Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VỚI SỰ THAY ĐỔI HỆ THỐNG GIÁ TRỊ CÁ NHÂN TRONG TỔ CHỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.92 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VỚI SỰ THAY ĐỔI
HỆ THỐNG GIÁ TRỊ CÁ NHÂN TRONG
TỔ CHỨC
Môn học : Hành Vi Tổ Chức
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Văn Chương
Sinh viên thực hiện : Nhóm 11
Lớp : VB16BQT01


Tp.Hồ Chí Minh, 09/2014
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN






























PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VỚI SỰ
THAY ĐỔI HỆ THỐNG GIÁ TRỊ CÁ NHÂN TRONG TỔ CHỨC 1
PHẦN A: 1
PHẦN B: NỘI DUNG 3
PHẦN C: Ý NGHĨA ĐỀ TÀI 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………….19
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ TRẮC NGHIỆM …………………………………… 20
1
PHẦN A:
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ:
Vấn đề được đặt ra là bản chất của con người là gì để có thể phân biệt con
người với các loài động vật khác; Con người thể hiện bản chất của mình như
thế nào; Và cơ sở của sự xuất hiện ý thức giá trị của con người là gì? Thật ra,
tất cả những vấn đề trên đã được quan tâm lý giải từ nhiều góc độ khác nhau,
đặc biệt là từ triết học. Mỗi cá nhân là một thành phần quan trọng tạo nên xã
hội, sự thay đổi của mỗi cá nhân đều gây ra những tác động đến sự phát triển
của xã hội và gây ảnh hưởng đến những cá nhân khác.
Giá trị theo quan điểm của mỗi người sẽ ít nhiều khác biệt nhưng nhìn chung

nó được thống nhất theo những chuẩn mực quy định của xã hội. Lẽ đương
nhiên, từ sự ảnh hưởng này nên những thay đổi trong đời sống xã hội ít nhiều
đều có tác động đến hệ thống giá trị mà mỗi cá nhân quy định cho bản thân để
sống và lao động trong cuộc đời họ.
Cụ thể hơn là trong một tổ chức mà bạn đang làm việc , giá trị cá nhân là
những thứ bạn tin rằng quan trọng đối với chính mình và đem đến thành công
cho những công việc bạn làm hằng ngày. Khi những việc bạn làm và cách bạn
cư xử hòa hợp với các giá trị của bạn, cuộc sống dường như vui vẻ hơn và
công việc không còn là gánh nặng. Ngược lại, khi công việc bạn làm đi ngược
lại các giá trị bản thân, bạn cảm thấy có điều gì đó không ổn, và chắc chắn,
công việc của bạn sẽ không thành công như mong muốn.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Thông qua phân tích mối liên hệ này nhằm tìm hiểu những giá trị cá nhân của
con người để biết được giá trị cá nhân thay đổi như thế nào khi xã hội thay đổi,
đồng thời phân tích sự tác động của giá trị cá nhân đến tổ chức. Từ đó định
hướng, thay đổi giá trị của bản thân sao cho phù hợp với sự phát triển xã hội
theo hướng tích cực.
III. PHƯƠNG PHÁP, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Phạm vi nghiên cứu sẽ đề cập đến các vấn đề sau: ảnh hưởng của từng yếu tố
xã hội như hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động, giao tiếp khi thay đổi sẽ có
tác động đến giá trị cá nhân trong tổ chức như thế nào. Từ các kết quả thu
2
được, đề tài sẽ phân tích hành vi của giá trị cá nhân trong tổ chức thay đổi khi
xã hội có sự phát triển.
Tham khảo thêm tài liệu trên internet, sách vỡ có liên quan đến đề tài.
3
PHẦN B: NỘI DUNG
I. GIÁ TRỊ CÁ NHÂN:
1. Khái niệm giá trị cá nhân:
Giá trị cá nhân là tiêu chuẩn hành vi của con người là sự cai trị của lời

nói đúng sai, thái độ của sự khách quan và thực hiện theo các nguyên
tắc của tự kiểm soát và cố gắng để ảnh hưởng đến những người khác.
Rokeach nghĩ rằng giá trị cá nhân là niềm tin cốt lõi của tổng niềm tin
và nó quyết định liệu người ta có nên làm điều gì và xem xét sự siêng
năng là giá trị đối với một số loại kết quả, là một khái niệm tóm tắt các
cấp độ của cấu trúc tâm lý, là động lực lâu dài hướng hành vi của con
người theo trạng thái mong muốn. Giá trị cá nhân là quan điểm chính
trong đời sống con người và ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của
khách hàng, nó có mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống nhận thức của
khách hàng và có một ảnh hưởng lâu dài lên hành vi hơn thái độ.
Là một thay thế cho văn hóa, quan điểm “cá nhân” giải thích hành vi
dựa trên những đặc điểm, tính cách cá nhân, bao gồm: giá trị, niềm tin,
và đặc điểm. Giá trị là khía cạnh cơ bản và lâu dài của cả con người và
tổ chức. Bởi vì giá trị chung cho văn hóa tổ chức và đặc điểm cá nhân,
chúng thường được sử dụng như một biện pháp cá nhân khi nghiên cứu
sự phù hợp giữa con người và tổ chức.
Những giá trị thể hiện những phán quyết cơ bản về các dạng cụ thể của
hành vi hoặc tình trạng cuối cùng là được ưa thích hay không ưa thích
(đối với cá nhân hay xã hội). Giá trị chứa đựng các yếu tố phán quyết
trong đó bao gồm các ý kiến của một cá nhân về cái gì là đúng, hoặc
sai; tốt, hoặc xấu; được ưa thích hay không được ưa thích.
Những giá trị luôn chứa đựng sự quy kết về nội dung và cường độ:
 Sự quy kết nội dung cho rằng cách thực hiện hoặc tình trạng cuối
cùng là quan trọng hay không quan trọng.
 Sự quy kết về cường độ cụ thể hóa nó là quan trọng như thế nào, đến
mức nào.
4
2. Tầm quan trọng, nguồn gốc và đặc điểm của giá trị cá nhân:
a. Tầm quan trọng của giá trị:
Trong nghiên cứu hành vi tổ chức, giá trị là quan trọng bởi nó đặt cơ

sở cho hiểu biết về thái độ, động cơ, cũng như ảnh hưởng tới nhận
thức của chúng ta. Một cá nhân gia nhập một tổ chức với những nhận
thức về những cái mà họ có thể làm và những điều mà họ không thể
làm. Tất nhiên, những nhận thức này không phải là một sự tự do về
giá trị. Trái lại nó chứa đựng những sự diễn đạt của cá nhân về cái gì
là đúng và cái gì là sai. Hơn nữa, nó ngầm thể hiện những hành vi
hoặc kết cục nào đó là được ưa thích hơn những hành vi và kết cục
khác. Như là kết quả, giá trị che phủ, làm mờ sự khách quan và hợp
lý. Nói chung, giá trị ảnh hưởng tới thái độ và hành vi của con người.
b. Nguồn gốc hệ thống giá trị của con người:
Giá trị phát triển ngay từ ban đầu thông qua những mối tương tác xã
hội với những mẫu hình phân vai như cha mẹ và giáo viên. Bởi vì giá
trị được học hỏi, cho nên thường có những sự giống nhau trong khuôn
mẫu giá trị trong những nền văn hóa, như là những giá trị chung được
chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác (Meglino & Ravlin, 1998).
Điều này được củng cố với nghiên cứu những mối quan hệ biểu hiện
giữa giá trị cá nhân và giá trị văn hóa chung; trên thực tế, Oishi,
Schimack, Diener, và Suh (1998) kết luận rằng “khuôn mẫu của quan
hệ giữa một giá trị cụ thể và những biến khác nên được kiểm nghiệm
ở mức độ văn hóa”; tr. 1186). Giá trị được học từ ban đầu một cách
riêng biệt như là những chân lý (Maio & Olson, 1998; Rokeach, 1973)
và giá trị được nhìn nhận một cách tích cực. Tuy nhiên nếu tất cả
những giá trị đều tốt như nhau, chúng ta sẽ không thể lựa chọn giữa
chúng khi xác định cái nào nên tác động đến hành vi.
Thông qua tương tác xã hội, sự tiếp xúc với một môi trường xã hội
mới có thể làm thay đổi hệ thống giá trị một người, đó là việc tại sao
quá trình cố gắng hòa nhập thi thoảng có thể thay đổi những giá trị
của người mới đến để trở nên giống những người trong tổ chức hơn
(Cable & Parsons, 2001). Qua thời gian, những giá trị mà những cá
5

nhân học hỏi phát triển thành một hệ thống giá trị, thông qua những
trải nghiệm trong đó hai giá trị được đặt trong trạng thái mâu thuẫn,
ép buộc một cá nhân phải chọn cái này thay vì cái kia (Rokeach,
1972), quá trình này cũng có thể xảy ra do nội tâm cá nhân (Locke &
Henne, 1986).
c. Đặc điểm:
Giá trị có xu hướng thay đổi nhiều trong quá trình thanh niên và trước
tuổi trưởng thành (cụ thể là những sinh viên); tuy nhiên chúng thường
khá ổn định trong tuổi trưởng hành (Kapes & Strickler, 1975;
Rokeach, 1972).
Bardi và Schwartz (2003) giải thích rằng giá trị cũng ảnh hưởng hành
vi thông qua những hoạt động quen thuộc thường nhật, trong trường
hợp đó quá trình nhận thức có thể không cần thiết cho những giá trị
ảnh hưởng đến hành vi. Họ đề xuất rằng những giá trị ảnh hưởng đến
hành vi mang tính thói quen thông qua cơ chế xúc cảm, có nghĩa là
chúng ta cảm thấy tích cực khi hành động phù hợp với những giá trị
của chúng ta và thấy tiêu cực khi ngược lại.
Giá trị cá nhân cơ bản là cấu trúc nhận thức của một người và do đó
chúng lâu dài hơn thái độ (Kamakura và Novak, 1992).
Giá trị mang tính tiềm ẩn nhiều hơn, ổn định hơn, và tổng quát hơn
thái độ (England & Lee, 1974). Thêm vào đó, những giá trị được sắp
xếp thứ tự theo sự quan trọng, như thế một người sẽ có xu hướng hành
động dựa theo giá trị quan trọng hơn khi hai giá trị đang mâu thuẫn
nhau.
3. Các loại giá trị cá nhân:
a. Phân loại theo G.Allport, Vernon và Lindzey (1970):
Một trong những cách phân loại đầu tiên được thực hiện bởi G.Allport
và các cộng sự. Cách phân loại này chia hệ thống giá trị làm 6 loại:
• Lý thuyết: đặt sự coi trọng cao vào việc khám phá ra sự thật
thông qua tiếp cận hợp lý và phê phán.

6
• Kinh tế: chú trọng đến sự hữu ích và tính kinh tế.
• Thẩm mỹ: đặt giá trị cao nhất vào hình dáng và sự hài hòa.
• Xã hội: đặt giá trị cao nhất vào tình yêu của con người.
• Chính trị: tập trung chú ý vào việc thâu tóm, củng cố quyền
lực và sự ảnh hưởng.
• Tín ngưỡng: quan tâm tới sự thống nhất của kinh nghiệm và
sự thống nhất của vũ trụ như một tổng thể.
Allport và các cộng sự đã sử dụng bảng câu hỏi trong đó đưa ra các
tình huống khác nhau. Trên cơ sở câu trả lời, các nhà nghiên cứu đã
xếp hạng cá nhân theo tầm quan trọng mà họ đánh giá đối với mỗi
loại giá trị. Kết quả thu được là hệ thống giá trị của một cá nhân cụ
thể. Sử dụng cách tiếp cận này đã cho thấy con người trong các nghề
nghiệp khác nhau đánh giá khác nhau về tầm quan trọng trên 6 loại
giá trị.
Người lãnh đạo
tôn giáo
Người lãnh đạo
kinh doanh
Nhà khoa học trong
công nghiệp
1 Tín ngưỡng Kinh tế Lý thuyết
2 Xã hội Lý thuyết Chính trị
3 Thẩm mỹ Chính trị Kinh tế
4 Chính trị Tín ngưỡng Thẩm mỹ
5 Lý thuyết Thẩm mỹ Tín ngưỡng
6 Kinh tế Xã hội Xã hội
b. Phân loại theo Rokeach (1973):
A Rokeach (1973) khẳng định rằng con người có một số lượng không
lớn các giá trị và tất cả các cá nhân đều có những giá trị như nhau,

nhưng ở những mức độ khác nhau, chẳng hạn mọi người đều có giá trị
hòa bình nhưng một số người thì cho nó có giá trị ưu tiên cao hơn
những người khác. Nói chung theo Rokech có hai loại giá trị và mỗi
loại đều có tính độc lập ưu tiên riêng của mình (hai tập hợp giá trị này
không liên quan nhau). Một loại là giá trị phương tiện và một loại là
7
giá trị mục tiêu cuối cùng hoặc là định hướng mục tiêu và giá trị
phương tiện.
Giá trị phương tiện mô tả những tiêu chuẩn mong muốn về tư chất
đạo đức hoặc phương pháp để đạt được mục đích. Hai loại của giá trị
phương tiện liên quan đến đạo đức và khả năng thực hiện công việc.
Những giá trị phi đạo lý (chẳng hạn hành vi sai trái) gây ra cảm giác
tội lỗi, trong khi những giá trị thiếu khả năng thực hiện công việc
(chẳng hạn hành vi bất tài, không làm được) gây ra cảm giác xấu hỗ.
Giá trị tới hạn (giá trị mục đích) mô tả mục đích hoặc mục tiêu mong
muốn cuối cùng của cá nhân. Theo Rokech thì giá trị mục tiêu có ít
hơn giá trị phương tiện, cho nên toàn bộ cá nhân trong tất cả các xã
hội đều có thể nhận biết được. Giá trị mục đích có thể là chú trọng vào
cá nhân hoặc xã hội (chẳng hạn sự bình yên của bản thân hoặc là một
thế giới hòa bình). Rokeach đã tìm thấy một sự gia tăng về quyền ưu
tiên của một xu hướng giá trị cá nhân cao làm gia tăng sự ưu tiên về
giá trị cá nhân và giảm ưu tiên của giá trị xã hội. Ngược lại, một sự
gia tăng về quyền ưu tiên của xu hướng xã hội cao làm gia tăng sự ưu
tiên của những giá trị xã hội và làm giảm giá trị của những giá trị cá
nhân. Những cá nhân mà gia tăng sự ưu tiên của họ về một thế giới
hòa bình cũng sẽ gia tăng sự ưu tiên của họ về sự công bằng trong khi
đó sẽ làm giảm sự ưu tiên của họ về niềm vui thích của mình hoặc
lòng tự trọng. Con người có xu hướng khác nhau trong đánh giá, họ tự
nhận thức chống lại khuynh hướng của người khác về những giá trị
của mình.

4. Sự thay đổi giá trị cá nhân theo thời gian:
Trong đa số năm tháng của đời mình, ít khi ta sống một mình. Lý do là
ta cần sự yêu thương, vỗ về, giúp đỡ, an ủi. Đó là những thứ chỉ đến với
ta từ người khác. Do vậy, khi sống ta cần người khác. Tầm quan trọng
của người khác đối với ta thay đổi mức độ tuỳ theo tuổi tác của ta.Vì sự
cần người khác của ta thay đổi, cho nên giá trị cuộc sống của ta cũng
thay đổi theo tuổi tác.
8
- Vào thời trẻ, ta ít cần người khác, nên ít nghĩ đến mình. Cuộc sống
tràn trề sinh lực.Vì vậy vào thời kỳ đó ta dễ quên mình để theo đuổi các
lý tưởng cao đẹp, mà đa phần là có lợi cho việc chung. Nhờ sự xả thân
của tuổi trẻ, xã hội, đất nước sẽ có nhiều tiến bộ về kinh tế, chính trị, xã
hội…
- Đến tuổi trung niên, ta có gia đình, có vợ chồng để lo cho nhau trong
hiện tại, có con cái để lo cho tương lai. Giá trị trong giai đoạn này là
chu toàn trách nhiệm đối với chính mình, với hiện tại và với tương lai.
Vào lúc ấy giá trị cá nhân là xây dựng một gia đình hạnh phúc để làm
nền tảng cho sự bền vững lâu dài của quốc gia, và cũng là để cho ta
được hưởng các niềm vui của cuộc sống vợ chồng, con cái.
- Vào lúc tuổi già, khi con cái đã lớn khôn, thì giá trị cá nhân là truyền
đạt các kinh nghiệm khác nhau về nghề nghiệp, cuộc sống, kiến thức và
đạo đức cho thế hệ sau. Vào tuổi này việc làm gương và rao truyền đạo
đức là giá trị sống.
Để thực thi các giá trị khác nhau theo thời gian thì ta phải trang bị cho
mình, hay được trang bị, ngay từ nhỏ các đức hạnh căn bản (sự tiết độ,
lòng thương người, tinh thần trách nhiệm, tình bằng hữu, chăm chỉ làm
việc, can đảm, kiên nhẫn, ngay thẳng, trung thành…) Có chúng trong
lòng, tự nhiên ta sẽ thấy phải chống lại những gì xấu và phát huy những
gì tốt trong xã hội.
5. Những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi giá trị cá nhân:

Định hướng giá trị là một thành phần quan trọng trong nhân cách của
con người.
 Từ sự đổi thay những giá trị nhân văn:
Lối sống thực dụng ngày càng lan truyền nhanh trong đời sống xã hội.
Những hiện tượng về tính bạo lực, tính giả dối hay sự không chung thủy
khiến con người ngày càng mất niềm tin vào nhau. Như một phản ứng
tự vệ mang tính tất yếu, cá nhân có sự chuyển đổi thu mình, bảo vệ bản
thân bằng những quan điểm trái ngược nhằm giảm tối đa nhất sự tổn
thương về mặt tâm lý.
9
Sự nghi ngờ mang tính cộng đồng dẫn đến sự thay đổi giá trị nơi cá
nhân. Những giá trị về lòng nhân ái, tính vị tha được ông cha ta dạy dỗ,
lưu truyền thì giờ đây giới trẻ sợ bị lợi dụng nếu áp dụng triệt để những
giá trị ấy. Chính vì vậy, họ phân vân trước những quyết định mang tính
nhân văn. Khi quyên góp tiền nhân đạo họ cũng đặt câu hỏi: Liệu số
tiền này có đến tận tay người cần giúp đỡ?
Cuộc sống bận rộn, cha mẹ ít có thời gian giáo dục con cái hơn. Nếu
như trước đây, phần lớn những giá trị truyền thống đều do ông bà, cha
mẹ truyền đạt hay răn dạy con cháu qua những bữa cơm gia đình thì
dường như ngày nay những điều ấy đã khá lạ lẫm.
Công nghệ thông tin quá phát triển, mỗi thành viên trong gia đình giao
tiếp với nhau qua công nghệ là chủ yếu. Thời gian ăn cơm, xem phim
cùng nhau rất ít huống chi ngồi bên nhau để tâm tình, chia sẻ Và giới
trẻ chủ yếu giao lưu trên thế giới ảo hoặc bạn bè - trong khi đây đều là
những kênh thông tin chưa có sự chín chắn về nhân cách cũng như độ
chính xác không cao.
Sự thay đổi hay nói một cách mạnh mẽ hơn sự biến đổi nơi giá trị con
người không chỉ đổ lỗi cho sự tác động về mặt xã hội, hoàn cảnh xã hội
khiến cá nhân mất niềm tin vào những giá trị mang tính nhân văn mà
ảnh hưởng lớn nhất cần bàn đến là gia đình.

 Đến sự đổi thay các giá trị văn hóa:
Cá nhân ngày nay dễ dàng chấp nhận với những hành vi không phù hợp
với chuẩn mực xã hội hơn và đôi khi xem đó là trào lưu của xã hội hiện
đại. Lòng tự trọng được hạ thấp và cái tôi ảo được nâng cao. Họ sẵn
sàng nói sai sự thật về cá nhân khác hay khoe thân thể để đánh đổi sự
nổi tiếng, sự giàu có cho riêng mình.
Nếu ngày xưa, người Việt được biết qua cá tính “trọng sự hòa thuận”,
“một cái lý một bằng một tý cái tình” thì ngày nay con người dễ dàng
10
“nhảy bổ” vào nhau bằng hành động lẫn ngôn từ. Lối sống ích kỷ ngày
càng xâm chiếm một cách mạnh mẽ.
6. Hệ thống giá trị cá nhân của Schwarts:
Mô hình hệ thống giá trị cá nhân của Schwartz được tạo thành 4 nhóm
là:
 Cởi mở để thay đổi ( Openness to change)
Tự định hướng (Self-Direction): suy nghĩ và hành động độc lập, tự
lựa chọn, sáng tạo và khám phá.
Kích thích (Stimulation): phấn khích, cách tân, hứng thú, mới lạ và
thách thức trong cuộc sống.
Hưởng thụ (Hedonism): khoái lạc và sự thõa mãn các giác quan của
bản thân. Giá trị tận hưởng bắt nguồn từ nhu cầu có tổ chức và niềm vui
liên quan đến việc đáp ứng chúng.
 Bảo thủ (Conservation)
Sự đảm bảo (Security): sự đảm bảo an toàn, hài hòa và ổn định xã hội,
các mối quan hệ, bản thân.
Tuân thủ (Conformity): các cá nhân hạn chế hành động, khuyn hướng
và có khả năng khó chịu khi làm hại người khác hay vi phạm các mong
đợi, chỉ tiêu của xã hội. Giá trị này ngăn cản các cá nhân có khuynh
hướng làm suy yếu hay phá vỡ tương tác và hoạt động nhóm.
11

Truyền thống (Tradition): cá nhân tôn trọng, cam kết và chấp nhận
phong tục tập tập quán, ý tưởng của nền văn hóa truyền thống hay tôn
giáo. Chúng mang những hình thức lễ nghi và các chuẩn mực của hành
vi.
 Tự nâng cao (Self-enhancement)
Thành tựu (Achievement): cá nhân thành công thông qua các tiêu
chuẩn xã hội. Hiệu suất là nguồn lực để tồn tại cho các cá nhân và nhóm
và các tổ chức để đạt được mục tiêu của họ.
Quyền lực (Power): các cá nhân quan tâm đến địa vị xã hội và uy tín,
kiểm soát hay sự thống trị đối với con người và nguồn lực.
 Vì lợi ích chung (Self- transcedence)
Vị tha (Benevolence): bảo vệ và nâng cao phúc lợi cho người khác
là một trong những liên hệ cá nhân thường xuyên (hay trong nhóm). Giá
trị vị tha được thể hiện thông qua sự hiểu biết, đánh giá, khoan dung,
bảo vệ phúc lợi cho người khác mà rộng hơn là trên thế giới và cả thiên
nhiên.
Bác ái (Universalism): sự hiểu biết, sự đánh giá, khoan dung, và bảo vệ
cho phúc lợi của tất cả mọi người và đối với thiên nhiên.
Dựa vào mô hình thì những giá trị đối diện nhau trong vòng tròn có xu
hướng mâu thuẫn hay đối lập nhau, như những cá nhân chấp nhận cái
này thì sẽ không chấp nhận cái kia như: cởi mở để thay đổi so với
bảo thủ (Openness to Change – Conservation) mâu thuẫn giữa những
giá trị nhấn mạnh sự độc lập trong suy nghĩ, hành động, cảm xúc và sẵn
sàng cho sự thay đổi (tự định hướng và kích thích) với giá trị nhấn giá
trị trật tự, tự hạn chế, bảo vệ trong quá khứ và kháng cự sự thay đổi (sự
đảm bảo, tuân thủ, truyền thống); tự nâng cao với vì lợi ích
chung (Self-Enhancement – Self-Transcendence) sự đối lập giữa các
giá trị coi trọng việc đeo đuổi thành tích cho bản thân, kiểm soát con
người hay vật khác (thành tựu và quyền lực) và giá trị coi trọng lợi ích
12

của người khác (bác ái, vị tha). Còn sự hưởng thụ thì chia sẻ cả hai giá
trị là cởi mở để thay đổi so với tự nâng cao.
Theo đuổi sự mới lạ và thay đổi (các giá trị kích thích) là có khả năng
làm suy yếu giá trị phong tục tập quán (các giá trị truyền thống).
Ngược lại theo đuổi các giá trị truyền thống là tương đồng với theo đuổi
các giá trị tuân thủ. Cả hai đều thúc đẩy hành động của mình theo mong
đợi bên ngoài. Trong khi đó, những giá trị cạnh nhau thường tương
đồng và tường được chấp nhận như nhau. Vì vậy, Schwartz (2009)
đã kết hợp các giá trị cạnh bên, hình thành những cặp động lực
như sau: Quyền lực và Thành tựu: lòng tự trọng và sự vượt trội trong xã
hội. Thành tựu và Sự hưởng thụ: sự thỏa mãn vị kỷ, sự hài lòng cho bản
thân là trung tâm. Sự hưởng thụ và Sự kích thích: mong muốn một sự
khuấy động dễ chịu. Sự kích thích và Tự định hướng: quan tâm đến
sự cách tân, sự tinh thông, thành thạo và làm chủ. Tự định hướng và
Bác ái: sự tin tưởng vào những phán xét của bản thân và sự thoải mái
với những dị biệt của hiện thực. Bác ái và Vị tha: sự đề cao người khác
và sự vượt qua những sở thích ích kỷ. Vị tha và Truyền thống: sự tận
tâm với tập thể, nhóm. Vị tha và Sự tuân thủ: những phép tắc thúc đẩy
những mối quan hệ thân tình. Sự tuân thủ và Truyền thống: sự hạ mình
dưới những kì vọng xã hội đặt ra. Truyền thống và Sự đảm bảo: sự bảo
tồn những thỏa hiệp xã hội đang bảo đảm sự bền vững cho cuộc sống.
Sự tuân thủ và Sự đảm bảo: sự bảo vệ của trật tự và hài hòa trong những
mối quan hệ. Sự đảm bảo và Quyền lực: tránh né hoặc vượt qua những
mối đe dọa bằng cách chi phối những mối quan hệ và những nguồn lực.
II. XÃ HỘI VÀ CÁC YẾU TỐ TỪ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ
TRỊ CÁ NHÂN:
1. Khái niệm xã hội:
Xã hội là một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt với
các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ
cùng một thể chế và có cùng văn hóa.

13
Một định nghĩa bình thường của "xã hội" thường đề cập đến một nhóm
người sống cùng trong một cộng đồng có lề lối, như xã hội Anh, xã hội
Mỹ
Những bộ môn khoa học xã hội sử dụng từ xã hội để nói đến một nhóm
người tạo dựng một hệ thống xã hội một phần khép kín (hoặc một phần
mở rộng), trong đó những người trong một nhóm hầu hết tương tác với
những người khác thuộc cùng nhóm đó.
Một cách trừu tượng hơn, một xã hội được coi là một mạng lưới của
những mối quan hệ của các thực thể. Một xã hội thỉnh thoảng cũng
được coi là một cộng đồng với các cá nhân trong cộng đồng đó phụ
thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, các nhà xã hội học mong muốn tìm được
ranh giới giữa xã hội và cộng đồng.
2. Những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến giá trị cá nhân:
a. Hoàn cảnh sống:
Giá trị cá nhân chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những
giá trị vật chất và tinh thần, phong tục tập quán của dân tộc, của địa
phương, nghề nghiệp có liên hệ với tự nhiên ấy qua phương thức sống
của chính bản thân họ. Quan điểm của thuyết hành vi mới không tính
đến yếu tố này trong sự hình thành và phát triển giá trị cá nhân, mà coi
con người như một sản phẩm thụ động của môi trường. Theo quan điểm
của họ, môi trường tác động đến con người như thế nào, thì cũng tạo ra
con người như thế ấy. Đó là sự suy diễn máy móc.
Lẽ dĩ nhiên, trong mỗi một kiểu xã hội nào đó, bao giờ cũng có giá trị
cá nhân cho xã hội đó và xã hội nào, nhìn chung, cũng thiết lập một số
chuẩn mực, giá trị mà mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải
hướng tới. Nhưng điều đó không có nghĩa là sự hình thành giá trị cá
nhân đồng nhất với quy luật phát triển xã hội. Khi nghiên cứu sự ảnh
hưởng của môi trường xã hội đối với sự phát triển giá trị cá nhân, nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, môi trường xã hội bao gồm: môi trường vĩ mô

và môi trường vi mô. Môi trường vĩ mô được coi là nguyên nhân chung
của tính quyết định xã hội, còn môi trường vi mô là những hoàn cảnh xã
hội trực tiếp, mang tính đặc thù của tính quyết định xã hội.
14
b. Giáo dục:
Trong tâm lý học, giáo dục thường được hiểu như là một quá trình tác
động có ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức
và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan
giáo dục ngoài nhà trường.
Khi tiếp nhận bất cứ việc gì, giá trị cá nhân cũng dựa trên chuẩn mực xã
hội để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Không chỉ thế, họ còn
dựa vào những cái bên trong, những kinh nghiệm của mình để đánh giá,
tiếp nhận hay gạt bỏ cái bên ngoài. Như thế, quá trình này luôn gắn với
năng lực tự đánh giá, tự ý thức của mỗi người và do vậy, gắn với quá
trình tự giáo dục, quá trình thường xuyên tự hoàn thiện mình của giá trị
cá nhân. Giá trị cá nhân không phải là một cái gì đó đã hoàn tất, mà là
quá trình luôn đòi hỏi sự trau dồi thường xuyên.
Đó có thể là hệ thống giáo dục địa phương, là nhà trường, gia đình…
Việc đặt vấn đề môi trường giáo dục thiết nghĩ là cần thiết, bởi nó cho
phép chúng ta giải thích sự đa dạng của giá trị cá nhân, nếu chỉ dựa vào
những tồn tại cơ bản của xã hội thì sẽ không giải thích được. Cho nên,
có thể dù cùng sống trong một thời đại, một nhóm xã hội, một môi
trường giáo dục giống nhau và thậm chí, ngay cùng một gia đình,
nhưng con người vẫn có những phẩm chất, những giá trị cá nhân khác
nhau, vấn đề đặt ra là sẽ giáo dục như thế nào cho phù hợp vì sự ảnh
hưởng của nó là sâu sắc.
Giáo dục mang lại những cái mà yếu tố bẩm sinh hoặc môi trường tự
nhiên không thề đem lại được. Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự
hình thành và phát triển giá trị cá nhân.
c. Hoạt động:

Hoạt động là nhân tố tác động quyết định trực tiếp đối với sự hình thành
và phát triển giá trị cá nhân. Nhằm thoả mãn nhu cầu tự nhiên hay xã
hội, vật chất hay tinh thần của đời sống riêng thì hoạt động là những
biểu hiện phong phú về tính tích cực của giá trị cá nhân. Tuỳ thuộc vào
nhu cầu và lợi ích của mình, các cá nhân hoạt động với những động cơ,
15
tình cảm và lý trí khác nhau và qua đó trong hoạt động, những mặt nhất
định của tích cực xã hội xuất hiện trong mỗi cá nhân.
Thông qua hai quá trình đối tượng hoá và chủ thể hoá trong hoạt động
mà giá trị cá nhân được bộc lộ và hình thành. Thông qua hoạt động, con
người đóng góp lực lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới
khách quan. Bởi lẽ, con người là một động vật xã hội khác với toàn bộ
thế giới động vật còn lại ở khả năng hoạt động có ý thức. Sự hoạt động
có ý thức là điều kiện cơ bản để phân biệt hoạt động của con người với
hoạt động của con vật. Con người sáng tạo ra tất cả của cải vật chất và
tinh thần, đồng thời cũng sáng tạo ra chính giá trị cá nhân của mình.
Sự hình thành và phát triển giá trị cá nhân của mỗi người phụ thuộc vào
hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kỳ nhất định. Muốn hình thành giá trị cá
nhân phải tham gia vào các hoạt động khác, nhất là vai trò của hoạt
động chủ đạo. Tóm lại, hoạt động của con người được hình thành và
phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức. Hoạt động của
con người không chỉ được thực hiện giữa người với sự vật mà với cả
người khác.
d. Giao tiếp:
Đối tượng của tâm lý là những chỉnh thể tâm lý sống động, những giá
trị cá nhân hoàn chỉnh, là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài
người làm xuất hiện, duy trì, phát triển giao tiếp và trở thành sản phẩm
của giao tiếp. Con người sẽ không thể tồn tại, phát triển được nếu
không có sự giao tiếp với thế giới xung quanh, với cộng đồng người. Hệ
thống các quan hệ xã hội không phải là cái gì trừu tượng, xa lạ, mà do

chính con người tạo ra.
Nó thể hiện một cách khách quan, được vật thể hoá trong nền văn hoá
vật chất và tinh thần của xã hội. Nó có thể ở trong những vật thể cụ thể,
trong công cụ sản xuất, trong các quan hệ xã hội, trong ngôn ngữ hoặc
trong những hình thức và phương pháp tư duy… Trong quá trình lao
động, con người không chỉ phát triển năng lực của mình mà trong quá
trình đó, con người đã đối tượng hoá các năng lực ấy trong các vật
16
phẩm. Các thế hệ sau sử dụng những vật phẩm đó cũng có nghĩa là nắm
lấy những kinh nghiệm đã có.
Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, các quan hệ
xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so
sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân
mình như là một giá trị cá nhân.
3. Những biện pháp giới hạn dẫn đến những thay đổi xấu:
Trong bất kỳ sự thay đổi hoặc phát triển của một sự vật sự việc nào đó
cũng sẽ gây ra tác động đến một hoặc nhiều sự vật sự việc khác, và sự
tác động có thể dẫn đến những thay đổi tốt và cả những thay đổi xấu
của sự vật sự việc bị tác động. Ta lấy ví dụ, một con sư tử muốn sinh
tồn phát triển nó cần phải giết hại một hoặc con nai để cung cấp thức ăn
cho nó, hành động giết con nai đã ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng loài
nai trong tự nhiên (giảm số lượng), ta gọi đây là mặt tiêu cực của sự
thay đổi. Tuy nhiên nếu hình một từ một góc độ khác ta thấy hành động
giết nai chính là để cân bằng tự nhiên không bị phá vỡ, đây là mặt tích
cực của sự thay đổi
Sự phát triển của xã hội cũng vậy, một khi xã hội phát triển thì nó sẽ
ảnh hưởng đến những cá nhân, tổ chức trong xã hội đó, và sự tác động
này là không thể tránh khỏi. Như đã nói, mọi sự thay đổi đều có sự tích
cực và tiêu cực của nó. Xã hội phát triển là một xu hướng của thời đại
của lịch sử mà ta không thể nào ngăn được sự phát triển của nó, vì vậy

ta chỉ có thể hạn chế sự tác động tiêu cực của phát triển xã hội ảnh
hưởng đến giá cá nhân và tổ chức.
Sau là một số gợi ý để hạn chế dẫn đến những thay đổi xấu:
Cải thiện chất lượng đời sống của mỗi cá nhân. Đây cũng chính là
một trong những di huấn của Bác, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt
để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống
của nhân dân”. Mỗi cá nhân khi có được đời sống tốt hơn thì họ sẽ có
nhiều điều kiện hơn để quan tâm đến những thứ khác, đến lợi ích của
17
tập thể, và học cũng có nhiều điều kiện để học tập nâng cao tri thức của
bản thân góp phần xây dựng tổ chức bền vững phát triển hơn.
Nâng cao tri thức của mỗi cá nhân. Tri thức đóng vai trò quan trọng
trong việc nhận thức của mỗi người, và nhận thức sẽ ảnh hưởng đến
thái độ, thái độ sẽ quyết định hành vi của con người, vì vậy khi con
người có tri thức càng cao, họ càng có nhiều cơ hội để tiếp xúc với ngày
càng nhiều thông tin hơn, từ đó mở rộng được tầm nhìn, nâng cao được
khả năng phán đoán và cũng ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ của họ đối
một sự vật sự việc. Tri thức càng cao con người sẽ có cơ hội nhìn nhận
một vấn đề sự việc ở nhiều góc độ hơn, từ đó đưa ra phán đoán chính
xác hơn, dẫn đến hạn chế thái độ tiêu cực.
Hệ thống quy định-quy tắc công bằng văn minh. Một tổ chức muốn
duy trì lâu dài không những phải có những quy định chặt chẽ, rõ ràng,
mà còn cần phải đảm bảo được sự công bằng văn minh với mọi người
mọi cấp bậc trong tổ chức. Thật vậy, nếu một tổ chức không có sự công
bằng thì rất dễ dẫn đến những hành động tiêu cực của một hoặc nhiều
cá nhân và tổ chức đó rất khó để đứng vững. Mở rộng hơn nữa, những
quy định trong một tổ chức nhìn ở góc độ rộng hơn chính là hệ thống
pháp luật của một quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển bền vững thì
cần phải có hệ thống pháp luật công bằng văn minh, nếu không quốc
gia đó sẽ không thể nào phát triển.

PHẦN C: Ý NGHĨA ĐỀ TÀI.
Như vậy khi xã hội phát triển thì có một số hệ giá trị cũ sẽ mất đi và hình
thành một số hệ giá trị mới phù hợp hơn. Đặc biệt là khi sống trong một tổ
chức thì nó đòi hỏi ta phải thay đổi từng giờ, từng ngày, nếu không thay đổi thì
ta sẽ bị đào thải ra khỏi tổ chức đó ngay.hệ giá trị giúp con người tồn tại và
phát triển.
18
Qua bài nghiên cứu ta rút ra được hoàn cảnh sống tác động đến giá trị con
người như thế nào, giáo dục cũng góp phần không nhỏ đến việc hình thành
nên giá trị con người, thông qua những hoạt động và giao tiếp con người sẽ
dần hoàn thiện hơn giá trị bản thân. Qua đó giúp ta nắm rõ hơn về giá trị, để từ
đây ta có những phương pháp quản lý tốt hơn phù hợp với giá trị từng người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Hành vi tổ chức - Nguyễn Hữu Lam
2. Tài liệu trên intenet.
19
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ TRẮC NGHIỆM
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm giá trị cá nhân?
Giá trị cá nhân là tiêu chuẩn hành vi của con người là sự cai trị của lời nói đúng
sai, thái độ của sự khách quan và thực hiện theo các nguyên tắc của tự kiểm soát
và cố gắng để ảnh hưởng đến những người khác. Rokeach nghĩ rằng giá trị cá
20
nhân là niềm tin cốt lõi của tổng niềm tin và nó quyết định liệu người ta có nên
làm điều gì và xem xét sự siêng năng là giá trị đối với một số loại kết quả, là một
khái niệm tóm tắt các cấp độ của cấu trúc tâm lý, là động lực lâu dài hướng hành
vi của con người theo trạng thái mong muốn. Giá trị cá nhân là quan điểm chính
trong đời sống con người và ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của khách hàng, nó
có mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống nhận thức của khách hàng và có một ảnh
hưởng lâu dài lên hành vi hơn thái độ.

2. Tầm quan trọng và đặc điểm của giá trị cá nhân.
Tầm quan trọng của giá trị cá nhân:
Trong nghiên cứu hành vi tổ chức, giá trị là quan trọng bởi nó đặt cơ sở cho
hiểu biết về thái độ, động cơ, cũng như ảnh hưởng tới nhận thức của chúng ta.
Một cá nhân gia nhập một tổ chức với những nhận thức về những cái mà họ có thể
làm và những điều mà họ không thể làm. Tất nhiên, những nhận thức này không
phải là một sự tự do về giá trị. Trái lại nó chứa đựng những sự diễn đạt của cá
nhân về cái gì là đúng và cái gì là sai. Hơn nữa, nó ngầm thể hiện những hành vi
hoặc kết cục nào đó là được ưa thích hơn những hành vi và kết cục khác. Như là
kết quả, giá trị che phủ, làm mờ sự khách quan và hợp lý. Nói chung, giá trị ảnh
hưởng tới thái độ và hành vi của con người.
Đặc điểm của giá trị cá nhân:
Giá trị có xu hướng thay đổi nhiều trong quá trình thanh niên và trước tuổi
trưởng thành (cụ thể là những sinh viên); tuy nhiên chúng thường khá ổn định
trong tuổi trưởng hành (Kapes & Strickler, 1975; Rokeach, 1972).
Bardi và Schwartz (2003) giải thích rằng giá trị cũng ảnh hưởng hành vi thông qua
những hoạt động quen thuộc thường nhật, trong trường hợp đó quá trình nhận
thức có thể không cần thiết cho những giá trị ảnh hưởng đến hành vi. Họ đề xuất
rằng những giá trị ảnh hưởng đến hành vi mang tính thói quen thông qua cơ chế
xúc cảm, có nghĩa là chúng ta cảm thấy tích cực khi hành động phù hợp với những
giá trị của chúng ta và thấy tiêu cực khi ngược lại.
Giá trị cá nhân cơ bản là cấu trúc nhận thức của một người và do đó chúng lâu dài
hơn thái độ (Kamakura và Novak, 1992).
21
Giá trị mang tính tiềm ẩn nhiều hơn, ổn định hơn, và tổng quát hơn thái độ
(England & Lee, 1974). Thêm vào đó, những giá trị được sắp xếp thứ tự theo sự
quan trọng, như thế một người sẽ có xu hướng hành động dựa theo giá trị quan
trọng hơn khi hai giá trị đang mâu thuẫn nhau.
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi giá trị cá nhân.
 Từ sự đổi thay những giá trị nhân văn:

Lối sống thực dụng ngày càng lan truyền nhanh trong đời sống xã hội. Những
hiện tượng về tính bạo lực, tính giả dối hay sự không chung thủy khiến con người
ngày càng mất niềm tin vào nhau. Như một phản ứng tự vệ mang tính tất yếu, cá
nhân có sự chuyển đổi thu mình, bảo vệ bản thân bằng những quan điểm trái
ngược nhằm giảm tối đa nhất sự tổn thương về mặt tâm lý.
Sự nghi ngờ mang tính cộng đồng dẫn đến sự thay đổi giá trị nơi cá nhân. Những
giá trị về lòng nhân ái, tính vị tha được ông cha ta dạy dỗ, lưu truyền thì giờ đây
giới trẻ sợ bị lợi dụng nếu áp dụng triệt để những giá trị ấy. Chính vì vậy, họ phân
vân trước những quyết định mang tính nhân văn. Khi quyên góp tiền nhân đạo họ
cũng đặt câu hỏi: Liệu số tiền này có đến tận tay người cần giúp đỡ?
Cuộc sống bận rộn, cha mẹ ít có thời gian giáo dục con cái hơn. Nếu như trước
đây, phần lớn những giá trị truyền thống đều do ông bà, cha mẹ truyền đạt hay răn
dạy con cháu qua những bữa cơm gia đình thì dường như ngày nay những điều ấy
đã khá lạ lẫm.
Công nghệ thông tin quá phát triển, mỗi thành viên trong gia đình giao tiếp với
nhau qua công nghệ là chủ yếu. Thời gian ăn cơm, xem phim cùng nhau rất ít
huống chi ngồi bên nhau để tâm tình, chia sẻ Và giới trẻ chủ yếu giao lưu trên
thế giới ảo hoặc bạn bè - trong khi đây đều là những kênh thông tin chưa có sự
chín chắn về nhân cách cũng như độ chính xác không cao.
Sự thay đổi hay nói một cách mạnh mẽ hơn sự biến đổi nơi giá trị con người
không chỉ đổ lỗi cho sự tác động về mặt xã hội, hoàn cảnh xã hội khiến cá nhân
mất niềm tin vào những giá trị mang tính nhân văn mà ảnh hưởng lớn nhất cần
bàn đến là gia đình.
22
 Đến sự đổi thay các giá trị văn hóa:
Cá nhân ngày nay dễ dàng chấp nhận với những hành vi không phù hợp với chuẩn
mực xã hội hơn và đôi khi xem đó là trào lưu của xã hội hiện đại. Lòng tự trọng
được hạ thấp và cái tôi ảo được nâng cao. Họ sẵn sàng nói sai sự thật về cá nhân
khác hay khoe thân thể để đánh đổi sự nổi tiếng, sự giàu có cho riêng mình.
Nếu ngày xưa, người Việt được biết qua cá tính “trọng sự hòa thuận”, “một cái lý

một bằng một tý cái tình” thì ngày nay con người dễ dàng “nhảy bổ” vào nhau
bằng hành động lẫn ngôn từ. Lối sống ích kỷ ngày càng xâm chiếm một cách
mạnh mẽ.
4. Trình bày những yếu tố tác động đến sự thay đổi của giá trị cá nhân trong
tổ chức khi xã hội phát triển.
a. Hoàn cảnh sống:
Giá trị cá nhân chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những
giá trị vật chất và tinh thần, phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương,
nghề nghiệp có liên hệ với tự nhiên ấy qua phương thức sống của chính bản
thân họ.Quan điểm của thuyết hành vi mới không tính đến yếu tố này trong sự
hình thành và phát triển giá trị cá nhân, mà coi con người như một sản phẩm
thụ động của môi trường. Theo quan điểm của họ, môi trường tác động đến
con người như thế nào, thì cũng tạo ra con người như thế ấy. Đó là sự suy diễn
máy móc.
Lẽ dĩ nhiên, trong mỗi một kiểu xã hội nào đó, bao giờ cũng có giá trị cá nhân
cho xã hội đó và xã hội nào, nhìn chung, cũng thiết lập một số chuẩn mực, giá
trị mà mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải hướng tới. Nhưng điều đó
không có nghĩa là sự hình thành giá trị cá nhân đồng nhất với quy luật phát
triển xã hội. Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với sự
phát triển giá trị cá nhân, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, môi trường xã hội
bao gồm: môi trường vĩ mô và môi trường vi mô. Môi trường vĩ mô được coi
là nguyên nhân chung của tính quyết định xã hội, còn môi trường vi mô là
những hoàn cảnh xã hội trực tiếp, mang tính đặc thù của tính quyết định xã
hội.

×