Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Nghiên cứu nền Văn hoá kinh doanh Ấn Độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.82 KB, 27 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
QUẢN TRỊ RỦI RO
ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỦA ẤN ĐỘ
GVHD : ThS. LÊ NGỌC
NHÓM : FIGHTING
1
Mục lục
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
LỜI MỞ ĐẦU
Ấn Độ là một đất nước có lịch sử từ lâu đời. Thế giới nhìn nhận Ấn Độ như là một trong những nền
văn hóa phát triển rực rỡ nhất của văn minh nhân loại. Trong lịch sử, Ấn Độ đã phát triển nền văn
hóa của họ đến mức rực rỡ hàng ngàn năm trước công nguyên. Ngày nay những di sản ấy vẫn còn.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, người Ấn Độ đã và đang đóng góp rất nhiều vào kho tàng văn hóa
nhân loại. Không chỉ là thơ ca, nghệ thuật, tư tưởng triết học, những công trình kiến trúc nổi bật… mà
nổi bật nhất là bao thế hệ con người tài hoa đang duy trì văn hóa của họ và đóng góp ngày càng nhiều
cho nhân loại.
Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, có diện tích ngày nay vào khoảng hơn 3,3 triệu km
2
, xếp hạng thứ 9
thế giới. Biên giới trên bộ Ấn Độ giáp với nhiều nước như Pakistan, Trung Quốc, Myanma,
Bănglađét… và phần lớn nữa giáp Ấn Độ Dương. Ấn Độ tuy không có đường biên giới trực tiếp
giáp với Việt Nam, nhưng bán đảo Đông Dương lại nằm trên bán đảo Trung Ấn. Về mặt dân số thì
Ấn Độ hiện nay đứng hàng thứ 2 thế giới sau Trung Quốc nhưng tương lai có thể vượt Trung Quốc.
Dân số Ấn Độ hiện nay có cơ cấu dân số vàng và còn duy trì trong nhiều năm nữa.
Người Ấn Độ nổi tiếng với các điệu múa, phụ nữ ăn mặc cầu kì và họ có nhiều điểm thú vị. Có một
người khi lên một diễn đàn về du lịch nói rằng: sang Ấn Độ, anh ta trông thấy một phiến bia đá của
đế quốc Anh ca ngượi người Anh đã anh hùng khi đánh tan quân mọi rợ Ấn Độ và thống trị đất


nước Ấn suốt nhiều năm. Nếu như ở Việt Nam, ngay sau khi dành độc lập, chúng ta đã đập những thứ
như thế nát như cám. Mà thực có vậy.
Sức hút của Ấn Độ không chỉ ở diện tích lớn, dân số đông, lịch sử rực rỡ (con gái Ấn Độ có nét
quyến rũ riêng, múa đẹp, nghệ thuật phong phú…) mà hiện nay, Ấn Độ đang là nền kinh tế thứ 10
thế giới về quy mô. Trong tương lai gần, Ấn Độ sẽ là một cường quốc.
Trang 3
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN
1.1 Đặt vấn đề :
Ấn Độ là một trong những đất nước rộng lớn có nền văn hóa lâu đời ảnh hưởng đến rất nhiều quốc gia
khác như : Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc. Con người và văn hóa Ấn Độ là đề tài mà rất nhiều các
nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới luôn mong muốn tìm hiểu và đào sâu hơn để tìm ra những đặc sắc
của nền văn hóa này. Đây là một đất nước cuốn hút, nên nhóm em quyết định chọn đất nước Ấn Độ để
tìm hiểu và giới thiệu đến mọi người.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của nhóm là tìm hiểu và nghiên cứu về “ Những nét đặc sắc trong văn hóa của đất
nước Ấn Độ “ từ đó đưa ra những ý kiến khi chúng ta giao tiếp và đặt mối quan hệ kinh tế với đất nước
Ấn Độ.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đây những nét đặc sắc trong văn hóa Ấn Độ
1.4 Phạm vi nghiên cứu
Đất nước Ấn Độ
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu bằng phương pháp : dựa vào những tư liệu sách báo, phim tài liêu, internet… để tổng hợp
và phân tích nghiên cứu.
Trang 4
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Khái niệm về văn hóa :
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá

khác nhau.
Theo định nghĩa của UNESSCO: Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân
tộc kia. Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
trị thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học
và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào
tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: “Văn hóa là
những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
Có một định nghĩa được nhiều người chấp nhận của Edward Tylor: "Văn hoá là tổng thể phức hợp bao
gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, thói quen và bất kỳ năng lực hay hành vi
nào khác mà mỗi một cá nhân với tư cách là thành viên của xã hội đạt được".
Còn theo Geert Hofstede, một chuyên gia về sự khác biệt trong so sánh giữa các nền văn hóa và quản
lý đã định nghĩa văn hóa là “Một chương trình chung của trí tuệ phân biệt thành viên của nhóm người
này với nhóm người khác… Văn hóa theo nghĩa này bao gồm “ hệ thống các giá trị và các giá trị giữa
tòa nhà văn hóa”
Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại
giữa con người và con người, con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo
nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và
tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị
vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Trang 5
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến nền văn hóa Ấn Độ.
2.2.1 Vị trí địa lí
Nằm ở một khu vực tương đối biệt lập, phía bắc là dãy Himalaya sừng sững, phía nam là biển rộng
mênh mông đã tạo nên cho đất nước Ấn Độ một vị trí đặc biệt, ngăn cách với thế giới xung quanh,
cho nên Ấn Độ đã xây dựng được cho mình một nền văn hóa tương đối biệt lập, ít chịu ảnh hưởng từ
bên ngoài. Đồng thời, cũng do chính vì có địa hình núi cao, biển rộng bao quanh nên hầu như người

Ấn Độ ít quan tâm đến thế giới bên ngoài lãnh thổ của mình, đồng thời ít có ý thức đối phó với giặc
ngoại xâm từ bên ngoài tiến vào.
Cảm giác “an tâm” với sự che chở của núi rừng Himalaya rộng lớn và đại dương mênh mông, người
Ấn Độ hầu như không có khả năng chống trả đối với những thế lực ngoại xâm từ bên ngoài tiến vào,
họ nhanh chóng thất thủ và quy hàng. Tuy nhiên, với cửa ngõ duy nhất là đèo Khyber nằm ở phía Tây
Bắc, dường như mọi lực lượng ở bên ngoài tiến vào Ấn Độ đều gặp một tình huống chung là khó liên
hệ lại với mẫu quốc, những thế lực ngoại xâm này trải qua thời gian hầu hết đều hòa mình vào cuộc
sống của người bản địa và dần dần bị Ấn hóa, đồng thời những xu hướng văn hóa mới cũng qua đó
len lỏi vào nền văn hóa Ấn Độ.
2.2.2 Địa hình
Địa hình Ấn Độ là một phức hợp gồm ba loại cơ bản: “dãy núi định mệnh” Himalaya, đồng bằng Ấn-
Hằng với hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) và vùng cao nguyên Deccan.
Đây là dãy núi hùng vĩ nhất, nóc nhà của thế giới, trùng trùng điệp điệp suốt 2.600 km, trong đó có
hơn 40 ngọn cao trên 7 km. Đây chính là dãy núi định mệnh của Ấn Độ, là Vạn Lý Trường Thành tự
nhiên đã ban tặng cho đất nước này.
Ngoài những ảnh hưởng trên, núi rừng Himalaya còn tác động lớn lao tới tư duy của người dân
Ấn Độ. Ngay từ khi họ bắt đầu tư duy và mơ mộng, nhiều ngọn núi cao trong trí tưởng tượng của họ
đã trở thành nơi cư ngụ của thần linh, giống như Olympus với người Hy Lạp. Cũng chính trong những
núi rừng Himalaya này, những trường học tu tập đã ra đời, nơi đây các thầy trò Upanishad thảo luận
và tư duy về bí mật của nhân sinh, vũ trụ. Qua nhiều thế kỷ, Himalaya cũng là nơi ghi lại nhiều dấu
chân của những con người từ bỏ cuộc sống trần tục để kiếm tìm và thực hiện khát vọng giải thoát
(điều này được xem như mục tiêu cao nhất của đời người). Himalaya dường như mãi mãi vẫn giữ sự
Trang 6
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
xa cách, thâm nghiêm, mãi mãi là một miền thần bí siêu thực và khêu gợi tâm linh với người Ấn Độ.
Con người càng trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ, bí ẩn, điều này khiến cho đời sống tâm linh
Ấn Độ trở nên phức tạp, đa dạng vô cùng. Trong kinh thánh Hindu, Himalaya là nơi cư ngụ của thần
Shiva và nàng Pavarti (con gái của Himalaya). Đứng trước dãy núi cao vời vợi đó, người Ấn tự
nhiên cảm nhận sự cao cả vô cùng của tinh thần thuần khiết. Đối với người Ấn, Himalaya là ngôi
đền tự nhiên, và những ngôi đền khác cũng đã xây theo hình ảnh của nó. Có thể khẳng định rằng

những tư tưởng lớn của Ấn Độ đã nảy nở trong bối cảnh tĩnh mịch của núi rừng: “Điều kì diệu nhất
chúng ta nhận thấy ở Ấn Độ là tại đây rừng núi chứ không phải thành thị là ngọn nguồn của tất cả nền
văn minh của nó… chính núi rừng đã nuôi dưỡng hai thời đại lớn: thời Veda và thời Phật giáo… dòng
nước văn minh chảy từ những rừng núi đó đã tưới nhuần khắp cõi Ấn Độ”.
Ấn Độ được thiên nhiên ưu đãi ban cho một hệ thống sông ngòi phong phú, có tới 7 dòng sông, có
những dòng sông thuộc loại lớn nhất thế giới: Indus (sông Ấn), Ganga (sông Hằng). Từ lòng chảo của
hai con sông này đã hình thành dồng bằng Ấn - Hằng vĩ đại, một trong những đồng bằng màu mỡ
và rộng lớn nhất thế giới, hình thành cái nôi của một nền văn minh, văn hóa cổ xưa và rực rỡ nhất
châu Á. Phù sa màu mỡ cùng nguồn nước tưới tiêu phong phú của hai con sông đã hào phóng
cưng chiều những cư dân nông nghiệp xứ này từ buổi đầu lịch sử và về sau vẫn rộng rãi chở che
cho Ấn Độ trở thành quê hương của những cuộc “Cách mạng Xanh”, “Cách mạng Trắng”.
Chính bởi nhiều ưu ái mà những con sông đã ban tặng cho đất nước này mà người Ấn luôn có tình
cảm đặc biệt với những dòng sông, với họ hầu hết các con sông đều là linh thiêng. Hình ảnh dòng
sông chảy ra biển lớn gợi cho người Ấn ý niệm về sự hòa nhập của linh hồn cá thể hữu hạn vào với
linh hồn vũ trụ vô hạn, sự hòa nhập của tiểu ngã với đại ngã. Hơn tất cả các dòng sông khác, sông
Hằng gắn bó với lịch sử văn hóa và đời sống tinh thần của Ấn Độ. Người Ấn gọi sông Hằng là “sông
mẹ” vì với họ, sông Hằng chính là một bà mẹ giàu tình cảm, nước sông Hằng theo niềm tin Ấn Độ có
khả năng tự thanh lọc, vĩnh viễn trong trẻo thiêng liêng. Trong tiềm thức của người Ấn, sông Hằng
vốn là con sông trên trời. Nó chảy tung bọt dưới chân thần Vishnu nên nó tên là Vishnupadi, chảy
ngang qua núi Himavati, rồi tiếp tục chảy xuống thế giới âm phủ. Những người Ấn Độ tin rằng đến
được với sông Hằng, uống nước sông Hằng, tắm trong làn nước sông Hằng hay được chết bên bờ
sông Hằng thì được tẩy rửa mọi ô uế vật chất và tinh thần. Vì phẩm chất thanh lọc đặc biệt đó mà việc
tắm sông Hằng trở thành một hành vi tôn giáo. Khi một người Ấn chết, họ mong được nhỏ vài giọt
nước sông Hằng vào miệng trước khi hỏa táng và tro thiêu được thả xuống dòng sông mong tìm được
Trang 7
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
sự giải thoát linh hồn như hòa vào với dòng sông mẹ. Với Ấn Độ, sông Hằng nói riêng, những linh
giang nói chung đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống, nhất là trong tâm linh mỗi con
người. Hầu như mọi nghi lễ tôn giáo trên đất nước này đều ít nhiều gắn với những dòng
sông, đặc

biệt là sông Hằng.
Cao nguyên Đêcan (Deccan) chiếm 2/3 diện tích lãnh thổ, nằm ở phía nam Ấn Độ, có độ cao trung
bình từ 300 - 900 m. Hai rìa phía đông và phía tây của Đêcan là núi Gat Đông và Gat Tây dốc đứng
về phía đại dương. Phía đông bắc Đêcan và phía tây của dãy Gat Tây là rừng gió mùa; vùng núi
cao, có rừng hỗn hợp ở chân núi, lên cao hơn là rừng lá kim rồi đến đồng cỏ núi cao. Theo nghiên
cứu, đây chính là nơi mà 3 tôn giáo chính của Ấn Độ cùng tồn tại bên nhau, đó là Hindu giáo, Phật
giáo và Thiên chúa giáo
2.2.3 Khí hậu – Tài nguyên thiên nhiên
Do địa thế rộng lớn, địa hình đa dạng, Ấn Độ có nhiều vùng khí hậu khác biệt. Trên nền chung của
khí hậu nhiệt đới gió mùa, phía Bắc Ấn Độ với Himalaya có tính chất của khí hậu ôn đới, trong khi
phía Nam tiến tới gần sát xích đạo lại là nhiệt đới điển hình. Phía Đông và phía Tây ít nhiều ảnh
hưởng của khi hậu đại dương. Cách Himalaya băng tuyết chừng 100km là sa mạc Thar nóng bỏng.
Trong khi đồng bằng Ấn – Hằng với lượng mưa 2000mm/năm thì cao nguyên Decan lại rất ít mưa.
Nhìn chung ở Ấn Độ có những cực đoan khí hậu: hạn – lụt (từ tháng 6 đến tháng 9 với 90% lượng
mưa cả năm), nóng – lạnh (52 độ, -15 độ). Từ đó có thể thấy rất rõ ảnh hưởng của khí hậu đối với tính
cách và đời sống tâm linh của họ. Trường phái thiền tọa, Yoga có lẽ cũng ra đời trong hoàn cảnh khắc
nghiệt ấy của thiên nhiên. Nếu như trong suốt cả mùa khô cái nắng cái nóng dai dẳng như thiêu đốt, thì
những giọt mưa do gió mùa mang tới chính là phúc lành và niềm ân huệ lớn lao. Hơn tất cả những nơi
có gió mùa khác, người Ấn khao khát và đón nhận những cơn mưa đầu mùa thật rộn rã. Vì sau một
thời gian dài khô nóng, lúc này thực sự là mùa xuân, thời kì sống lại và sinh sôi của vạn vật cùng con
người. Chính những đặc điểm về khí hậu trên cũng đã quy định những đặc trưng trong văn hóa tâm
linh Ấn Độ. Những người tu sĩ lang thang ở Ấn chỉ đến mùa mưa mới dừng chân lại trên một mái nhà.
Vào mùa mưa, do đi lại khó khăn và cũng một phần vì đây là thời điểm vạn vật sinh sôi, các tu sĩ bớt
đi lại nhiều để tránh dẫm đạp lên những sinh linh bé nhỏ ấy (tư tưởng Ahimsa: bất tổn sinh). Mùa
mưa cũng là thời kì hệ trọng trong tổ chức và sinh hoạt của các tôn giáo để trau dồi và truyền đạt giáo
Trang 8
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
lý. Đây là thời kì Phật giáo gọi là “kết hạ”. Trong suốt thời kì này các thầy tu lo việc học tập, rèn
luyện phẩm chất, đánh dấu một bước tiến mới trên con đường tu hành của mỗi người. Vì vậy tuổi đạo
của Phật giáo mới gọi là “hạ lạp”.

Trang 9
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
CHƯƠNG 3 : GIỚI THIỆU MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC ẤN ĐỘ
Ấn Độ (tiếng Hindi: भभभभ(Bhārata), tiếng Anh: India), tên gọi chính thức là nước Cộng hòa Ấn Độ,
là một quốc gia tại Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ bảy về diện tích, và đông dân thứ nhì trên thế giới
với trên 1,2 tỷ người. Ấn Độ tiếp giáp với Ấn Độ Dương ở phía nam, biển Ả Rập ở phía tây-nam,
và vịnh Bengal ở phía đông-nam, có biên giới trên bộ với Pakistan ở phía tây; với Trung Quốc,Nepal,
và Bhutan ở phía đông-bắc; và Myanmar cùng Bangladesh ở phía đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân
cận với Sri Lanka vàMaldives; thêm vào đó, Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung
đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch
mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mại và văn hóa trong hầu
hết lịch sử lâu dài của mình. Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo, Phật
giáo, Jaina giáo và Sikh giáo; trong khi Do Thái giáo, Hỏa giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo được truyền
đến vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên và cũng giúp hình thành nền văn hóa đa dạng của khu
vực. Khu vực dần bị thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ
đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh Quốc từ giữa thế kỷ 19. Ấn Độ trở thành
một quốc gia độc lập vào năm 1947 sau một cuộc đấu tranh giành độc lập dưới hình thức đấu tranh bất
bạo động do Mahatma Gandhi lãnh đạo.
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 10 thế giới xét theo GDP danh nghĩa và lớn thứ ba thế giới xét theo sức mua
tương đương (PPP). Sau các cải cách kinh tế dựa trên cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành
một trong số các nền kinh tế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất; và được nhận định là một nước công
nghiệp mới. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối diện với những thách thức từ nghèo đói,
tham nhũng, kém dinh dưỡng, y tế công thiếu thốn, và chủ nghĩa khủng bố. Ấn Độ là một quốc gia vũ
khí hạt nhân và là một cường quốc trong khu vực, có quân đội thường trực lớn thứ ba và xếp hạng tám
về chi tiêu quân sự trên thế giới. Ấn Độ là một nước cộng hòa lập hiến liên bang theo thể chế nghị viện,
gồm có 29 bang và 7 lãnh thổ liên bang. Ấn Độ là một xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ và đa dân tộc.
Đây cũng là nơi có sự đa dạng về loài hoang dã trong nhiều khu vực được bảo vệ.
Trang 10
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc

CHƯƠNG 4: TRÌNH BÀY NHỮNG NÉT VĂN HÓA NỔI BẬT CỦA ẤN ĐỘ
Ấn Độ có một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, và họ luôn tìm cách giữ gìn những
truyền thống của mình trong suốt thời kỳ lịch sử trong khi vẫn hấp thụ các phong tục, truyền thống và
tư tưởng từ phía cả những kẻ xâm lược và những người dân nhập cư. Nhiều hoạt động văn hoá, ngôn
ngữ, phong tục và các công trình là những ví dụ cho sự đan xen văn hóa qua hàng thế kỷ đó.
4.1 Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa vì nó là phương tiện được sử dụng để
truyền thông tin và ý tưởng, giúp con người hình thành nên cách nhận thức về thế giới và có tác
động lên việc định hình văn hóa con người. Ngôn ngữ là một tài sản vô giá. Và Ấn Độ phải tự hào
rằng họ là quốc gia sử dụng nhiều loại ngôn ngữ nhất trên thế giới. Theo thống kê, hiện có khoảng
7.000 ngôn ngữ đang tồn tại trên thế giới. Theo cuộc điều tra dân số năm 2001, 1,16 tỷ dân Ấn Độ sử
dụng tới 6.500 ngôn ngữ khác nhau. Trong số đó, có khoảng 1.652 ngôn ngữ được coi là ngôn ngữ
mẹ đẻ. Tuy nhiên, đa số ngôn ngữ đó xuất phát từ hai nhóm ngôn ngữ chính là Ấn-Aryan (chiếm 74%
dân số sử dụng) và Dravidian (chiếm 24%), 2% còn lại dựa trên các nhóm Nam Á và Tạng-Miến. Hai
ngôn ngữ phổ biến nhất được dùng làm ngôn ngữ chính thức của Chính phủ và trong giáo dục cao học
là tiếng Hindi và tiếng Anh. Ngoài ra, 21 ngôn ngữ khác cũng được coi là ngôn ngữ chính thức như
tiếng Phạn, tiếng Sindh, tiếng Kannada… Sự đa dạng trong ngôn ngữ này chắc chắn sẽ dẫn đến sự
phong phú trong các phong tục, tập quán, hay nói đúng hơn, sự phong phú và độc đáo của nền văn
hóa Ấn Độ. Và thật vậy, khách quan đã cho thấy, ở những nước có nhiều ngôn ngữ thì người ta cũng
thấy rằng ở đó có nhiều nền văn hóa khác nhau.
4.2 Tôn giáo
Tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến cách sống, niềm tin, giá trị và thái độ, thói quen làm việc và cách cư
xử của con người trong xã hội đối với nhau và đối với xã hội khác. Ở Ấn Độ, tôn giáo và triết học
cực kỳ phát triển, không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu đã gọi Ấn Độ là “xứ sở của tôn
giáo, xứ sở của tâm linh”. Ở Ấn Độ là sự hòa hợp, giao thoa giữa nhiều trường phái triết học khác
nhau, qua thời gian tạo nên một sự đa dạng trong tôn giáo, tín ngưỡng của người Ấn Độ. Một số tôn
giáo chính ở Ấn Độ có thể kể đến như Hindu giáo (chiếm 80,5% dân số), Hồi giáo (chiếm 13,4%),
Trang 11
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
Thiên Chúa giáo (2,3%), đạo Sikh (1,84%), Phật giáo (0,76%), đạo Jaina (0,4%) và một số tôn giáo

khác.
• Đạo Hindu - Ấn Độ giáo
Đã nói đến tôn giáo ở Ấn Độ thì không thể không đề cập đến đạo Hindu – một thứ “tôn giáo mẹ” đã
đi cùng dân tộc Ấn trong suốt chiều dài 3.500 năm lịch sử, đồng thời tạo nên những đặc trưng tính
cách điển hình của con người nơi đây.
Đạo Hindu là tôn giáo cổ xưa nhất của người Ấn Độ, đồng thời cũng là tôn giáo đặc biệt nhất. Tôn
giáo này không có người sáng lập, không có giáo chủ, cũng không có một giáo hội chặt chẽ và những
giáo điều cứng rắn. Trải qua những biến động thăng trầm (từ thời Veda đến thời Bàlamôn rồi đến đạo
Hindu như giai đoạn hiện nay) bản thân tôn giáo này đã thể hiện được những đặc tính điển hình trong
tư duy của người Ấn Độ - không hề đoạn tuyệt với truyền thống mà luôn luôn tự biến đổi cho thích
ứng nhu cầu thời đại để bảo tồn và phát triển.
Giáo lý của đạo Hindu thời kỳ Bàlamôn giáo nằm trong tư tưởng Nhất nguyên luận – cho rằng linh
hồn vũ trụ (Brahman) đồng nhất là một với linh hồn cá thể (Atman). Linh hồn vũ trụ hòa tan vào tất
cả cũng giống như muối khi hòa tan vào nước, vĩnh viễn không thể tách ra được nữa. Giáo lý nhất
nguyên luận và triết lý bất tổn sinh (Ahimsa) của đạo Hindu đã trở thành cơ sở nền tảng chi phối
cách sống của người Ấn Độ, nền tảng cho sự mở rộng tình yêu với đồng loại, với chúng sinh trong một
cuộc sống hòa bình.
• Đạo Hồi
Mặc dù phần lớn dân số theo đạo Hindu nhưng Ấn Độ lại là nước có số lượng tín đồ Hồi giáo đứng
thứ 3 thế giới (con số ước tính hiện nay khoảng hơn 160 triệu người).
Đạo Hồi đã đến với Ấn Độ lần đầu tiên vào năm 711, khi quân Hồi Giáo Ả Rập đánh chiếm tỉnh
Sind, nay là Pakistan. Đến thế kỷ XI, toàn miền Bắc Ấn theo đạo Hồi, trong đó có tỉnh Ghaznawid,
nay là nước Afganistan. Vào năm 1206, Thổ Nhĩ Kỳ cai trị Ấn Độ đã biến nước này thành "Quốc Gia
Hồi Giáo Ấn Độ" (Muslim State of India) đặt thủ đô tại La Hore.
Năm 1555, Hoàng Đế Humayun của đế quốc Mông Cổ Hồi Giáo (Mughuls) chiếm toàn thể lãnh thổ
Ấn Độ và cai trị xứ này từ đó đến năm 1858 thì bị đế quốc Anh thay thế (303 năm). Trong 3 thế kỷ
Trang 12
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
dưới sự thống trị của đế quốc Mughuls, nhiều người Ấn Độ đã bỏ đạo Hindu theo Hồi Giáo. Và do
đó, sự ảnh hưởng của Hồi giáo lên nền văn hóa Ấn Độ là không hề nhỏ.

• Đạo Phật
Cuối cùng, tuy hiện nay chỉ chiếm con số rất khiêm tốn 0,76% dân số, nhưng chúng ta không thể
không nhắc tới Phật giáo – tôn giáo đã xuất hiện từ rất lâu và mang lại nhiều đổi thay sâu sắc đối với
nền văn hóa Ấn Độ.
Là một trong những tôn giáo lớn ra đời đầu tiên ở Ấn Độ, rõ ràng, Phật giáo đã có ảnh hưởng tỏa
khắp chiều rộng lẫn chiều sâu ở Ấn Độ. Các tháp, tu viện, đền và các thánh tượng của Phật giáo được
xây dựng ở nhiều nơi phật tích trên lục địa Ấn Độ này. Trong nhiều thế kỷ, người dân Ấn đã kính
trọng và tôn thờ các danh hiệu, hình tượng, lời dạy của chư Phật và Bồ Tát. Phật giáo đã sản
sinh một khối lượng đồ sộ văn học Pali, Sanskrit và các ngôn ngữ bản xứ; các bài học, cao đẳng
và tu viện Phật giáo với những thư viện và giáo lý phong phú vĩ đại đã hướng dẫn người dân Ấn
trong nhiều thế kỷ qua; vô số trung tâm nghệ thuật và chiêm bái của Phật giáo khắp Ấn Độ đã trở
thành một nguồn giáo dục và rèn luyện cho vô số người Ấn từ thời cổ đại. Tôn giáo, đạo đức, triết học
và mật tông của Phật giáo đã phát triển như là một đỉnh cao đã tạo ra sự ảnh hưởng lâu dài đến nền
văn hóa và văn minh của Ấn Độ.
Không chỉ là nơi đã sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn trên thế giới như đạo Hindu, đạo Phật Ấn Độ
còn được biết đến như một xứ sở nổi tiếng với tinh hòa hợp tôn giáo từ những truyền thống lâu đời.
Chính tại nơi đây, những tôn giáo lớn hầu như đối nghịch vẫn có thể chung sống hòa bình bên cạnh
nhau.
• Đạo Jaina :
Cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ 6 TCN. Cùng thời với Phật giáo. Đạo này chủ trương bất sát sinh
một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
• Đạo Sikh
Xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ 15. Giáo lý của đạo Sikh là sự dung hòa và kết hợp giáo lí
của Ấn Độ giáovà giáo lí của Hồi giáo. Tín đồ đạo Sikh tập trung rất đông ở Punjab và ngôi đền thiêng
liêng của họ là ngôi đền Vàng ởPunjab. Đạo Sikh là đạo sinh ra cuối cùng trên đất Ấn Độ.
Trang 13
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
4.3 Văn học
Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn
lưu giữ được khoảng 3.000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa.

Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên
cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanskrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ
viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.
Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm
220.000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca
này có thể coi là một bộ "bách khoa toàn thư" phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó.
Ramayana là một bộ sử thi dài 48.000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa
Xita(con của nữ thần mẹ đất). Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á.
Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.
Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tập ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại
trong ngụ ngôn của một số dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.
4.4 Nghệ thuật
4.4.1 Nghệ thuật kiến trúc
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ
thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có
thể chia ra ba dòng nghệ thuật:Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo.
Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây
là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi
cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp.
Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào
khoảng thế kỉ 7 -11. Tiêu biểu cho các công trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm
tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.
Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ
13 và lăng Taj Mahanđược xây dựng vào khoảng thế kỉ 17.
Trang 14
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
4.4.2 Nghệ thuật biểu diễn nhạc - vũ - kịch
Nghệ thuật biểu diễn ở Ấn Độ bao gồm các loại hình nghệ thuật âm nhạc, vũ và sân khấu. Điểm nổi bật
trong lịch sử văn hóa Ấn Độ đó là, ba loại hình này tách biệt mà thống nhất, kết hợp chặt chẽ với nhau.
Nghệ thuật biểu diễn Ấn Độ là màu sắc truyền thống đậm đà. Điều này thật khác với các nước phương Tây.

Ảnh hưởng bên ngoài đã không thay đổi được cái bản chất văn hóa bản địa, mà ngược lại đã bị đồng hóa
vào dòng chảy truyền thống.
Trong thời kỳ cổ điển, nghệ thuật nhạc – vũ – kịch Ấn Độ đã phát triển đến một trình độ cao, một phần nhờ
chính sách bảo trợ của một số nhà vua có tên tuổi như: Sandra Gupta II, Hacsa…Mặt khác trong các đền
đài người ta cũng xây dựng những phòng dành riêng cho việc biểu diễn nghệ thuật nhạc – vũ – kịch.
Về âm nhạc, tổng thể gồm 3 loại âm nhạc kết hợp: nhạc lời ca, nhạc dụng cụ, nhạc mỳa. Không chỉ
dừng lại ở đó, âm nhạc cổ điển còn sử dụng nhiều nhạc cụ khác nhau, lên tới 210 loại nhạc cụ truyền
thống.
Về nghệ thuật múa, Ấn Độ cũng bao gồm ba thể loại: múa dân gian, múa hiện đại. Múa dân gian rất
phong phú và đa dạng, hầu như mỗi bang đều có những điệu múa của riêng mình
Về nghệ thuật sân khấu – kịch – và điện ảnh, loại hình nghệ thuật này được đông đảo quần chúng nhân
dân từ mọi tầng lớp trong xã hội, từ bình dân đến quý tộc đều ưa thích. Hình thức sân khấu xuất hiện ở
Ấn Độ và nở rộ vào khoảng 10 thế kỷ đầu công nguyên. Thể loại kịch cổ điển thường được diễn trong
các đền đài cung đình, ở ngoài trời hoặc trong khung cảnh mang không khí tôn giáo. Một số tác phẩm
kịch tiêu biểu như Sokuntola của Kalidasa và Chiếc xe nhỏ bằng đất nung của Sudraka. Kịch Ấn Độ
hướng về các đề tài lịch sử, truyền thuyết, mô tả cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác.
4.5 Ẩm thực
Nét đặc trưng đầu tiên trong văn hóa ẩm thực Ấn Độ là sự kết hợp hài hòa các loại gia vị. Mỗi khu vực, vùng
miền ở Ấn Độ lại có những món mang với các loại gia vị đặc trưng và cách chế biến đặc trưng.
Ở miền bắc Ấn Độ, các món ăn là sự kết hợp hài hòa các loại nguyên liệu như sữa, bơ sữa, sữa chua, ớt,
nghệ, quả hạch Các món ăn ở đây thường không thể thiếu nước sốt. Trong khi đó ở miền Đông Ấn Độ, với
cách pha chế gia vị vào trong các món ăn một cách tinh tế ở vùng Orissa, Bengal, Assam tạo ra những món
mang hương vị đặc biệt của vùng. Đặc biệt trong chế biến món ăn người ta thường sử dụng mù tạc, cây thìa
là Ai Cập, ớt xanh, sốt thì là.
Trang 15
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
Cà ri được xem là quốc hồn của nước Ấn Độ, nó cũng là một nét đặc trưng trong các món ăn của miền Nam
Ấn Độ với các thành phần chủ yếu là cơm, thịt nai, đồ chua, dừa, nước cốt dừa, sử dụng các loại gia vị như
me, đậu lăng cùng với gia vị đặc trưng là cà ri tạo ra những món ăn chứa nhiều hương vị.
Miền Tây Ấn Độ lại chịu ảnh hưởng văn hóa ẩm thực của Bồ Đào Nha còn ở vùng Đông Bắc chịu ảnh

hưởng của văn hóa ẩm thực Trung Quốc, Burma. Mỗi vùng miền với các món ăn cách chế biến đặc trưng,
mang hương vị riêng đã góp phần làm cho nền văn hóa ẩm thực Ấn Độ ngày càng phong phú đa dạng.
Chính điều này đã tạo ra sự thú vị, tò mò hấp dẫn du khách gần xa.
Các món ăn của miền Nam Ấn Độ có thành phần chủ yếu là cơm, thịt nai, đồ chua, dừa và đặc biệt là nước
cốt dừa, cà ri. Các món ăn của miền Nam Ấn Độ thường chứa nhiều hương vị do sử dụng các gia vị như me,
quả dừa, đậu lăng, cơm và một số loại rau. Các món ăn của miền Tây chịu ảnh hưởng bởi các món ăn Bồ
Đào Nha và các món ăn của Đông Bắc Ấn Độ thì lại chịu ảnh hưởng của các nước lân cận như: Burma,
Trung Quốc.
Nếu người phương Tây, khi ăn dùng dao, nĩa, người Á Đông dùng đũa thì ở Ấn Độ họ lại dùng tay để ăn.
Điều đặc biệt là họ chỉ dùng bàn tay phải ăn không dùng bàn tay trái, vì người ta quan niệm rằng bàn tay trái
làm những việc dơ bẩn.
Như chúng biết Ấn Độ là một quốc gia tôn giáo phát triển, với hai tôn giáo lớn nhất là Ấn Độ giáo và Hồi
giáo. Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến văn hóa ẩm thực Ấn Độ. Người Ấn Độ giáo kiêng thịt bò còn
người Hồi giáo không ăn thịt heo nên trong những món ăn ở Ấn Độ chủ yếu sử dụng thịt gà, thịt cừu, thịt dê
và các loại hải sản. Theo phong tục của người Ấn, trong các buổi tiệc cưới hỏi, lễ lạt quan trọng không thể
thiếu món cừu nấu với hạnh nhân, món thịt cừu nướng.
Nước sữa và nghệ tây là một trong những thức uống phổ biến nhất. Được chế biến từ hạnh nhân, hạt pít-tat,
sữa, thảo quả, nghệ tây, cho thêm chút rượu. Thường được dùng như một thức uống giải khát thường thấy
trong các lễ hội hoa đăng, lễ hội mùa xuân…
4.6 Trang phục
Ở các làng quê, thành phố, trong lễ hội hay nơi công sở, giảng đường, thậm chí ở các diễn đàn quốc tế, người
Ấn Độ thường nổi bật và khác biệt với váy, áo truyền thống của cả nam và nữ. Trang phục truyền thống tại
Ấn Độ khác biệt rất lớn theo từng vùng về màu sắc và kiều dáng, và phụ thuộc trên nhiều yếu tố, bao gồm cả
khí hậu.
Trang 16
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
Salwar Kameez và Sari là quần áo truyền thống cho phụ nữ Ấn Độ. Salwar Kameez gồm một chiếc áo dài
gọi là Khameez và một chiếc quần rộng gọi là Salwar. Sari là một miếng vải dài gần 6m được quấn quanh
thân người để tạo thành một chiếc váy và cuối cùng được vắt qua vai. Sari thường được mặc với một lớp áo
lót bên trong gọi là choli.

Dhoti Kurta là quần áo truyền thống của nam giới Ấn Độ. Ngoài tấm áo dài truyền thống, nam giới phải
dùng một mảnh vải dài gần 5m để quấn quanh hông và chân. Có nhiều cách quấn khắn tạo ra nhiều kiểu ống
quần khác nhau.
4.7 Văn hoá giao tiếp
Giới thiệu bản thân: Thật ngạc nhiên, người Hindu truyền thống không có họ. Tên của những người Hồi giáo
thường có nguồn gốc từ A-Rập. Thông thường, tên của phụ nữ Hồi giáo thường bắt đầu bằng tên + "binti"
("daughter of") + tên của cha. Trước tên của người Sikh Ấn Độ thường thêm "Singh"đối với nam giới hay
"Kaur" đối với nữ giới, và cần nhớ rằng không được giới thiệu bản thân với một phụ nữ đang đi trên đường
một mình.
Bắt tay quá chặt ở Ấn Độ bị coi là thiếu lịch sự. Ở phía Bắc (như Delhi), khi chắp hai bàn tay lại như để
trước ngực, hơi cúi đầu và nói: Namaste J được coi là rất coi trọng người khác. Và cũng không nên bắt tay
phụ nữ.
Người Ấn Độ rất đa nghi và thường để ý ngay từ đầu để đánh giá người khác. Họ thường nói chuyện về gia
đình. Bạn đừng ngạc nhiên khi người Ấn Độ tìm hiểu tỷ mỷ về gia đình bạn, đã kết hôn chưa hoặc có phải đã
ly hôn không, con tên là gì, vợ hoặc chồng năm nay bao nhiêu tuổi.
Cricket bao giờ cũng là chủ đề thích hợp cho mọi dịp tiếp xúc với người Ấn Độ vì đó là môn thể thao rất
được ưa chuộng ở nước này.
4.8 Văn hóa sông Hằng
Khởi nguồn của sông Hằng là vùng đất Gaumuth ở độ cao trên 3.900 mét thuộc vùng núi Himalaya.
Đây là nơi có khí hậu sương giá quanh năm và là nơi tu hành, truyền đạo của các giáo sĩ, thầy tu thuộc
dòng Ấn Độ giáo.
Có nhiều huyền thoại liên quan đến việc giáng trần của Nữ thần sông Hằng được mô tả trong các sử thi
của Ấn Độ như Mahabharata, Devi Bhavata hay Bhagawata Purana… Trong số này, truyền thuyết về
Trang 17
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
sông Hằng theo sự khẩn cầu của vua Bhagiratha là hấp dẫn nhất. Vua Bhagiratha bị một đạo sĩ độc ác
dùng ánh mắt giận dữ thiêu đốt 60.000 tổ tiên của vua thành tro bụi và chỉ có nước trên Thiên hà mới
cứu được linh hồn của họ. Vua đã thành tâm khẩn cầu thần Shiva (thần Tái tạo) cứu giúp. Thương tình
vị vua nhân từ, thần Shiva để dòng Thiên hà chảy qua mái tóc của Ngài và cũng xuống hạ giới, nhờ thế
mà trái đất không bị vỡ vụn bởi sức mạnh kinh khiếp của nó. Thiên hà chảy xuống dải Himalaya, nơi

dòng sông uốn khúc để khóa chặt vị đạo sĩ gian ác kia và chảy vào bình nguyên Ấn Độ, rồi chảy ra đại
dương. Ở đó, nó tiếp tục chảy xuống địa ngục để tạo lại hình dáng cho tổ tiên của vua. Như thế sông
Hằng được mệnh danh là dòng sông của ba cõi: Thiên đường, trần gian và địa ngục.
Người Hindu đặt tên sông Hằng theo tên của thần hộ mệnh Ganga, con gái thần núi Himalaya và là
hiện thân của lòng nhân từ, sự uy quyền, thịnh vượng và hạnh phúc. Chính vì thế, người Hindu tin
tưởng một cách mạnh mẽ rằng nước sông Hằng có thể giúp họ rửa sạch mọi lỗi lầm, mang lại hạnh
phúc, sức mạnh vô song cho con người. Thậm chí, những người cuồng tín còn tin rằng nước sông Hằng
có thể giúp chữa trị một số bệnh hay việc được ném xác hay tro cốt xuống sông Hằng sẽ giúp linh hồn
sẽ được lên thiên giới. Do đó, từ hàng nghìn năm nay, trong cộng đồng người Hindu đã hình thành tập
quán tắm trên sông Hằng.
Hằng năm, cứ vào dịp chính lễ từ tháng Một đến tháng Hai, hàng triệu tín đồ Hindu từ khắp mọi miền
của Ấn Độ tìm cách hành hương về các vùng thánh địa như Bernares, Haridwar, Allahabad để được
đắm mình trong dòng nước linh thiêng của sông Hằng, bất chấp không ít những nguy hiểm mà họ phải
vượt qua trong hành trình của mình. Người Ấn Độ giáo tin rằng dù có chết trên đường hành hương hay
“được chết” trên sông Hằng thì đó luôn là điều may mắn giúp họ đến với cuộc sống cực lạc ở kiếp sau.
Nói về điều này, người Ấn Độ giáo thường ví von đây là hành trình “đi tìm cái sinh trong cõi tử”.
Tuy nhiên, lòng mộ đạo thái quá của người Hindu đối với sông Hằng đang trở thành vấn đề đáng quan
ngại đối với Chính phủ Ấn Độ khi tình trạng ô nhiễm trên dòng sông này đang ngày càng trở nên
nghiêm trọng.
Theo thống kê, mỗi năm sông Hằng phải tiếp nhận hàng trăm nghìn lít chất thải độc hại từ các nhà máy
và khoảng gần 1 tỷ lít nước thải sinh hoạt; đó là chưa kể việc mỗi năm có hàng triệu tín đồ đổ về tắm
trên sông Hằng và tục lệ thả xác chết hay rải tro cốt trên sông Hằng của các tín đồ Hindu. Trong khi đó,
hàng triệu người dân vẫn phải sử dụng nguồn nước sông Hằng cho sinh hoạt hàng ngày. Nguyên nhân
của hiện tượng này ngoài tình trạng thiếu nguồn cung cấp nước sạch còn có một lý do rất quan trọng:
đó là sự sùng bái, muốn gắn mọi sinh hoạt thường ngày với sông Hằng linh thiêng của giáo dân Hindu.
Trang 18
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
Trang 19
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
CHƯƠNG 5: NHỮNG ĐỀ XUẤT/KIẾN NGHỊ KHI THỰC HIỆN CÁC GIAO DỊCH

SẢN XUẤT KINH DOANH VỚI NHỮNG DOANH NGHIỆP CỦA ẤN ĐỘ
Để những chuyến giao dịch kinh doanh ở nước ngoài thành công, người kinh doanh cần tìm hiểu về lịch sử,
văn hóa và phong tục tập quán của những nước sẽ lui tới. Sự linh hoạt và thích ứng văn hóa chính là những
nguyên tắc mang tính định hướng cho những chuyến đi vì mục tiêu kinh doanh. Phương pháp và cách thức
kinh doanh, phong tục tôn giáo, chế độ ăn uống, sự hài hước và y phục bề ngoài có sự khác biệt lớn giữa các
quốc gia. Một số yếu tố cần cân nhắc dưới đây:
5.1 Chào hỏi, làm quen
Chào hỏi, làm quen Thường lệ chỉ cần bắt tay khi chào hỏi, nhưng không quá chặt. Bắt tay quá chặt ở Ấn Độ
bị coi là thiếu lịch sự. Không được chắp hai bàn tay lại như khấn vái để chào hỏi. Những tiếp xúc đầu tiên
thường chỉ là chuyện không đầu không cuối vì người Ấn Độ rất đa nghi và thường để ý ngay từ đầu để đánh
giá đối tác có đáng tin cậy không. Họ thường nói chuyện về gia đình. Bạn đừng ngạc nhiên khi người Ấn Độ
tìm hiểu tỷ mỷ về gia đình bạn, đã kết hôn chưa hoặc có phải đã ly hôn không, con tên là gì, vợ hoặc chồng
năm nay bao nhiêu tuổi. Cho nên nhiều khi đem ảnh gia đình theo lại có tác dụng tốt cho bàn bạc chuyện làm
ăn. Cricket bao giờ cũng là chủ đề thích hợp cho mọi dịp tiếp xúc với người Ấn Độ vì đó là môn thể thao rất
được ưa chuộng ở nước này.
Danh thiếp được trao trực tiếp khi chào hỏi, làm quen. Ban phải dùng tay phải để trao danh thiếp của bạn và
nhận danh thiếp từ tay người Ấn Độ. Tay trái bị coi là “không sạch sẽ”. Chức danh trên danh thiếp rất quan
trọng. Nếu trên đó không ghi ít nhất là “Phó Chủ tịch” hay “Giám đốc” thì thường không được coi trọng vì
doanh nghiệp Ấn Độ được tổ chức theo trật tự quyền lực nghiêm ngặt, chức danh thấp hoàn toàn không có
quyền quyết định.
5.2 Hẹn gặp
Khi lên kế hoạch cho cuộc hẹn thì nên sắp xếp trước đó vài tháng. Nếu bạn lên kế hoạch cho cuộc hẹn trước
khi đến Ấn Độ thì lưu ý rằng bạn sẽ có mặt tại đó trong một thời gian ngắn. Trước cuộc hẹn vài ngày, bạn
nên xác nhận lại một lần nữa. Mặc dù không cần thiết lắm, nhưng bạn cũng nên có địa chỉ liên lạc tại Ấn Độ
khi hẹn gặp.
Có một sự khác biệt về văn hóa điển hình trong các bộ ngành của chính phủ và các tổ chức thương mại. Nếu
so sánh với các tổ chức thương mại thì hẹn gặp các quan chức chính phủ thường khó hơn rất nhiều. Tuy
Trang 20
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
nhiên tại các phòng ban của chính phủ, thông thường bạn phải hẹn lại hoặc phải chờ trong nhiều giờ đồng hồ

trước khi gặp được người cần gặp.
Hãy chuẩn bị sẵn sàng cho những sự thay đổi trong phút chót về thời gian và địa điểm gặp. Bạn nên để lại
thông tin liên lạc cho thư ký của người hẹn gặp để nếu có sự thay đổi thì người ta sẽ thông báo cho bạn.
Bạn nên cố gắng đến sớm để đúng hẹn. Tại hầu hết các thành phố ở Ấn Độ, đường phố thường rất đông,
trong những giờ cao điểm, bạn sẽ mất rất nhiều thời gian để đến được chỗ hẹn. Các địa chỉ ở Ấn Độ thường
rất rắc rối do cách đánh số của các toà nhà rất khác nhau ở các nơi, ngay cả ở cùng một thành phố. Phức tạp
hơn nữa là trong những năm gần đây, đường phố ở nhiều thành phố bị đổi tên. Để tránh bị lạc đường, bạn
nên hỏi người hẹn gặp làm thế nào để đến đó.
5.3 Thời gian
Người Ấn Độ đánh giá cao việc đúng giờ và giữ cam kết. Tuy nhiên nhiều người đến Ấn Độ lấy làm bối rối
khi người Ấn Độ thường không để tâm đến việc đúng hẹn. Một trong những lý do của việc này là theo quan
điểm của người Ấn Độ, thời gian không được coi là tiêu chuẩn cho việc lên kế hoạch hay chương trình nào
đó. Đối với hầu hết những người Ấn Độ thì chương trình và kế hoạch thường tùy theo con người và những
sự kiện khác và hoàn toàn có thể thay đổi. Người Ấn Độ không phải không đúng giờ, nhưng chuyện đến
muộn một tiếng đồng hồ là có thể xảy ra, đặc biệt khi biết đối tác muốn cái gì đấy ở họ. Dù vậy, bạn nên chỗ
đến hẹn đúng giờ vì không đúng giờ vẫn bị coi là không lịch sự.
Giờ làm việc hành chính thường từ 10h sáng đến 5h chiều. Ở các tổ chức thương mại có xu hướng kéo dài
ngày làm việc, bắt đầu vào 7h30 sáng và kết thúc lúc 8h tối. Thông thường giờ ăn trưa là 1 giờ đồng hồ, từ
12h trưa tới 2h chiều. Trong những năm gần đây người ta có xu hướng hẹn gặp vào bữa sáng hoặc bữa trưa
để tiện trao đổi công việc. Các cuộc hẹn ăn tối rất ít khi dành cho các mục đích làm ăn. Các bữa tối được tổ
chức như các buổi chiêu đãi với mục đích chào đón và tìm hiểu lẫn nhau.
Thời gian tốt nhất trong năm để giao dịch là vào giữa tháng Mười và tháng Ba. Bạn không nên sắp xếp lịch
làm việc với họ vào các ngày nghỉ lễ. Một điều quan trọng bạn cần chú ý là ngoài các ngày nghỉ lễ lớn,
người Ấn Độ còn có các lễ hội tôn giáo khác và nó không theo như đúng lịch dương mà chúng ta hay dùng.
Vì vậy, hãy tìm hiếu kỹ những ngày này thông qua đại sứ quán Ấn Độ của nước mình để có được lịch hẹn
phù hợp nhất. Người Ấn Độ không phải là người đặc biệt đúng giờ, vậy nên khi định giờ cuộc hẹn, bạn có
thể linh động đôi chút thời gian để tiếp đón đối tác của mình.
Trang 21
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
5.4 Đàm phán/Hội họp

Đàm phán thường bắt đầu bằng những chuyện ngoài lề, uống chè hoặc cà phê ngọt, nhiều sữa. Sau đó là
những cuộc đàm phán được chuẩn bị chi tiết như thể vở diễn trên sân khấu. Ban có thể thẳng thắn lập luận,
vặn bẻ số liệu hay đề nghị mời chào của đối phương, nhưng không bao giờ được tỏ ra là mất bình tĩnh. Rất
hiếm khi người Ấn Độ có chương trình nghị sự định sẵn cho cuộc đàm phán và điều quan trọng nhất bao giờ
cũng được để ở cuối cùng. Đàm phán thường kéo dài và mất thời gian. Người Ấn Độ cho rằng nếu đạt kết
quả nhanh thì việc đàm phán, thỏa thuận có gì đó không ổn.
Không phải cứ trả lời “Vâng” có nghĩa là đồng ý. “Vâng” cũng có thể có nghĩa là “Tôi không biết”. Thậm
chí nếu nói “vâng” với biểu hiện ngần ngại thì còn có thể bao hàm ý “Không”. Để tránh hiểu nhầm, bạn
không nên đặt những câu hỏi để có thể trả lời hoặc phải trả lời với “Yes” hoặc “No”.
Không phải người Ấn Độ không chấp nhận bị phê phán mà họ chỉ không bao giờ phê phán trực diện thôi. Ai
không hài lòng thì tốt hơn là nên hỏi đối tác xem có cách nào khác không. Từ chối hay bác bỏ thẳng thừng
cũng bị coi là thiếu lịch sự - tương xứng gần bằng một cái bạt tai.
Trong các cuộc hội họp thì người ta thường sử dụng cách gọi tên người khác một cách trang trọng như "ngài
Smith" chứ không dùng tên riêng.
Trong cuộc họp, tốt nhất bạn nên xưng hô với các đối tác Ân độ bằng các chức danh của họ như "Professor
X" (Giáo sư X), "Mr. X" (Ông X) hay "Miss X" (Cô X) kèm theo họ chứ không phải tên riêng.
Các quy tắc giao tiếp trong kinh doanh ở Ấn Độ tương tự như hầu hết các nước ở Tây Âu. Phần lớn các
khách hàng Ấn Độ có trình độ về quản lý và kỹ thuật đều giao tiếp tiêng Anh rất tốt.
Mặc dù theo như phong tục ở Ấn Độ thì bạn có thể bắt tay nam giới khi bắt đầu cuộc họp, nhưng với phụ nữ
bạn nên tránh điều này. Nên chú ý, chỉ khi người phụ nữ chủ động mời bạn bắt tay thì bạn mới nên thực hiên
nghi thức này với họ. Một nghi thức chào truyền thống khác nữa là bạn chắp hai tay, để dưới cằm, mỉm cười,
đầu hơi cúi nhẹ và nói “Namaste”.
Trong văn hoá Ấn Độ, sẽ không phải phép lịch sự nếu hai người khác giới ôm hôn nhau ở nơi công cộng.
Trong cuộc họp, bạn đừng bao giờ chống tay lên hông vì hành động đó được coi như biểu hiện sự tức giận
của người Ân Độ.
Trang 22
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
5.5 Ngôn ngữ
Mặc dù là một xã hội truyền thống nhưng hoạt động kinh doanh ở Ấn Độ phần lớn vẫn tuân theo các tập
quán thương mại quốc tế. Đại đa số người Ấn Độ có các kỹ năng cần thiết như ngôn ngữ (tiếng Anh được sử

dụng rộng rãi trong giao tiếp nói và viết), kỹ năng quản lý, kỹ thuật và khả năng thương thuyết thành thạo.
Việc tiếp đãi đối tác làm ăn hoặc khách hàng phần lớn không tiến hành tại nhà.
Ngôn ngữ giao dịch là tiếng Anh. Nhưng ai biết được vài câu tiếng Hindi cũng sẽ gây được ấn tượng tốt ở
miền Bắc, còn ở miền Nam nói tiếng Hindi sẽ phản tác dụng.
5.6 Dùng bữa
Ấn Độ rất thân thiện và việc mời nhau đi dự tiệc riêng tư thường được coi là biểu hiện của mối quan hệ đối
tác tốt đẹp. Bạn không đươc từ chối những lời mời như vậy. Bữa ăn thường rất muộn, sau các thủ tục và nghi
lễ đón tiếp cầu kỳ và kéo dài, vì thế bạn không nên để bụng đói đến dự tiệc. Sau món tráng miệng là thời
điểm phải cáo từ ra về, ở lại lâu hơn bị coi là thiếu lịch sự.
Đồ uống rất được ưa chuộng ở Ấn Độ, đặc biệt là bia, gin tonic và whisky. Người thuộc đẳng cấp cao nhiều
khi không uống rượu. Trong bữa ăn không dùng đồ có rượu.
Nhiều người Ấn Độ ăn bằng tay, nhưng chỉ khi ở nhà trong gia đình. Khi ăn tiệc với bạn hàng thì thường
dùng dao, thìa, dĩa. Do có nhiều tôn giáo khác nhau nên cách thức chế biến món ăn ở Ấn Độ rất khác nhau.
Đồ ăn chay và nước hoa quả thì ở chỗ nào cũng thích hợp.
5.7 Quà tặng
Người Ấn Độ thích nhận được các món quà như hoa, sôcôla, nước hoa hay những đồ điện nhỏ. Bạn nên chú
ý tránh những quà tặng có liên quan đên các quan niệm tôn giáo hay đạo đức của họ. Ví dụ bạn đừng nên
tặng họ một bức tranh về một chú chó vì theo họ chó là loài động vật không sạch sẽ. Người Ấn Độ đặc biệt
thích và đánh giá cao những món quà có liên quan đến quê hương của người tặng quà. Bạn nên gửi kèm theo
một danh thiếp hoặc bưu thiếp vì nhiều khi quà tặng không được mở trước mặt người tặng quà.
Khi bạn muốn tặng quà cho đối tác của mình, hãy lưu ý giấy gói quà không được là màu trắng hay màu đen
vì người Ân Độ tin rằng những màu này hay mang lại điều không may. Mặt khác, những màu theo họ sẽ
mang lại may mắn là màu đỏ, xanh lá, và màu vàng. Theo quan niêm của họ, bạn không nên mở quà trước
Trang 23
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
sự có mặt của người tặng. Nếu họ tặng bạn một món quà, bạn hãy mở nó sau khi người tặng quà đi khỏi
phòng.
5.8 Trang phục
Trong những năm gần đây, phong cách ăn mặc trong công việc của người Ấn Độ đã có những chuyển biến
và có sự khác biệt giữa các vùng và các lĩnh vực. Vì vậy rất khó để có một cái nhìn khái quát về cách ăn mặc

sao cho thích hợp trên toàn lãnh thổ Ấn Độ. Tuy nhiên những điểm sau đây sẽ giúp bạn có quyết định thích
hợp.
Trang phục thông thường cho nam giới là complet và cà vạt. Tuy nhiên vì Ấn Độ là nước có khí hậu nóng
nên một chiếc áo dài tay với cà vạt cũng có thể chấp nhận được. Điều quan trọng là bạn nên chọn màu sắc
trung tính, không tối quá và cũng không sáng quá. Trong hầu hết các công ty, đặc biệt là trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, việc ăn mặc thoải mái hơn nhiều. Bạn có thể bắt gặp người ta mặc áo phông, quần bò và đi
giày vải. Tuy nhiên nếu là khách, mặc dù không trang trọng thì bạn vẫn nên ăn mặc lịch sự.
Với phụ nữ nước ngoài, một bộ vét hoặc một chiếc váy dài đến gối là thích hợp nhất. Cổ áo nên cao một
chút. Trang phục salwar thích hợp cho nơi công sở.
Quần bò, áo phông, áo sơ mi cộc tay có thể được chấp nhận cho cả nam và nữ trong những tình huống không
trang trọng. Bạn có thể mặc quần áo bình thường nếu được mời đến một buổi gặp có tính chất xã hội. Tuy
nhiên, nếu một người nước ngoài mặc trang phục Ấn Độ (nam giới mặc kurta-pajama, nữ giới mặc sari hay
bộ salwar) thì sẽ rất được đánh giá cao và được xem như một biểu hiện của sự thân thiện. Tuy đối tác người
Ấn Độ của bạn nhiều khi xuất hiện với áo cộc tay và không thắt cravat. Nhưng người Ấn Độ lại mong chờ
đối tác của họ ăn vận lịch sự. Chỉ có mùa hè là không vận comple. Nhưng bạn nên mang áo comple theo vì
trong phòng làm việc của người Ấn Độ thường để nhiệt độ điều hòa rất thấp, khoảng 18 độ C để thể hiện
đẳng cấp. Nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị cảm lạnh giữa mùa hè.
Trang 24
Quản trị rủi ro GVHD: Th.S Lê Ngọc
KẾT LUẬN
Văn hóa – văn minh Ấn Độ được biết đến trong lịch sử văn minh thế giới như một nền văn hóa vừa
có tính chất hướng nội, vừa có tính chất hướng ngoại. Nhưng không vì thế mà sức ảnh hưởng của nó
chỉ bó hẹp trong phạm vi đất nước mà còn lan tỏa mạnh mẽ đến cỏc vựng đất khác. Văn hóa Ấn Độ
là một trong những nền văn hóa cổ xưa trên thế giới, cũng bởi chính những những yếu tố trên, văn
hóa Ấn Độ cho đến nay vẫn lưu giữ lại một cách toàn vẹn nhất những thành tựu đã đạt được.
Trong quá trình giao thương với các quốc gia đặc biệt là Ấn Độ với nển văn hoá da dạng, thì đòi hỏi
người doanh nhân phải tìm hiểu và hiểu rõ được văn hoá đó để có thể đưa ra kế hoạch cũng như
chiến lược hiệu quả vì mỗi quốc gia đều có nền văn hoá riêng , văn hoá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình giao tiếp cũng như giao thương . Văn hoá Ấn Độ là điển hình tiêu biểu, nếu chúng ta thiếu
hiểu biết về văn hoá của đối tác sẽ dẫn đến hiểu nhầm, bối rối và lúng túng trong cách ứng xử. Trong

quá trình hội nhập, mở ra nhiều cơ hội giao lưu hợp tác quốc tế , việc thông hiểu về văn hoá cũng
như đặc điểm về phương thức giao tiếp trong việc giao thương sẽ là một nhân tố cho sự thành công
của môt đất nước đang phát triễn như Việt Nam.
Trang 25

×