Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2012.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 107 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
 




NGUYỄN QUANG MINH




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



Tp.Hồ Chí Minh năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
 


NGUYỄN QUANG MINH


Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



Giảng viên hƣớng dẫn: TS. NGUYỄN THANH PHONG



Tp.Hồ Chí Minh năm 2013



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU i
Chƣơng 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
VÀO LẠM PHÁT 1
1.1. Cơ sở lý luận về tỷ giá hối đoái 1
1.1.1. Khái niệm về tỷ giá hối đoái 1
1.1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái 1
1.1.3. Các yếu tố vĩ mô tác động đến tỷ giá hối đoái 3
1.1.4. Các chế độ tỷ giá 4
1.1.5. Công cụ điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Trung ương 6
1.2. Cơ sở lý luận về lạm phát 8
1.2.1. Khái niệm về lạm phát 8
1.2.2. Phân loại lạm phát 9
1.2.3. Cách thức đo lường 11
1.2.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát 12
1.2.5. Ảnh hưởng của lạm phát 15
1.2.6. Biện pháp kiểm soát lạm phát 18
1.3. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát 20

1.4. Tổng quan lý thuyết về cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát 22
1.4.1. Các nghiên cứu trên thế giới về cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát 22
1.4.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam về cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát 25
1.5 Đề xuất mô hình nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát tại Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2012 25
Kết luận chương 1 26
Chƣơng 2 : THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 28


2.1. Thực trạng điều hành tỷ giá hối đoái và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
28
2.1.1. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO 30
2.1.2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO 33
2.2. Kiểm định cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát tại Việt Nam 43
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu 43
2.2.2. Các bước thực hiện nghiên cứu 44
2.2.3. Số liệu nghiên cứu 44
2.2.4. Thực hiện nghiên cứu. 47
Kết luận chương 2 60
Chƣơng 3 : GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 61
3.1 Những bất cập trong điều hành tỷ giá hối đoái và lạm phát của Ngân hàng Trung ương
thời gian qua 62
3.2 Giải pháp kiểm soát truyền dẫn của tỷ giá hối đoái vào lạm phát 64
3.2.1 Trong hoạt động kinh tế 64
3.2.3. Trong chính sách tỷ giá 66
3.2.3. Giải pháp trong việc bình ổn lạm phát 66
3.3. Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan chức năng 68
3.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ 68

3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 71
3.3.3. Kiến nghị đối với doanh nghiệp 72
Kết luận chương 3 74
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, số liệu thống kê là trung
thực, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong
bất cứ công trình nào cho tới thời điểm này.
Tp.HCM, ngày 16 tháng 09 năm 2013
Tác giả




Nguyễn Quang Minh




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Danh mục từ viết tắt tiếng Việt
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
NHTW : Ngân hàng Trung ương

TGHD : Tỷ giá hối đoái
Danh mục từ viết tắt tiếng Anh
ADB : Asian Develop Bank
Ngân hàng Phát triển Châu Á
CPI : Consumer price index
Chỉ số giá tiêu dùng
ERPT : Exchange rate Pass Through
Truyền dẫn tỷ giá hối đoái
FDI : Foregin Direct Investment
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP : Gross Dosmetic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
IMF : International Moneytary Fund
Quỹ tiền tệ Thế giới
NEER : Nominal Effective Exchange rate
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu lực đa phương
REER : Real Effective Exchange rate


Tỷ giá hối đoái thực hiệu lực đa phương
RER : Real Exchange rate
Tỷ giá hối đoái thực
SBV : The State Bank of Vietnam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
UK : United Kingdom
: Vương quốc Anh
USD : United State Dollar
Đola Mỹ
WB : World Bank
Ngân hàng Thế giới

WTO : World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới






DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1 Biên độ giao dịch tỷ giá được công bố trên thị trường liên ngân hàng 34
Bảng 2.2 Kiểm định nhân quả Granger 51
Bảng 2.3 Hệ số truyền dẫn của TGHĐ vào lạm phát 54
Bảng 2.4 Hệ số truyền dẫn của sản lượng nhập khẩu vào cung tiền 56
Bảng 2.5 Hệ số truyền dẫn của cung tiền vào TGHĐ 57
Bảng 3.1 Phân định giải pháp cho các cơ quan liên quan 67
DANH MỤC ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012 28
Biểu đồ 2.2 Tăng trưởng kinh tế và lạm phát giai đoạn 2000 - 2006 30
Biểu đồ 2.3 Tỷ lệ lạm phát ở Việt nam và TGHĐ (2000 – 2006) 31
Biểu đồ 2.4 Tỷ lệ lạm phát Việt Nam và tốc độ tăng cung tiền (2000 – 2006) 32
Biểu đồ 2.5 Tăng trưởng lạm phát với năm 2005 giai đoạn 2007 - 2012 35
Biểu đồ 2.6 Tỷ giá hối đoái cuối quý (2007 – 2012) 36
Biểu đồ 2.7 Diễn biến lạm phát theo tháng năm 2010 và 2011 39
Biểu đồ 2.8 Tốc độ tăng giảm tỷ giá trong năm 2012 41


DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 2.1 Lạm phát sau khi được điều chỉnh yếu tố mùa vụ 46
Hình 2.2 TGHĐ sau khi điều chỉnh yếu tố mùa vụ 47

Hình 2.3 Kiểm định tính dừng của lạm phát 48
Hình 2.4 Kiểm định tính dừng của TGHĐ 49
Hình 2.5 Ước lượng độ trễ của biến 53
Hình 2.6 Hàm phản ứng đẩy của TGHĐ vào lạm phát 54
Hình 2.7 Hàm phản ứng đẩy của sản lượng nhập khẩu vào cung tiền 55
Hình 2.8 Hàm phản ứng đẩy của cung tiền vào TGHĐ 57
Hình 2.9 Kết quả phân rã phương sai 59
i


LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Như chúng ta đều biết lạm phát là một chỉ số có ảnh hưởng lan truyền rất rộng
trong nền kinh tế, nó ảnh hưởng tới hầu hết các biến số của nền kinh tế như giá cả,
việc làm, lãi suất, cung tiền, GDP, TGHĐ… Cụ thể khi nền kinh tế của một quốc gia
có lạm phát với các yếu tố khác không đổi lạm phát sẽ ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa
được sản xuất tại quốc gia đó, làm cho hàng hóa của nước đó trở nên đắt hơn hàng hóa
của các nước khác ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng của người dân trong nước thay
vì tiêu dùng hàng hóa được sản xuất trong nước lại chuyển sang tiêu dùng hàng hóa
nhập khẩu nhiều hơn, và hàng hóa được sản xuất trong nước cũng ngày càng khó xuất
khẩu hơn qua đó làm cho cán cân thương mại của quốc gia thâm hụt và giá trị đồng
tiền của quốc gia sẽ vô hình chung giảm đi trên thị trường thế giới làm thay đổi TGHĐ
quốc gia.
Câu hỏi đặt ra trong trường hợp này là khi TGHĐ của một quốc gia thay đổi thì
nó có ảnh hưởng ngược lại tới lạm phát trong nền kinh tế của quốc gia đó không?
Tại Việt Nam, mục tiêu kinh tế trong năm 2013 là “Ổn định kinh tế vĩ mô, lạm
phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn 2012, đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn
với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, tăng cường

quốc phòng an ninh và ổn định xã hội, tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho
những năm về sau” đã được Quốc hội thông qua tại Nghi quyết về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2013. Thể hiện quyết tâm kiềm chế, cắt giảm lạm phát nhằm ổn
định đời sống người dân của Chính phủ.
Cùng lúc đó “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện
hội nhập ngày càng sâu rộng” là một trong những quan điểm phát triển trong chiến
lược phát triển kinh tế giai đoạn 2011 – 2020. Để có thể phát triển bền vững, ngoài tận
dụng tốt các nguồn lực trong nước Chính phủ còn cần phải khéo léo vận dụng các
nguồn lực nước ngoài cho tiến trình phát triển đất nước, trong đó mở cửa thị trường
ii


vốn, thu hút đầu tư, kinh nghiệm nước ngoài là bước đi thiết yếu để đáp ứng mục tiêu
trên. Tuy nhiên Chính phủ cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi quyết định mở
cửa, mà khó khăn đầu tiên chính là việc lựa chọn từ bỏ một trong ba mục tiêu kinh tế
là chính sách tiền tệ độc lập, dòng vốn tự do lưu chuyển và TGHĐ cố định còn được
biết đến như bộ ba bất khả thi trong nền kinh tế. Với nền kinh tế còn non trẻ như Việt
Nam việc mở cửa thị trường vốn là bước đi cần rất nhiều thận trọng, đã có rất nhiều
bài học đắt giá của Chính phủ các nước trên thế giới trong việc lựa chọn từ bỏ một
trong ba mục tiêu trên khi mở cửa thị trường vốn, gần nhất là khủng hoảng tại Thái
Lan năm 1997.
Đối mặt với những thách thức trên để có thể ngày hội nhập sâu, rộng vào nền
kinh tế thế giới, và phát triển bền vững Chính phủ Việt Nam cần phải học hỏi kinh
nghiệm của các nước đi trước đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của việc từ bỏ một
trong ba mục tiêu của bộ ba bất khả thi sẽ tác động như thế nào đến nền kinh tế nước
nhà.
Đứng trước nhu cầu đó tôi chọn đề tài này nhằm có một số cái nhìn sơ lược về sự
truyền dẫn của TGHĐ đến nền kinh tế trong nước, khi Việt Nam mở cửa tài khoản vốn
thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và lựa chọn từ bỏ chế độ TGHĐ cố định hiện
tại.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Hệ thống cơ sở lý thuyết về tỷ giá hối đoái, lạm phát, mối quan hệ giữa tỷ giá hối
đoái và lạm phát, các lý thuyết về nghiên cứu cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào
lạm phát.
Phân tích thực trạng điều hành tỷ giá hối đoái và lạm phát của Ngân hàng Trung
ương, cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát tại Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp kiểm soát truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát tại Việt
Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tỷ giá hối đoái (tập trung vào tỷ giá hối đoái giữa VND
và USD khi phân tích thực trạng điều hành; tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu lực đa
iii


phương trong mô hình nghiên cứu); Lạm phát tại Việt Nam thể hiện qua CPI; Cơ chế
truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát.
Phạm vi nghiên cứu: Số liệu phục vụ nghiên cứu lấy từ nền kinh tế Việt Nam
theo quý giai đoạn 2000 - 2012
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp định tính: thống kê, mô tả, so sánh, phân tích, tổng hợp diễn
biến về tỷ giá hối đoái và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012. Tìm kiếm
những dấu hiệu chỉ ra mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát.
- Phương pháp định lượng: sử dụng các mô hình định lượng nhằm chỉ rõ có hay
không sự truyền dẫn từ tỷ giá hối đoái vào lạm phát tại Việt Nam. Nếu có xác định hệ
số truyền dẫn là bao nhiêu bằng những mô hình kinh tế lượng sau:
+ Sử dụng mô hình nhân quả Granger tìm kiếm sự liên quan giữa các
biến, sắp xếp hướng tác động
+ Mô hình Var: xem xét đồng thời các biến nội sinh cùng với nhau.
Nhưng từng biến nội sinh được giải thích bởi các giá trị trễ hay giá trị quá khứ của nó
và các giá trị trễ của tất cả các biến nội sinh trong mô hình; thường thì trong mô hình

không có các biến ngoại sinh.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài được kết cấu thành 3 chương
- Chương 1. Cơ sở lý luận về cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát.
- Chương 2. Thực trạng cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát tại Việt
Nam.
- Chương 3. Giải pháp kiểm soát cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát
tại Việt Nam.



1


Chƣơng 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN TỶ
GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO LẠM PHÁT
1.1. Cơ sở lý luận về tỷ giá hối đoái
1

1.1.1. Khái niệm về tỷ giá hối đoái
Trong lĩnh vực tài chính, tỷ giá hối đoái (TGHĐ) của một cặp tiền tệ là một tỷ lệ
mà tại đó nó xác định loại tiền tệ này sẽ đổi được bao nhiêu sang loại tiền tệ khác. Nó
cũng được hiểu là giá trị tiền tệ của một quốc gia trong một khoảng thời gian xác định
đo bằng tiền tệ của một quốc gia khác. TGHĐ được xác định thông qua thị trường
ngoại hối, thị trường này bao gồm rất nhiều người mua và bán, tại đây các loại tiền tệ
được trao đổi liên tục 24h/ngày trừ các dịp cuối tuần.
Trên thị trường ngoại hối, sự chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán được xác định
bởi những nhà cung cấp tiền tệ. Tỷ lệ chênh lệch được xem như một phần thặng dư
cho người cung cấp, hoặc một khoản hoa hồng… Sự chênh lệch tỷ giá cũng khác biệt
theo phương thức giao dịch: tiền mặt, phương tiện thanh toán giấy tờ (séc, thương

phiếu…) hoặc thanh toán điện tử. Tỷ giá sẽ cao hơn khi bạn sử dụng các phương thức
thanh toán thông qua giấy tờ vì việc này tốn kém thời gian, chi phí văn phòng hơn là
thực hiện thanh toán bằng tiền mặt.
1.1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái
2

Trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại TGHĐ như tỷ giá chính thức, tỷ giá của các
ngân hàng thương mại, tỷ giá xuất khẩu… Dưới đây là một số loại tỷ giá phổ biến và
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia:
TGHĐ danh nghĩa: là TGHĐ được công bố trên các phương tiện thông tin
đại chúng. TGHĐ này được xác định dựa trên Ngân hàng Trung ương (NHTW).
TGHĐ thực (RER): TGHĐ thực của một cặp tiền tệ thể hiện sức mua của
tiền tệ một nước so với tiền tệ nước khác. Chỉ số này phụ thuộc vào chỉ số khử lạm
phát (GDP deflator) hoặc lạm phát tính theo chỉ số giá (CPI…) của từng nước, và năm

1
Tham khảo Wikipedia (2013), “Exchange rate”
2
Tham khảo Nhật Trung (2008) “Khả năng chịu đựng cán cân thâm hụt thương mại của Việt Nam”
2


cơ sở (tại đó TGHĐ thực bằng với TGHĐ danh nghĩa) được người tính xác định để bắt
đầu theo dõi sự thay đổi của RER. Sự thay đổi của RER thể hiện cho ta biết tương
quan thay đổi sức mua của đồng nội tệ và ngoại tệ cùng một loại hàng hóa/một rổ
hàng hóa theo thời gian.
 =


 




(1.1)
3

E
n
: TGHĐ danh nghĩa theo phương pháp yết giá trực tiếp
P
f
: Chỉ số giá nước ngoài.
P
d
: Chỉ số giá trong nước.
Tỷ giá danh nghĩa hiệu lực đa phƣơng (NEER): được xác định như một
chỉ số phản ảnh động thái của tỉ giá danh nghĩa giữa nước chủ nhà và các đối tác
thương mại được điều chỉnh theo quyền số tương ứng của các đối tác thương mại. Chỉ
số này cho ta cái nhìn chung về khả năng cạnh tranh nội tại của quốc gia đó
 =



 


=1
(1.2)
W
it

: Trọng số thương mại của nước i tại thời điểm t
E
it
: Tỷ giá danh nghĩa của đồng tiền trong nước so với
nước i thời điểm t
Tỷ giá thực hiệu lực đa phƣơng (REER): là sản phẩm của tỉ giá hiệu lực
danh nghĩa đa phương (NEER) và chỉ số giá tương đối.

 =









=1
(1.3)
NEER
it
: TGHĐ danh nghĩa đa phương của đồng tiền trong
nước so với đồng tiền nước i tại thời điểm t
P
it
: Chí số giá nước i tại thời điểm t
P
dt
: Chỉ số giá trong nước tại thời điểm t



3
Các công thức từ 1.1 đến 1.3 tham khảo tại N. Roubini and P. Watchel, 1998,Current Account Sustainability in
Transition Economies,NBER Working Paper Series
3


1.1.3. Các yếu tố vĩ mô tác động đến tỷ giá hối đoái
4

Hiện nay TGHĐ của các nước chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố: tỷ lệ lạm phát,
tình hình cán cân thanh toán, tình hình cung cầu ngoại tệ, lãi suất ngân hàng, chính
sách kinh tế, kể cả các sự kiện chính trị xã hội…
1.1.3.1. Cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh tình hình thu chi thực tế bằng ngoại tệ của
một nước so với nước khác trong quan hệ giao dịch quốc tế. Cán cân thanh toán quốc
tế thể hiện vị thế tài chính của quốc gia thâm hụt hoặc thặng dư.
Nếu cán cân thanh toán thường xuyên thâm hụt thì dự trữ ngoại hối của quốc gia
có thể giảm, tình hình ngoại tệ căng thẳng, từ đó tạo ra nhu cầu ngoại tệ tăng lên, giá
ngoại tệ tăng.
Nếu cán cân thanh toán thặng dư dự trữ ngoại hối có thể tăng, cung ngoại tệ trên
thị trường tăng, giá ngoại tệ có khuynh hướng giảm.
1.1.3.2. Lạm phát
Là sự suy giảm sức mua của nội tệ. Để chứng minh mối quan hệ giữa lạm phát và
tỷ giá, Gustav Cassel đã đưa ra lý thuyết ngang giá sức mua. Theo lý thuyết này, giả
thiết trong một nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, cước phí vận chuyển, thuế hải quan
được giả định bằng không. Nếu các hàng hóa đều đồng nhất thì người tiêu dùng sẽ
mua hàng của nước có giá thật sự thấp. Cũng theo giả thiết đó, một kiện hàng X ở
Cananda giá 150 CAD và cũng kiện hàng X đó ở Mỹ giá 100 USD thì TGHĐ sẽ

chuyển đến mức là


=
150 
100 
= 1,5000
Vì vậy, nếu cuối năm lạm phát xảy ra tại các nước này thì tỷ giá sẽ thay đổi, vì
giá cả không còn là 150 CAD hay 100 USD nữa. Khi đó tỷ giá cuối kỳ sẽ là


= 


(1 + 

)
(1 + 
)


4
Tham khảo Trần Hoàng Ngân (2008) “Hối đoái”
4


Trong đó:
T
Dk
là tỷ giá đầu kỳ

T
Cl
là tỷ giá cuối kỳ
LP
a
là lạm phát tại quốc gia sử dụng đồng tiền A
LP
b
là lạm phát tại quốc gia sử dụng đồng tiền B
1.1.3.3. Lãi suất
Phần lớn các nhà đầu tư với quy mô lớn trên thị trường như các tập đoàn, các
công ty đa quốc gia có thể chuyển đổi đầu tư dễ dàng giữa các đồng tiền khác nhau khi
tỷ giá và lãi suất của các đồng tiền có chiều hướng thay đổi. Vấn đề quan trọng được
đặt ra là cần phải so sánh thu nhập đầu tư từ các đồng tiền khác nhau để có thể chắc
chắn rằng họ có thể thu được kết quả đầu tư tốt nhất. Thông thường, các nhà đầu tư có
xu hướng đầu tư vào đồng tiền có lãi suất cao, được thực hiện bằng cách khá phổ biến
là đi vay đồng tiền có lãi suất thấp chuyển đổi sang đồng tiền có lãi suất cao, sau đó
đầu tư đồng tiền lãi suất cao bằng nhiều hình thức nhằm hưởng lợi nhuận do chênh
lệch lãi suất của hai đồng tiền. Thực tế, thông thường đồng tiền có lãi suất cao có
khuynh hướng lên giá, bởi vì sẽ có nhiều nhà đầu tư mua đồng tiền có lãi suất cao để
cho vay nhằm thu lãi nhiều hơn.
1.1.3.4. Một số nhân tố khác
Sự điều chỉnh chính sách tài chính tiền tệ, các sự kiện kinh tế, xã hội, chiến tranh,
thiên tai, sự biến động của các chỉ số thống kê về việc làm, thất nghiệp, tăng trưởng
kinh tế…
Tóm lại những biến động của các nhân tố nêu trên có thể tạo ra những tác động
riêng lẻ hoặc đồng thời lên cung cầu ngoại tệ, từ đó tác động đến tỷ giá.
1.1.4. Các chế độ tỷ giá
5


Mỗi quốc gia thông qua nhiều cách thức khác nhau có thể kiểm soát TGHĐ của
nước mình nhằm phục vụ cho các mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn, cách thức mà
các quốc gia quản lý TGHĐ của đồng tiền nước mình được gọi là chế độ tỷ giá. Có

5
Tham khảon Trần Ngọc Thơ – Nguyễn Ngọc Định (2008) “Tác động của Chính phủ đối với tỷ giá”
5


nhiều chế độ tỷ giá được áp dụng: chế độ TGHĐ thả nổi, chế độ TGHĐ cố định, chế
độ TGHĐ trung gian…
Chế độ TGHĐ thả nổi: tỷ giá của quốc gia sẽ thường xuyên thay đổi và được
xác định do các áp lực cung cầu trên thị trường ngoại hối quốc tế. Đi cùng với các ưu
điểm là tấm đệm ngăn chặn các cú sốc kinh tế ảnh hưởng đến nền kinh tế nội địa, tạo
sự độc lập trong chính sách tiền tệ của NHTW, thì khi một quốc gia áp dụng chế độ
TGHĐ thả nổi cũng mang lại cho quốc gia nhiều thách thức như sự bất ổn định trong
tỷ giá gây mất lòng tin cho người dân, các nhà đầu tư, tạo thêm gánh nặng cho quốc
gia khi nền kinh tế của quốc gia đó gặp khó khăn…
Chế độ TGHĐ cố định: tỷ giá của đồng tiền quốc gia đó sẽ được giữ nguyên
không thay đổi trong khoảng thời gian áp dụng chế độ tỷ giá trên. Đồng thời, khi áp
dụng chế độ tỷ giá này quốc gia sẽ phải gánh chịu một số rủi ro từ những cú sốc kinh
tế chẳng hạn như các cú số về giá. Tuy nhiên kèm theo đó chế độ TGHĐ cố định cũng
có những ưu điểm nhất định như tạo được lòng tin cho doanh nghiệp, và dân cư về sự
ổn định của tỷ giá, thu hút đầu tư nước ngoài.
Chế độ TGHĐ trung gian: đây là chế độ tỷ giá trung gian giữa cố định và thả
nổi trong chế độ trung gian này tùy theo từng quốc gia mà có thể gồm rất nhiều biến
thể, mỗi quốc gia có thể “thêm bớt” một số yếu tố để tạo nên chế độ tỷ giá phù hợp với
mục tiêu của mình. Dưới đây tác giả xin nêu ra một số chế độ tỷ giá phổ biến thường
được các quốc gia áp dụng.
Chế độ neo tỷ giá: Theo đó các quốc gia sẽ neo đồng tiền của mình vào một loại

ngoại tệ mạnh nào đó, thường là USD. Trong hệ thống này, quốc gia sẽ ấn định một
mức ngang giá chung cho đồng tiền của nước mình, và chỉ cho phép những thay đổi
nhỏ xoay quanh mức ngang giá này. Các tỷ lệ ngang giá này sẽ được điều chỉnh dần
với một tỷ lệ nhỏ dựa theo hành vi của các biến số vĩ mô của nền kinh tế như dự trữ
ngoại hối, lạm phát, cung cầu tiền tệ…Tuy nhiều nhà kinh tế lập luận rằng chế độ này
phù hợp khi tỷ giá chỉ thay đổi theo tỷ lệ rất nhỏ, sẽ tạo lòng tin cho dân chúng, cũng
như phù hợp với xu thế nền kinh tế. Nhưng nếu có những cú sốc thật sự xảy ra cho nền
6


kinh tế thì khi đó chế độ tỷ giá này cũng không khác mấy gì so với chế độ tỷ giá thả
nổi.
Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý: Theo chế độ này TGHĐ sẽ được phép dao động
trong một biên độ ẩn do những người điều hành chính sách đặt ra, và họ sẽ cố gắng để
duy trì tỷ giá luôn nằm trong biên độ này.
Chế độ chuẩn tiền tệ: Trong chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ Chính phủ hoặc NHTW
ấn định một mức ngang giá giữa đồng nội tệ và một đồng ngoại tệ (thường là ngoại tệ
mạnh) đồng thời đảm bảo việc chuyển đổi nhanh chóng giữa hai đồng tiền này. Thêm
vào đó khi một quốc gia theo đuổi chế độ chuẩn tiền tệ NHTW của quốc gia đó bị
kiểm soát rất chặt chẽ trong việc cung tiền ra thị trường, Ngân hàng chỉ được phép
cung tiền ra thị trường khi có nguồn dự trữ ngoại tệ tương ứng.
Như đã phân tích mỗi chế độ TGHĐ đều có ưu nhược điểm riêng, do đó tùy theo
mục tiêu phát triển của mình mà các quốc gia lựa chọn áp dụng các chế độ TGHĐ
khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1.5. Công cụ điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Trung ƣơng
Dưới tác động cuả biến động tỷ giá xuất hiện những biểu hiện bất lợi cho quá
trình phát triển kinh tế. Chủ động can thiệp của Chính phủ nhằm bình ổn tỷ giá trên thị
trường là điều kiện quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến lược kinh tế. Một số biện
pháp được Chính phủ áp dụng chủ yếu sau:
1.1.5.1. Chính sách lãi suất tái chiết khấu

Khi tỷ giá biến động, NHTW với vai trò quản lý vĩ mô điều chỉnh lãi suất tái
chiết khấu, sẽ làm thay đổi lãi suất tiền gửi, tín dụng trên thị trường. Điều này có tác
dụng kích thích đối với việc di chuyển các luồng ngoại tệ ngắn hạn từ nước này sang
nước khác, từ đó dẫn đến sự thay đổi cung và cầu ngoại hối làm cho tỷ giá được bình
ổn, cụ thể:
Khi TGHĐ tăng lên, NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu dẫn tới lãi suất tiền
gửi sẽ tăng lên. Thu hút vốn ngắn hạn chạy vào trong nước, làm tăng khả năng cung
7


ngoại tệ và giảm bớt sự căng thẳng của tình hình cung đang nhỏ hơn cầu trên thị
trường dẫn tới tỷ giá có xu hướng hạ nhiệt.
Khi TGHĐ giảm thì NHTW hạ thấp lãi suất tái chiết khấu, dẫn đến lãi suất
tiền gửi giảm xuống,vốn ngoại tệ sẽ chạy ra nước ngoài. Bên cạnh đó các ngân hàng
trong nước bị hạn chế thu hút vốn, tức giảm khả năng cung ngoại tệ trên thị trường,
cũng như giảm tình hình căng thẳng khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ làm cho tỷ
giá gia tăng.
Tuy nhiên chính sách lãi suất tái chiết khấu chỉ có tác động đến tỷ giá trong
chừng mực nhất định. Do TGHĐ chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố đã được nêu ở phần
trước.
1.1.5.2. Chính sách hối đoái
Nguyên lý cơ bản của nghiệp vụ này là NHTW thông qua việc thực hiện các
nghiệp vụ mua – bán ngoại hối tạo ra khả năng trực tiếp thay đổi quan hệ cung cầu
ngoại hối trên thị trường để điều chỉnh tỷ giá. Cụ thể:
Khi TGHĐ tăng, NHTW sẽ tung ngoại hối dự trữ ra bán, cung ngoại hối
trên thị trường tăng lên và làm giảm bớt căng thẳng về cung cầu ngoại hối trên thị
trường, dẩn tới tỷ giá từ từ giảm xuống.
Khi TGHĐ giảm, NHTW mua vào ngoại hối, sẽ tăng nhu cầu ngoại hối trên
thị trường và làm giảm bớt căng thẳng quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường, dẫn
đến TGHĐ từ từ tăng lên.

Tuy nhiên biện pháp này chỉ có tác dụng tạm thời, với điều kiện NHTW phải có
một khối lượng dự trữ ngoại hối lớn. Trong trường hợp dự trữ ngoại hối thiếu hụt
NHTW tung ngoại hối ra bán chỉ làm tăng thêm sự hao hụt trong dự trữ ngoại hối mà
thôi.
1.1.5.3. Phá giá hoặc nâng giá tiền tệ
NHTW chủ động tăng/giảm giá trị tiền tệ trong nước làm cho TGHĐ tăng lên
hoặc giảm xuống. Cụ thể trong trường hợp dự trữ ngoại hối bị thiếu hụt, hoặc do yêu
cầu chính sách ngoại thương của quốc gia, NHTW có thể thực hiện chính sách phá giá
tiền tệ. Phá giá tiền tệ sẽ làm cho TGHĐ tăng lên, nó khuyến khích xuất khẩu hay hạn
8


chế nhập khẩu bên cạnh đòi hỏi NHTW phải tìm mọi biện pháp để phát triển kinh tế
kiểm soát lạm phát.
1.2. Cơ sở lý luận về lạm phát
1.2.1. Khái niệm về lạm phát
Nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát
(inflation), nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn.
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung
của nền kinh tế
6
. Như vậy sự tăng giá của một vài mặt hàng cá biệt nào đó trong ngắn
hạn ngoài thị trường thì cũng không có nghĩa đã có lạm phát
Quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá
dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dựa vào tỷ lệ đảm
bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định
rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định
tức là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm bảo
của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định vẫn được tôn
trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao. Nước Đức năm 1934 đã tránh được nạn

lạm phát mặc dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống dưới 2%.
Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng
trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng khối
lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ được trao
đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc
độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Để khắc phục tình trạng này cần
dùng biện pháp thích hợp để thiết lập lại cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng
không cho biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là
kết quả của việc tăng trưởng cung tiền. Thật ra trong nhiều trường hợp không hẳn là
như vậy, nhà nước có thể tăng cung tiền mà không làm cho giá cả tăng, không gây ra

6
Gregory Mankiw , Macroeconomics (7th Edition), chương 6 trang 155
9


lạm phát, nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho lưu thông,
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư
liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức
chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ
nguyên nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý nghĩa. Thật
ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát mà
thôi
7
.
Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của
một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác
8


Vậy theo các quan điểm trên ta có thể thấy một số biểu hiện của lạm phát:
Mức giá chung của nền kinh tế tăng lên liên tục trong một khoảng thời gian
Lượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết, làm cho chúng bị
mất giá.
1.2.2. Phân loại lạm phát
9

Theo tiêu chí tốc độ tăng trưởng, thì lạm phát được phân loại thành các loại sau:
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên
tục. Giảm phát do đó trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát
với tỷ lệ mang giá trị âm. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình
đốn.
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Không có tiêu chí
chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu
phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm
trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ

7
Tham khảo Nghiên cứu kinh tế học (2011) “Các tính tỷ lệ lạm phát bằng CPI như thế nào”
8
Tham khảo Wikipedia (2013) “Inflation”
9
Tham khảo Voer (2010) “Phân loại lạm phát”
10


(NHTW) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm
một năm được cho là hoàn toàn bình thường
10

.
Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ
này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn
định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra
tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý ổn định cho người lao động. Trong
thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng
đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
Lạm phát phi mã: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm
vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu
hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ
giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng
tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ
mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của
cải.
Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng
giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu
lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà
kinh tế người Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên
(nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi).
Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm
phát, đó là: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả
hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3)
các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và (4)

10
Tham khảo Reds (2012) “Mổ xẻ các khái niệm Lạm phát, Giảm phát và Thiểu phát”

11


lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba
năm lên tới 1000 phần trăm
11
.
1.2.3. Cách thức đo lƣờng
Có nhiều phương thức để đo lường lạm phát của một quốc gia, trong đó phổ biến
nhất vẫn là phương thức sử dụng chỉ số giá và chỉ số khử lạm phát trong GDP:
Phƣơng thức sử dụng chỉ số giá: trong nền kinh tế của một quốc gia mỗi
mặt hàng có nhiều loại giá khác nhau chẳng hạn giá nhập khẩu, nguyên giá (giá sản
suất), giá bán sỉ, giá bán lẻ cho người tiêu dùng. Do đó khi tính lạm phát thông qua chỉ
số giá, tùy từng loại giá khác nhau mà ta thu được chỉ số lạm phát khác nhau, yếu tố
lạm phát theo từng chỉ số giá riêng biệt cung cấp thông tin cho từng nhóm người quan
tâm khác nhau. Mang tính phổ thông và thường xuyên được thông báo rộng rãi ra công
chúng là lạm phát được tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI), cách tính toán như sau:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): dựa trên một rổ hàng hóa tiêu dùng (goods
basket) và giá cả của những hàng hóa trong rổ ở hai thời điểm khác nhau
12
.
 =



 


=1
(1.4)

13

Pj : giá mặt hàng j trong rổ hàng hóa dược chọn thời điểm t
dj : tỷ trọng tiêu dùng mặt hàng j trong rổ hàng hóa được chọn


=



1
 1 (1.5)
It : Lạm phát thời điểm t
Cách tính lạm phát theo các chỉ số giá khác được tính theo cách tương tự
bằng cách thay từng loại giá phù hợp với các mặt hàng trong rổ hàng hóa.

11
Tham khảo Wikipedia (2013) “Inflation”
12
Tham khảo Nghiên cứu kinh tế học (2011) “Kinh tế học: Lạm phát (Inflation) là gì? Các quan điểm về lạm
phát?”
13
Các công thức 1.4 đến 1.6 được tổng hợp thông qua những kiến thức sưu tầm
12


Ngoài ra, do một số loại hàng hóa có giá cả thay đổi thất thường do điều
kiện mùa vụ, nhà cung cấp, cũng như nhu cầu của người tiêu dùng như lương thực,
thực phẩm, năng lượng. Điều này ảnh hưởng mạnh tới việc xác định xu hướng dài hạn
của lạm phát, nên đôi lúc khi tính toán tỷ lệ lạm phát các nhà thống kê sẽ loại bỏ các

mặt hàng này ra khỏi rổ hàng hóa hình thành nên tỷ lệ lạm phát lõi (core price indicies)
Chỉ số khử lạm phát trong GDP (GDP deflator): lạm phát tính thông qua
chỉ số giá có nhược điểm lớn đó là không thể bao quát nền kinh tế của một quốc gia do
chỉ số giá được tính thông qua một rổ hàng hóa nhất định, và từng rổ hàng hóa phục vụ
cho từng quan sát nhất định. Để khắc phục nhược điểm trên các nhà thống kê đã sử
dụng chỉ số khử lạm phát trong GDP, cụ thể được tính như sau:
Chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator): căn cứ vào toàn bộ khối lượng
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm
khác nhau
  = 

=
 

 

 1 (1.6)
It : Lạm phát năm t
1.2.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Từ lâu các nhà kinh tế học trên thế giới đã tranh cãi rất nhiều về câu hỏi nguyên
nhân nào đã gây ra lạm phát và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa có một lý thuyết
thống nhất nào cùng được các nhà kinh tế học đồng tình.
1.2.4.1. Theo trƣờng phái kinh tế học Keynes
Theo các nhà kinh tế học thuộc trường phái Keynes nguyên nhân trực tiếp gây ra
lạm phát là do các áp lực trong nền kinh tế gây nên. Cụ thể, theo Robert J Gordon có
ba nguyên nhân chính gây nên lạm phát
Lạm phát do cầu kéo: nguyên nhân chính do tổng cầu tăng lên nhanh chóng tác
động đến tiêu dùng của người dân, Chính phủ… Lạm phát do cầu kéo khuyến khích
nền kinh tế tăng trưởng vượt quá điểm tăng trưởng tối ưu, khuyến khích các yếu tố thị
trường gia tăng đầu tư, tiêu dùng.

13


Lạm phát do chi phí đẩy: nguyên nhân do sự sụt giảm của tổng cung. Sự sụt
giảm này có thể do thảm họa thiên nhiên hoặc giá nguyên liệu đầu vào tăng. Ví dụ,
nguồn cung dầu giảm một cách đột ngột, làm cho giá dầu tăng. Các ngành nghề sản
suất sử dụng nhiều dầu có thể tìm cách chuyển sự gia tăng trong chi phí đầu vào này
cho người tiêu dùng bằng cách tăng giá thành sản phẩm đầu ra qua đó tạo nên sự tăng
giá trong nền kinh tế.
Lạm phát do cơ cấu: điều này thường liên quan đến các kỳ vọng trong quá khứ
về thu nhập. Khi mà người lao động luôn cố gắng giữ cho thu nhập tăng nhanh hơn sự
gia tăng của giá cả, điều này tạo gánh nặng chi phí nhân công cho các doanh nghiệp,
và các doanh nghiệp tìm cách giải tỏa áp lực này bằng cách chuyển chi phí tăng lên
này qua giá thành sản phẩm làm cho giá cả các mặt hàng tăng cao hơn. Vòng xoắn ốc
này lập đi lập lại ngày càng rộng hơn, làm lạm phát tăng nhanh.
1.2.4.2. Theo quan điểm của các nhà kinh tế trọng tiền.
Các nhà kinh tế trọng tiền tin rằng yếu tố quan trọng nhất tác động đến lạm phát
là tốc độ tăng giảm của cung tiền trong nền kinh tế. Họ cho rằng chính sách tài khóa,
tiêu dùng của Chính phủ, hoặc các chính sách thuế có tác động lẫn nhau trong kiềm
chế lạm phát. Theo Milton Friedman “Lạm phát tại bất cứ đâu luôn là hệ quả của chính
sách tiền tệ”.
Các nhà kinh tế trọng tiền nhấn mạnh rằng quá khứ đã cho chúng ta nhiều bài
học chứng minh rằng lạm phát luôn là một sự kiện của chính sách tiền tệ. Lý thuyết số
lượng tiền tệ đã xác định một cách đơn giản rằng bất kỳ một sự thay đổi về lượng tiền
trong hệ thống sẽ dẫn đến sự thay đổi của mức giá. Lý thuyết đó được bắt đầu với sự
hoán đổi như sau
MV = PQ
M: lượng tiền danh nghĩa
V: vòng quay của tiền trong một chu kỳ kinh tế
P: mức giá chung của nền kinh tế

Q: chỉ số giá trị thật của một chu kỳ kinh tế.
14


Trong công thức này, chỉ số giá chung của nền kinh tế (P) liên quan đến mức độ
hoạt động thật của nền kinh tế (Q), số lượng tiền trong nền kinh tế (M) và vòng quay
của tiền trong một chu kỳ kinh tế (V).
Các nhà kinh tế trọng tiền giả định rằng V không bị tác động bởi chính sách tiền
tệ (tối thiểu là ngắn hạn), và Q được xác định bởi năng lực sản suất của nền kinh tế.
Dựa trên những giả thiết đó, nguyên nhân chính yếu tạo ra sự thay đổi P là sự thay đổi
của M. Cùng với việc cố định V, M cũng xác định giá trị danh nghĩa của Q trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, trong dài hạn, sự thay đổi của V được giả định phụ thuộc vào sự
tiến bộ của hệ thống thanh toán. Và nếu V thật sự không bị tác động bởi chính sách
tiền tệ, trong dài hạn tỷ lệ tăng của P bằng với mức tăng của M cộng với tỷ lệ tăng của
V trừ đi tốc độ tăng của Q.
1.2.4.3. Theo quan điểm của những nhà kinh tế học ngƣời Áo
Các trường kinh tế tại Áo công bố một cách chắc chắn rằng lạm phát là một sự
gia tăng trong cung tiền không trùng khớp với việc gia tăng trong tổng cầu. Giá cả gia
tăng đơn giản chỉ là hệ quả của những bất cân bằng. Nguyên nhân của sự không đồng
đều này là do tiền dư thừa đổ vào một số ngành kinh tế nhất định như địa ốc, chứng
khoán, chăm sóc sức khỏe… trong khi một số ngành khác lại không, làm cho tác động
của lạm phát tác động theo nhiều mức độ khác nhau tại những ngành khác nhau. Bởi vì
sự không đồng đều này, các nhà kinh tế học Áo đã kết luận rằng khi quan sát mức giá
chung của nền kinh tế ta có thể bị dẫn dắt sai khi phân tích tác động của lạm phát đến
từng ngành kinh tế khác nhau.
Cũng theo nhà kinh tế học hiện đại Ludwig von Mises:
“ Dựa trên các cách thức điều tra chỉ có một ý kiến đáng tin có thể được dùng để
giải thích ý nghĩa của lạm phát là: sự gia tăng số lượng tiền (lượng tiền được hiểu theo
nghĩa rộng là bao hàm tiền cơ sở, trái phiếu, tín phiếu ngân hàng và tiền gửi không kỳ

×