặc trưng thu của người đang sở hữu, đang sử dụng để phục vụ cho nhu
cầu xây dựng các công trình phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia. Ở
mỗi nước, quyền lực thu hồi, trưng thu đất được ghi trong Hiến pháp hoặc tại
Bộ Luật đất đai hoặc một bộ luật khác. Nếu việc thu hồi, trưng thu đã phù hợp
với quy định của pháp luật mà người sở hữu hoặc sử dụng đất không thực
hiện thì Nhà nước có quyền chiếm hữu đất đai. Việc thu hồi đất, trung thu đất
và bồi thường thiệt hại về đất tại mỗi quốc gia đều được thực hiện theo chính
sách riêng do Nhà nước đó quy định.

Qua nghiên cứu chính sách bồi thường GPMB của một số nước và các
tổ chức ngân hàng quốc tế, Việt Nam chúng ta cần học hỏi các kinh nghiệm
để tiếp tục hòan thiện chính sách bồi thường GPMB ở một số điểm sau:
- Hoàn thiện các quy định về định giá đất nói chung và định giá đất để
bồi thường GPMB nói riên;
- Thực hiện thống nhất trình tự, thủ tục thực hiện và thực hiện tốt quy
định về thẩm định, phê duyệt, giám sát thực hiện phương án bồi thường, giải
phóng mặt bằng; quan tâm hơn nữa tới việc quy hoạch và xây dựng nơi tái
định cư, tạo việc làm của người có đất bị thu hồi; xử lý hài hòa mối quan hệ
lợi ích giữa người sử dụng đất, Nhà nước và nhà đầu tư.
19
2.1.5. Chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng của việt nam
2.1.5.1. Trước khi có Luật đất đai năm 1993
Trong mỗi kiểu Nhà nước tuỳ theo tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và
những đặc điểm truyền thống, huyết thống, tập tục mà các hình thức sở hữu
đất đai luôn được giai cấp thống trị chú trọng. Ngày từ thời kỳ phát triển Nhà
nước trung ương tập quyền đến thời Nguyễn, chính sách bồi thường cho
người bị thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đã được xác lập và chủ yếu tập
trung vào bồi thường cho ruộng đất canh tác, đất ở không được quan tâm
nhiều so với các loại đất khác. Hình thức bồi thường chủ yếu bằng tiền, mức
bồi thường được quy định chặt chẽ, tương ứng với những thiệt hại của người
bị thu hồi đất [8].
Sau cách mạng tháng 8/1945, với mục tiêu người cày có ruộng, ngày 04
tháng 12 năm 1953, Luật cải cách ruộng đất ra đời nhằm thủ tiêu quyền chiếm
hữu ruộng đất của thực dân Pháp và tay sai bán nước ở Việt Nam, xoá bỏ chế
độ phong kiến về chiếm hữu ruộng đất, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của
nông dân, đồng thời tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng.
Khi trưng thu ruộng đất, Nhà nước xác định, cách bồi thường tốt nhất là
vận động nông dân điều chỉnh hoặc nhượng ruộng đất cho người bị trưng
dụng để họ tiếp tục sản xuất. Trường hợp không làm được như vậy, về đất sẽ

được bồi thường bằng tiền từ 1- 4 năm sản lượng thường niên của ruộng đất
bị trưng dụng. Mức bồi thường căn cứ vào thực tế ở mỗi nơi, đời sống của
nhân dân cao hay thấp, ruộng đất ít hay nhiều, tốt hay xấu mà định. Có thể
nói, Nghị định số 151/TTg ra đời phần nào đáp ứng nhu cầu trưng dụng ruộng
đất trong những năm 1960. Tuy nhiên, Nghị định này chưa có quy định cụ thể
về mức bồi thường mà chủ yếu dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.
Ngày 11 tháng 01 năm 1970, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư
1792/TTg quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây
20
cối, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng
thành phố. Về thể thức bồi thường, trước hết là các ngành, các cơ quan xây
dựng phải đến liên hệ với chính quyền các cấp để tiến hành thương lượng với
nhân dân, căn cứ vào tài sản hiện có hoặc hoa màu, công sức bỏ ra khai phá
và phân loại đất đai của địa phương mà định giá bồi thường cho phù hợp.
Mặc dù chính sách bồi thường về đất chưa được quy định trong luật về
thể chế thành một chính sách đầy đủ, song quy định về bồi thường khi nhà
nước trưng dụng đất tại Thông tư 172/TTg đã có sự thay đổi so với Nghị định
151/TTg, từ " chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống của những người có
ruộng đất bị trưng dụng" trước đây sang "đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế
của Hợp tác xã và của nhân dân" động thời những quy định tại Nghị định số
151/TTg trước đây chỉ có tính nguyên tắc thì đến Thông tư 1792-TTg đã được
quy định cụ thể mức bồi thường nhà ở, đất đai, cây lâu năm, hoa màu trên đất.
Luật đất đai năm 1988 ra đời dựa trên quy định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, khi Nhà nước thu hồi đất để phục
vụ cho các mục đích công cộng, người sử dụng đất không được Nhà nước bồi
thường bằng đất, chỉ được bồi thường bằng tiền, tài sản hoa màu có trên diện
tích đất bị thu hồi.
Ngày 31 tháng 5 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số
186/HĐBT về bồi thường thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác. Theo quy định của Nghị định số 186/HĐBt

thì mọi tổ chức, cá nhân được giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng
vào mục đích khác phải bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng
cho Nhà nước. Khoản tiền bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có
rừng mà người được Nhà nước giao đất phải nộp được điều tiết về ngân sách
Trung ương 30%, còn laị 70% thuộc ngân sách địa phương để sử dụng việc
khai hoang, phục hoá, cải tạo đất nông nghiệp và định canh, định cư cho nhân
21
dân vùng bị lấy đất. Người có đất bị thu hồi chỉ được bồi thường thiệt hại tài
sản trên đất, trong lòng đất. Nếu Nhà nước thu hồi đất vào đất làm nhà ở, việc
bồi thường thiệt hại về đất không được đặt ra và người bị thu hồi đất làm nhà
ở sẽ phải tự lo liệu.
Tóm lại, do thời kỳ này đất đai chưa được thừa nhận là có giá cho nên
các chính sách bồi thường GPMB còn có nhiều hạn chế, thể hiện trong cách
tính giá trị bồi thường, phương thức thực hiện. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
công bằng thì những chính sách này cũng đã đóng vai trò tích cực trong việc
GPMB để dành đất cho việc xây dựng các công trình quan trọng trong hệ
thống cơ sở hạ tầng ban đầu của đất nước.
2.1.5.2. Thời kỳ 1993 đến 2003
Hiến pháp 1992 đặt nền móng cho việc xây dựng chính sách bồi thường
GPMB qua những điều 17, 18, 23.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật đất đai 1993 được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực từ ngày 15 thàng 10 năm 1993. Với quy định "đất có giá"
và người sử dụng đất có các quyền và nghĩa vụ, đây là sự đổi mới có ý nghĩa
rất quan trọng đối với công tác bồi thường GPMB của Luật đất đai năm 1993.
Những quy định về bồi thường GPMB của Luật đất đai năm 1993 đã
thu được những thành tựu quan trọng trong giai đoạn đầu thực hiện, nhưng
càng về sau, do sự chuyển biến mau lẹ của tình hình kinh tế xã hội, nó đã dần
mất đi vai trò làm động lực thúc đẩy phát triển. Để tạo điều kiện đẩy nhanh
tốc độ GPMB đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, đồng thời bảo đảm
quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật đất đai đã được thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001.
Để cụ thể hoá các quy định của Luật đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001, nhiều văn bản quy định về
chính sách bồi thường GPMB đã được ban hành, bao gồm:
22
- Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 9 năm 1994 của Chính phủ quy
định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Xét về tính
chất và nội dung, Nghị định 90/CP đã đáp ứng được một số yêu cầu nhất
định, so với các văn bản trước, Nghị định này là văn bản pháp lý mang tính
toàn diện cao và cụ thể hoá việc thực hiện chính sách bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất, việc đền bù bằng đất cùng mục đích sử dụng, cùng hạng
đất.v.v.
- Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 ban hành khung giá các loại đất;
- Thông tư Liên bộ số 94/TTLB ngày 14/11/1994 của Liên bộ Tài chính
–Xây dựng- Tổng cụ Địa chính – Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn thi hành
Nghị định 87/CP;
- Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2004 của Chính
phủ về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; thay thế Nghị
định số 90/CP nói trên;
- Thông tư 145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thi hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2004 của Chính
phủ.
* Chính sách bồi thường GPMB cụ thể theo quy định của Nghị định số
22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC:
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC đã
quy định rõ phạm vi áp dụng bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất,
đối tượng phải bồi thường thiệt hại, đối tượng được bồi thường thiệt hại,
phạm vi bồi thường thiệt hại và các chính sách cụ thể về bồi thường thiệt hại

về đất, tài sản gắn liền với đất, việc lập khu TĐC cũng như việc tổ chức thực
hiện.
23
2.1.5.3. Từ khi có Luật đất đai năm 2003
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực ngày 01
tháng 7 năm 2004. Để hướng dẫn việc bồi thường GPMB theo quy định của
Luật đất đai năm 2003, một số văn bản sau đã được ban hành:
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính
phủ về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành
Luật đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà
nước thành công y cổ phần;
- Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ
Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng
12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Thông tư số 69/2006/TT-BTC ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Bộ Tài
chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm
2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất.
Về cơ bản, chính sách bồi thường GPMB theo Luật đất đai 2003 đã kế
thừa những ưu điểm của chính sách trong thời kỳ trước, đồng thời có những đổi
mới nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc trong việc bồi thường GPMB hiện
nay.
Tuy nhiên để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong công tác bồi
thường GPMB ngày 25-5-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định
84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực

24
hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Thông tư 06 ướng dẫn thiện
một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP, Thông tư 145/2007/TT-BTC
Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/204/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của
Chính phủ về phương pháp xác định giá đất; Thông tư liên tịch số
14/2008/TTLT/BTC-BTNMT ngày 31 tháng 01 năm 2008 Hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính
phủ quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử
dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
Về Nghị định 84/2007/NĐ/CP tập trung vào việc làm rõ, bổ sung Nghị
định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định số 17/2006/NĐ-CP về một số những vấn
đề cơ bản chính sách bồi thường, trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ, trình tự thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Nguyên tác xuyên suốt của Nghị định 84/2007/NĐ-CP là đảm bảo
quyền và lợi ích của người sử dụng đất, thực hiện hài hòa 3 lợi ích: Người sử
dụng đất, nhà đầu tư và quyền của nhà nước theo quy định của pháp luật.
2.1.5.4. Nhận xét, đánh giá
Qua nghiên cứu chính sách bồi thường GPMB của Việt Nam qua các
thời kỳ cho thấy vấn đề bồi thường GPMB đã được đặt ra từ rất sớm, các
chính sách đều xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và được điều chỉnh tích cực để
phù hợp hơn với xu hướng phát triển của đất nước. Trên thực tế các chính
sách đó đã có tác dụng tích cực trong việc đảm bảo sự cân đối và ổn định
trong phát triển, khuyến khích được đầu tư và tương đối giữ được nguyên tắc
công bằng.
Cùng với sự đổi mới về tiến trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan lập pháp và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chính
25

×