Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Giáo trình quan hệ mỹ nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.03 KB, 43 trang )
















TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
F 7 G






GIÁO TRÌNH
QUAN HỆ MỸ – NHẬT BẢN
SAU CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI THỨ HAI ĐẾN NAY



HOÀNG THỊ NHƯ Ý









Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 1
MỤC LỤC


CHƯƠNG I 2
I. Quan hệ Mỹ – Nhật thế kỉ XIX đến những thập niên đầu XX 2
II. Quan hệ Mỹ – Nhật giai đoạn đầu thế kỷ XX đến kết thúc chiến tranh thế giới
thứ nhất
4

III. Quan hệ Mỹ – Nhật thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 –1939)
5
CHƯƠNG II 9
I. Quan điểm của Mỹ trong việc giải quyết “vấn đề Nhật Bản” sau chiến tranh thế
giới thứ II (1945-1949)
9
II. Quan hệ Mỹ Nhật giai đoạn đầu thập niên năm mươi đến kết thúc chiến tranh
lạnh
10
1. Sự ra đời Liên minh Mỹ – Nhật 10
2. Liên minh an ninh quân sự giữa Mỹ và Nhật Bản trong chiếntranh lạnh 12
3. Quan hệ kinh tế Nhật – Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh 15
CHƯƠNG III 18

I. Những biến đổi tình hình quốc tế 18
1. Chấm dứt sự đối đầu giữa hai siêu cường 18
2. Vấn đề nhận thức quan hệ Mỹ – Nhật Bản 19
II. Quan hệ hợp tác an ninh - quân sự giữa Mỹ và Nhật Bản thời kì sau chiến tranh
lạnh
20
1. Hợp tác trong lónh vực quân sự 20
2. Quan hệ Mỹ – Nhật trong lónh vực an ninh 22
III. Quan hệ kinh tế Mỹ –Nhật Bản thới kỳ sau chiến tranh lạnh 27
1. Quan hệ Mỹ – Nhật trên lónh vực thương mại 28
2. Quan hệ trên lónh vực đầu tư 35
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 2
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT QUAN HỆ MỸ – NHẬT
THỢI KÌ TRƯỚC 1945

I. Quan hệ Mỹ – Nhật thế kỉ XIX đến những thập niên đầu XX
Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, làn sóng bành trướng mạnh mẽ của chủ
nghóa tư bản phương Tây tràn vào châu Á. Nhật Bản là nước duy nhất ở Đông Á không
những bảo vệ được nền độc lập của mình mà còn tiếp tục phát triển vươn lên “hòa
nhập” vào quỹ đạo chung của quá trình chuyển biến lên chủ nghóa tư bản độc quyền.
Trong khoảng trên dưới 200 năm trước đó trong quan hệ đối ngoại, Nhật Bản
cũng giống như những nước Đông Á khác, thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng. Đầu
thế kỷ XIX, tàu thuyền của Mỹ đã nhiều lần tới Nhật Bản nhưng đều bò từ chối buôn
bán giao thương. Sau nhiều lần dùng các biện pháp ngoại giao thông thường, Mỹ thấy
rằng phải dùng áp lực quân sự mạnh mới có thể đạt được mục đích.

Tháng 5/1853, Mỹ đã cho lực lượng hải quân hùng hậu đổ bộ lên Lưu Cầu với
việc diễu võ dương oai của những chiến hạm khổng lồ chạy bằng hơi nước cùng với
thư của Tổng thống Mỹ yêu cầu yêu cầu Nhật Bản giúp đỡ, bảo vệ các thuỷ thủ gặp
nạn ở biển Nhật Bản; tự do buôn bán giữa hai nước… Chính quyền Nhật Bản phải
nhượng bộ, chấp nhận những yêu sách của Mỹ.
Hiệp ước Nhật Mỹ đầu tiên đã được ký kết vào ngày 31-3-1854 tại thành phố
Ka-na-ga-oa. Theo quy đònh của hiệp ước này Nhật phải nhận cung cấp cho các thủy
thủ Mỹ khi gặp nạn; cho Mỹ được tự do buôn bán; Mỹ có quyền đặt lãnh sự quán tại
Si-mô-đa; Mỹ được coi là nước có quyền ưu đãi nhất.
Như vậy, Mỹ chính là kẻ đi tiên phong trong việc “mở cửa” vào Nhật Bản,
chính sách “đóng cửa” của Mạc phủ Tô-ku-ga-oa trong 200 năm đã đến lúc cáo chung,
nhưng Mỹ không dừng lại ở đó mà tiếp tục lấn tới, buộc Nhật Bản phải từng bước
nhượng bộ.
Theo điều khoản đã kí ở Hiệp ước năm 1854, Mỹ cử Haris sang làm tổng lãnh
sự tại Nhật. Vừa đặt chân đến Si-mô-đa, Haris đã đưa ra vấn đề yêu cầu tự do thương
mại giữa hai nước Nhật – Mỹ. Hiệp ước mới về quan hệ thương mại giữa hai nước đã
được kí kết với nội dung:
- Nhật Bản phải mở cửa năm hải cảng Ka-na-ga-oa, Na-ga-xa-ki, Ni-I-ga-ta,
Ê-đô (Tô-ki-ô) và Ô-sa–ca cho Mỹ thông thương buôn bán. Ở các cảng và
thành phố này, người nước ngoài có quyền cư trú, quyền kiểm soát, quyền
tự trò và quyền thuê đất vónh viễn
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 3
- Tự do mậu dòch
- Vấn đề thuế quan sẽ do hai bên quyết đònh (tức Nhật Bản không có quyền
đơn phương đònh đoạt thuế quan như một nước có chủ quyền trọn vẹn)
- Các công dân Mỹ được hưởng quyền lãnh sự tài phán (tức là nếu công dân
Mỹ ở Nhật phạm tội thì sẽ được xét xử theo luật của Mỹ, chứ không phải
theo luật pháp của Nhật)

- Mỹ được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc
Như vậy, Nhật đã rơi vào vò thế phải chấp nhận những quan hệ bất bình đẳng
với các nùc tư bản phương Tây. Những sự bất bình đẳng này thể hiện tập trung nhất
trong vấn đề trò ngoại pháp quyền của các công dân nước ngoài và trong vấn đề quan
thuế.
Năm 1868, Nhật Bản tiến hành cuộc cách mạng, kết thúc chế độ Mạc phủ kéo
dài hơn 7 thế kỉ, tạo ra bước ngoặt quan trọng tiến mạnh trên con đường Duy Tân dưới
thời Minh Trò (1868 – 1912). Thành công trong công cuộc cách tân đất nước, Nhật Bản
đã bảo vệ thắng lợi nền độc lập của mình trước sự bành trướng xâm lược của chủ
nghóa tư bản phương Tây. Thế nhưng các hiệp ước bất bình đẳng mà Nhật đã kí với
Mỹ và các nước tư bản phương Tây trước đó vẫn tồn tại; do đó, Nhật Bản phải trải qua
một thời gian dài đấu tranh để thủ tiêu tính chất bất bình đẳng của các hiệp ước đó.
Đầu thế kỷ XX, Nhật đã bước lên hàng ngũ các cường quốc và được các cường
quốc thừa nhận đòa vò đó của Nhật. Trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905),
tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven (1858-1919) đã đứng ra làm vai trò trung gian hòa giải cho
cuộc đàn phán hòa bình Nga – Nhật. Thực ra, Mỹ đã giúp đỡ rất nhiều cho Nhật trong
cuộc chiến tranh này để thông qua Nhật đẩy Nga ra khỏi khu vực ảnh hưởng tại Đông
Bắc Trung Quốc và Triều Tiên.
Ngày 29-7-1905, Nhật – Mỹ đã thỏa thuận là Nhật sẽ ủng hộ Mỹ trong vấn đề
Mỹ giành quyền được “bảo hộ” Phi-líp-pin từ tay Tây Ban Nha, còn Mỹ sẽ ủng hộ
Nhật trong vấn đề Triều Tiên.
Chiến thắng của Nhật Bản trong chiến tranh Nga – Nhật đã đưa lại cho Nhật
một vò thế hoàn toàn mới trên trường quốc tế và rất nhiều quyền lợi. Nhật chẳng
những vươn lên ngang hàng mà còn đánh bại một cường quốc Châu Âu là Nga, và lần
đầu tiên buộc một cường quốc nổi tiếng châu Âu phải kí một hiệp ước bất bình đẳng
với mình.
Từ đó, Nhật Bản nghiễm nhiên gia nhập vào hàng ngũ các cường quốc trong
cuộc đấu tranh phân chia lại thò trường thế giới và đòa vò của Nhật Bản đặt biệt cao
trên trường quốc tế, trở thành người “anh cả da vàng” đã “rửa nhục” cho người châu Á,
vốn từ lâu bò châu Âu đè nén áp bức.


_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 4
II. Quan hệ Mỹ – Nhật giai đoạn đầu thế kỷ XX đến kết thúc chiến
tranh thế giới thứ nhất
Trái với các tính toán và ý đồ của cả Anh Mỹ khi giúp đỡ Nhật Bản trong
chiến tranh Nga –Nhật, việc củng cố vò trí của Nhật ở châu Á không phải là Nhật sẽ
trả ơn Anh, Mỹ bằng cách mở cửa Mãn Châu và Triều Tiên ,ngựợc lại Nhật tích cực
độc quyền hoá những thò trường đã chiếm được và tích cực bành trướng ra nhiều hướng
khác thuộc phạm vi ảnh hưởng của Anh, Mỹ,trực tiếp trở thành đối thủ cạnh tranh
nguy hiểm với các cường quốc khác. Hành động và âm mưu của Nhật làm cho quan hệ
đồng minh của Anh,Mỹ với Nhật bắt đầu lạnh nhạt. Chính sách của Mỹ đối với Nhật
dần dần trở nên là một chính sách thù đòch công khai ,còn Anh vẫn giữ quyền của
mình không giúp đỡ Nhật bằng lực lượng vũ trang trong trường hợp Nhật có chiến
tranh với Mỹ. Trước tình hình đó Nhật Bản tìm cách xích lại với Nga .Tháng 7-1907,
một hiệp ước mới giữa Nga và Nhật đã được ký kết ,trong đó có những điều khoản bí
mật về phân chia ảnh hưởng giữa hai nước ở Mãn Châu, Trung Quốc.
Vì thế, vào năm 1909. khi Mỹ đưa ra dự án “quốc tế hóa” các tuyến đường sắt
ở Mãn Châu thì cả Nga và Nhật đề lên tiếng chống lại Mỹ. Sau đó năm 1912, Nhật
Nga còn kí với nhau những hiệp ước khác để một lần nữa xác đònh lại phạm vi ảnh
hưởng và bảo vệ quyền lợi của cả Nhật, Nga ở Mãn Châu, Trung Quốc nhằm chống
lại những tham vọng của Mỹ ở khu vực này.
Quan hệ Mỹ – Nhật giai đoạn này nổi rõ liên quan đến vấn đề Trung Quốc.
Sau cách mạng Tân Hợi (1913), chính quyền Viên Thế Khải thiết lập ở Trung Quốc.
Mỹ, Nhật và một số nước phương Tây công nhận chính phủ của Viên và cho vay 25
triệu bảng Anh để chống lại lực lượng cách mạng Trung Quốc.
Mỹ là một nước cộng hòa tư sản theo chế độ tổng thống chế, nhưng vì quyền
lợi ích kỷ của mình đã hết sức ủng hộ tham vọng ngông cuồng của Viên Thế Khải
muốn lên làm Hoàng đế, phục hồi nền quân chủ ở Trung Hoa. Mỹ đã hành động bất

chấp xu thế của lòch sử và sự tiến bộ của xã hội.
Mặc dù cuối cùng âm mưu giúp Viên Thế Khải thất bại, nhưng Nhật nhờ đó đã
giành được nhiều lợi ích ở Trung Quốc. Khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ
(1914-1918), Nhật đã thi hành chính sách lợi dụng thời cơ các nước châu u tư bản
đang vướng bận vào chiến tranh để tăng cường bành trướng theo kiểu “đục nước béo
cò”, mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở Trung Quốc, gây sức ép buộc Trung Quốc phải phụ
thuộc vào mình. Điều đó đã được một nhân vật trong chính phủ Nhật Bản I-nu-tê Ka-
ô-ren viết trong một bức thư gửi cho thủ tướng Nhật Bản rằng: “Họa loạn lớn ở châu
u lúc này là dòp trời cho để phát triển quốc vận của Nhật Bản trong thời kì “Tai Sô
dân chủ”.
Ngày 18-1-1915, chính phủ Nhật đã gửi cho Viên Thế Khải “21 điều yêu sách”
đòi Trung Quốc phải thực hiện với âm mưu là tiến dần đến biến Trung Quốc thành
thuộc đòa riêng của Nhật.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 5
Về phía Mỹ, chính quyền Mỹ cũng ra sức tuyên bố rằng, căn cứ vào quyền “ưu
đãi tối huệ quốc” mà Trung Quốc đã kí kết với Mỹ. Mỹ cũng có quyền được hưởng tất
cả các quyền lợi như Nhật Bản.

III. Quan hệ Mỹ – Nhật thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
(1919 –1939)
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt, quan hệ Mỹ – Nhật tiếp tục
diễn ra căng thẳng về vấn đề Trung Quốc và Viễn Đông trong hai hội nghò Véc –xây
(1919) và hội nghò Oa-sinh-tơn (1921-1922).
Yêu sách của Nhật đưa ra trong hội nghò Véc xây đòi Trung Quốc trao toàn bộ
bán đảo Sơn Đông cho Nhật. Điều này chẳng những vi phạm chủ quyền, lãnh thổ của
Trung Quốc mà còn đụng chạm tới quyền lợi của Anh, Pháp, Mỹ tại đây. Vì vậy, trong
thời gian đầu, Mỹ đã kiên quyết chống lại đòi hỏi này của Nhật Bản, dùng chính sách
“mở cửa” để đạt quyền ngang hàng với Nhật ở Trung Quốc. Phía Nhật đã cương quyết

tuyên bố rằng, nếu bán đảo Sơn Đông không được giải quyết theo yêu cầu của Nhật
đã đưa ra, thì Nhật Bản sẽ không ký vào hòa ước Véc xây.
Lúc đó, các cường quốc phương Tây đang bất đồng với nhau trong vấn đề Đức,
vì thế Mỹ thấy tốt nhất là tạm thời cấu kết với Nhật, trao bán đảo Sơn Đông cho Nhật.
Tuy nhiên, cuối cùng hòa ước Véc xây vẫn không giải quyết được những mâu thuẫn
giữa các nước đế quốc nói chung và Mỹ – Nhật nói riêng.
Phía Mỹ đặc biệt bất bình lo ngại trước ảnh hưởng ngày cành tăng của Nhật ở
Trung Quốc. Mỹ tìm cách phá vỡ vò trí lãnh đạo của Nhật ở thò trường rộng lớn này
bằng việc đưa ra kế hoạch lập một ngân hàng hỗn hợp có tính chất quốc tế nắm độc
quyền các khoản vay của Trung Quốc. Kết cục, kế hoạch dùng sức mạnh về tài chính
để đánh bại Nhật ở Trung Quốc của Mỹ không thành hiện thực. Nhật Bản đã giành
được nhiều vò trí chiến lược quan trọng ở Trung Quốc và Thái Bình Dương hơn Mỹ.
Quan hệ Mỹ – Nhật cũng rất căng thẳng trong khu vực châu Á thuộc miền Viễn
Đông của nước Nga Xô Viết. Kế hoạch của Nhật nhằm thiết lập quyền thống trò hoàn
toàn ở nước Cộng hòa Viễn Đông gây nên mối lo ngại sâu sắc từ phía Mỹ. Trong khi
Mỹ vừa muốn Nhật bóp chết chính quyền Xô Viết ở đây thì cũng vừa lo ngại ảnh
hưởng của Nhật sẽ tăng lên ở Viễn Đông, vì thế Mỹ tìm cách thâm nhập về kinh tế
vào nước Cộng hòa Viễn Đông.
Trong hội nghò Oasinhtơn (11-1921), lợi thế mà Nhật có được nhờ Hiệp ước
Liên minh Anh-Nhật từ 1902 đã bò thủ tiêu. Kết quả cuối cùng của cuộc đàm phán tại
Oasingtơn là thắng lợi của Mỹ trong quan hệ với Nhật Bản.
Tháng 4-1927, nội các của Nhật Bản có sự thay đổi, tướng Tanaka lên làm thủ
tướng đã theo đuổi một chính sách bành trướng công khai vạch ra kế hoạch và tham
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 6
vọng của Nhật chinh phục cả Trung Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ và khẳng đònh rằng một
cuộc chiến tranh giữa Nhật với Liên Xô và Mỹ là không thể tránh khỏi. ng ta đề nghò
phải dùng chiến tranh để xóa bỏ những “bất công” mà Nhật phải chòu đựng trong các
Hiệp ước Washinton (1921-1922).

Hành động theo hướng này, trước hết Nhật công khai đòi xem xét lại vấn đề
về lực lượng hải quân do Hiệp ước Washinton quy đònh (6-2-1922). Quan điểm chủ đạo
của Nhật đòi được quyền bình đẳng với Anh, Mỹ về lực lượng hải quân, thậm chí còn
mưu toan đạt được ưu thế về vấn đề này ở Viễn Đông. Tuy nhiên với khả năng thực tế
của Nhật chưa cho phép xây dựng một lực lượng hải quân lớn như Anh, Mỹ nên Nhật
chỉ đưa ra yêu sách có một hạm đội bằng 70% của Mỹ, tức là vượt 10% so với mức
quy đònh trước đây.
Ngày 22-4-1930, hội nghò London đã đi đến kí kết hiệp đònh về hạn chế lực
lượng hải quân giữa tam cường Anh, Mỹ , Nhật như sau:

Tên nước
Trọng tải (ngàn tấn)

Tuần dương hạm Khu trực hạm Tầu ngầm
ANH 339,0 150,0 52,7
MĨ 323,0 150,0 52,7
NHẬT 209,0 105,0 52,7

Mặc dù Anh –Mỹ đã nhượng bộ ,nhưng các tướng lónh và giới quân nhân Nhật
vẫn không thoả mãn với kết quả đó. Vì vậy trong các phiên họp trù bò cho hội nghò
mới về hạn chế lực lượng hải quân ở London tháng 10-1934, Nhật kiên quyết đòi hỏi
phải được ngang bằng với Anh –Mỹ về hải quân và thủ tiêu hiệp ước Washinton về
vấn đề này.
Mỹ bác bỏ những yêu sách trên của Nhật Bản, Nhật đã đưa ra tuyên bố rằng kể
từ ngày 31-12-1936, Nhật sẽ không bò ràng buộc bởi các thỏa thuận Washinton nữa.
Việc chạy đua vũ tranh chuẩn bò cho một cuộc chiến tranh lớn ở Nhật ngày càng mạnh
hơn.
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 nổ ra trong lòng thế giới tư bản dẫn
đến quá trình phát xít hóa ở Nhật Bản gắn liền với cuộc chiến tranh xâm lược bành
trướng ra bên ngoài và mục tiêu trước hết là Trung Quốc. Nhật muốn độc chiếm thò

trường Trung Quốc cạnh tranh với Mỹ lúc này đã vươn lên vò trí hàng đầu trong lónh
vực buôn bán với Trung Quốc.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 7
Việc Nhật Bản ngang nhiên mở rộng chiến tranh xâm lược Trung Quốc là vi
phạm trắng trợn đến hệ thống Vécxây – Oasinhtơn, đụng chạm đến quyền lợi của Mỹ
làm cho mâu thuẫn Mỹ – Nhật Bản căng thẳng hơn.
Thế nhưng, vì nuôi hy vọng sẽ thúc đẩy Nhật Bản chóa mũi kiếm chiến tranh
chống Liên Xô do đó Mỹ đã nhượng bộ Nhật Bản và năm 1938 viện trợ cho Nhật 125
triệu đôla dưới dạng cho vay và tín dụng.
Hậu quả của những chính sách khuyến khích chủ nghóa phát xít gây chiến tranh
chống Liên Xô đã dẫn đến tai hại khôn lường cho nhân loại.
Nhật Bản đã tuyên bố gạt ảnh hưởng Anh, Pháp, Mỹ ra khỏi Châu Á. Tháng 5-
1939, Nhật còn buộc Mỹ phải thừa nhận “quyền của Nhật Bản” quản lí các tô giới
nước ngoài ở Thượng Hải là những nơi Mỹ có nhiều quyền lợi đầu tư nhất.
Đến lúc đó Mỹ mới gây áp lực với Nhật quyết đònh hủy bỏ hiệp ước thương mại
Nhật – Mỹ đã kí từ 1911, gây cho Nhật khó khăn trong việc buôn bán, xuất nhập khẩu
chủ yếu nhờ vào quan hệ với Mỹ. Mặc dù vậy, Mỹ vẫn không ngừng tiếp tục giúp đỡ
cho Nhật Bản xây dựng những ngành công nghiệp chiến tranh mới, như cung cấp tranh
thiết bò cho công ti cổ phần về luyện thép Nhật Bản – Mãn Châu nằm dưới sự kiểm
soát của Côngxoóc Xio “A-u-ka-oa” của Nhật…
Nhật Bản quyết tâm thực hiện giấc mộng “đại Đông Á”, là một thách thức to
lớn đối với Mỹ, đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi của Mỹ không chỉ ở Trung Quốc
mà còn cả ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Mặc dù, Mỹ đã cố gắng đàm phán
dàn xếp với Nhật trong những cuộc thương lượng bí mật bắt đầu từ năm 1940, nhưng
do những tham vọng quá lớn của Nhật Bản nên các cuộc đàm phán bò thất bại.
Giới hiếu nhất ở Nhật đòi hỏi phải tấn công ngay xuống phía Nam mà không
cần tính toán đến khả năng can thiệp quân sự của Mỹ. Ngày 6-9-1941, Nhật đã đi đến
quyết đònh quan trọng là nếu Mỹ không nhượng bộ thì Nhật sẽ tuyên bố chiến tranh

với Mỹ. Mỹ gây áp lực lại bằng cách cấm xuất khẩu dầu mỏ từ Mỹ sang Nhật, giáng
một đòn rất mạnh vào Nhật Bản.
Quyết đònh trên đã gây ra một cuộc khủng hoảng mới trong quan hệ Nhật –
Mỹ. Cuối cùng, đã đi đến chấm dứt đàm phán ngoại giao giữa Nhật và Mỹ.
Kết cục, ngày 7-12-1941, không quân và hải quân Nhật Bản dưới sự chỉ huy
của đô đốc Ya-ma-mô-tô đã mở cuộc tấn công dữ dội vào Trân Châu cảng, là căn cứ
chủ yếu của hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ trên quần đảo Haoai, chính thức mở
đầu cho cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.
Ngày 8-12-1941, Nhật chính thức tuyên chiến với Mỹ. Quốc hội Mỹ ra quyết
đònh tuyên chiến với Nhật.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản đầu hàng Đồng minh không
điều kiện. Quan hệ Mỹ Nhật từ đó bước sang trang mới.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 8
Tóm lại, quan hệ Mỹ – Nhật thời kì trước chiến tranh thế giới thứ hai từ chỗ
bất bình đẳng theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé” chuyển sang quan hệ đối đầu căng thẳng
từ khi Nhật mạnh lên, đứng ngang hàng với các cường quốc lớn trên thế giới.
Cả Mỹ và Nhật đều có tham vọng lớn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
không ai chòu nhường ai vì lợi ích của mỗi bên ở khu vực này. Việc phát xít Nhật thất
bại trong chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo ra một bước ngoặt mới trong quan hệ Nhật
– Mỹ.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 9

CHƯƠNG II
QUAN HỆ MỸ – NHẬT BẢN
THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH (1945-1990)


I. Quan điểm của Mỹ trong việc giải quyết “vấn đề Nhật Bản” sau
chiến tranh thế giới thứ II (1945-1949)
Sau chiến tranh chống Nhật chấm dứt và Nhật Bản phải kí hiệp ước đầu hàng
Đồng minh vô điều kiện, thì “vấn đề Nhật Bản” đã hình thành lên cuộc đấu tranh giữa
hai khuynh hướng chủ yếu – một bên là quan điểm của Liên Xô về việc tuân thủ
những nghò quyết Pốtxđan dân chủ hóa triệt để Nhật Bản, và một bên là quan điểm
của Mỹ giải quyết “vấn đề Nhật Bản” theo các chính sách riêng của mình.
Ngay từ đầu, Mỹ đã bác bỏ đề nghò hợp lí của Liên Xô về việc cùng tham gia
chiếm đóng Nhật Bản (ở nữa phía Bắc đảo Hốc-cai-đô). Việc Mỹ giành được quyền
một mình chiếm đóng Nhật Bản đã tạo điều kiện quan trọng để Mỹ theo đuổi những ý
đồ riêng trong việc giải quyết “vấn đề Nhật Bản” sau chiến tranh.
Ngày 23-9-1945, Oasinhtơn đã cho công bố một Bò vong lục nhan đề “Những
nguyên tắc cơ bản trong chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản trong thời kì đầu chiếm
đóng”. Trong tài liệu này, bên cạnh những lời tuyên bố về việc thủ tiêu chủ nghóa
quân phiệt Nhật Bản, dân chủ hóa đời sống Nhật Bản bằng những cải cách, Mỹ còn
thể hiện rõ ý đồ riêng rẽ một mình nắm quyền chi phối Nhật. Bò vong lục của Mỹ nêu
rõ, việc chiếm đóng và kiểm soát Nhật Bản sẽ dựa trên những cơ sở tham khảo ý kiến
của các cường quốc đồng minh, nhưng “trong trường hợp có những bất đồng giữa các
đồng minh với nhau, thì chính sách của Mỹ sẽ đóng vai trò quyế đònh”.
Tất nhiên chính phủ Liên Xô không thể tán thành với một nguyên tắc như vậy.
Ngay từ hôm sau khi tuyên bố Bò lục vong của Mỹ, chính phủ Liên Xô đã gửi tới Hội
đồng ngoại trưởng của các cường quốc đề nghò việc thành lập một hội đồng kiểm soát
đối với Nhật gồm đại biểu tứ cường: Liên Xô, Anh, Mỹ và Trung Quốc. Sau đó Liên
Xô cũng đề nghò thành lập một y ban tư vấn đồng minh bao gồm đại biểu của tứ
cường Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc và các nước đã tham gia chiến tranh chống
Nhật. Mục đích của Liên Xô là nhằm thiết lập một cơ chế liên minh đặc biệt, nhằm
giải quyết bằng con đường tập thể “Vấn đề Nhật Bản”, biến Nhật Bản thành một
quốc gia hòa bình dân chủ, đảm bảo an ninh Viễn Đông, không để cho Mỹ một mình
độc quyền lũng đoạn ở Nhật.
Mỹ cũng lại không tán thành những đề nghò này của Liên Xô, đơn phương

tuyên bố thành lập Ủy ban tư vấn Viễn Đông bao gồm đại biểu 9 nước tham gia kí kết
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 10
văn kiện về sự đầu hàng của Nhật Bản ngày 2-9-1945 (Mỹ, Liên Xô, Anh, Trung
Quốc, Pháp, Niu Di-lân, Canada, Hà Lan và Otxtrâylia). Ủy ban này đã được tuyên bố
thành lập ở Oasinhtơn vào tháng 10-1945, theo sự xác đònh của Mỹ chỉ là có chức năng
tư vấn đối với bộ chỉ huy chiếm đóng ở Mỹ. Liên Xô đã phản đối bằng việc cự tuyệt
tham gia vào hoạt động của ủy ban này.
Về phía Mỹ, sau 1945, Mỹ âm mưu duy trì một nước Nhật yếu ớt cả về kinh tế,
chính trò và quân sự, để Nhật không trở thành đối thủ cạnh tranh nguy hiểm của Mỹ ở
Châu Á và Thái Bình Dương, như đã xảy ra trước và trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Chủ trương này của Mỹ được thể hiện qua một loạt các chỉ thò của tướng Mác c – tơ,
như “Về việc cấm các tổ chức độc quyền”, “về thủ tiêu các trung tâm kinh tế cực
hữu”…
Theo tinh thần này, cho đến năm 1947 có 47 tổ chức lũng đoạn – “Đai-bát-su”
bò giải tán. Hai tập đoàn lớn nhất là Mít-sui và Mít-su-bi-xi đã bò phân tán thành 240
công ti riêng biệt. Theo sắc lệnh của cơ quan chiếm đóng ngày 26-2-1946 về việc
thanh lọc ra khỏi các cơ quan xã hội và các tổ chức chính trò các phần tử trước đây có
liên quan tới các hoạt động phát xít và quân phiệt, hơn 200.000 người bò loại khỏi các
hoạt động chính trò và xã hội. Các tội phạm chiến tranh của Nhật Bản bò xét xử tại tòa
án quân sự quốc tế ở Tokyo tháng 1-1946.
Tóm lại, Nhật bại trận trong thế chiến lần hai, đã mở ra một thời kỳ mới trong
quan hệ Mỹ – Nhật. Kết thúc chiến tranh cũng có ý nghóa là mở đầu thời kỳ chiếm
đóng của Mỹ ở Nhật Bản. Điều này phản ánh đúng thực trạng của kẻ bại trận và thắng
trận; Nhật bò ràng buộc bởi nhiều điều khoản quốc tế và bò tiêu điều kiệt quệ kinh tế
buộc phải phụ thuộc vào Mỹ và chấp nhận sự đảm bảo an ninh của Mỹ để khôi phục
và phát triển.
Còn về phía Mỹ, chính sách trong quan hệ với Nhật, bộc lộ âm mưu bá chủ
toàn cầu trong chiến tranh lạnh của Mỹ, trong đó Nhật, Châu Á, Thái Bình Dương là

một mắt xích quan trọng.

II. Quan hệ Mỹ Nhật giai đoạn đầu thập niên năm mươi đến kết thúc
chiến tranh lạnh
1. Sự ra đời Liên minh Mỹ – Nhật
Sau khi chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc thất bại, nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa ra đời, Mỹ lại càng ráo riết về vấn đề kí kết hòa ước với Nhật Bản
nhằm mục đích biến Nhật thành một “pháo đài” chống lại chủ nghóa cộng sản.
Mỹ tìm mọi cách né tránh việc kí hòa ước với Nhật trong khuôn khổ của hội
đồng ngoại trưởng tứ cường vì sợ vấp phải sự phản đối của Liên Xô trong việc thực
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 11
hiện các ý đồ riêng rẽ của mình. Mỹ đặt vấn đề kí hòa ước với Nhật Bản xuất phát từ
quan điểm “chiến tranh lạnh” của Mỹ.
Âm mưu của Mỹ là biến Nhật thành một đồng minh cơ bản, một khâu chủ chốt
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời vẫn
tiếp tục khống chế được Nhật Bản cả về chính trò – kinh tế – quân sự trong quỹ đạo
của mình.
Ngày 29-3-1951, Mỹ gửi cho các nước thành viên Ủy ban Viễn Đông bản dự
thảo hòa ước với Nhật Bản mà không hề tham khảo các bên quan tâm. Liên Xô đề
nghò phải đảm bảo việc phi quân phiệt hóa, dân chủ hóa Nhật Bản, hạn chế quy mô
lực lượng vũ trang của Nhật, giải quyết cho việc phát triển các ngành kinh tế dân sự và
ngoại thương của Nhật.
Ngày 4-9-1951, Mỹ triệu tập hội nghò San Franxitxcô với sự tham gia của đại
biểu 52 nước thảo luận vấn đề kí hòa ước với Nhật Bản.
Liên Xô phản đối nội dung của hòa ước và từ chối kí kết hòa ước này. Liên Xô
xem đó là một sự thỏa thuận riêng của chính phủ Mỹ với chính phủ Nhật Bản vì dự
thảo hòa ước do Mỹ đưa ra mâu thuẫn với các quyết đònh mà các nước Đồng minh đã
thỏa thuận trước đây về việc chống lại việc khôi phục trở lại của chủ nghóa quân phiệt

Nhật và có mưu toan củng cố một cách không hợp pháp sự có mặt quân đội nước ngoài
ở Nhật.
Kết quả, ngày 8-9-1951, hòa ước San Franxitxco được kí kết gồm 27 khoản,
được trình bày trong 7 phần. Trong phần C điều 2 viết: Nhật Bản từ chối tất cả mọi
quyền lợi và tham vọng của mình đối với các đảo Cu-rin và với các phần lãnh thổ
thuộc đảo Xa-kha-lin cũng như các đảo khác thuộc về Xa-kha-lin, và chủ quyền đối
với chúng. Nhật đã có được theo hiệp ước Pôt-xmao ngày 5-9-1950. Nhưng trong hòa
ước lại không chỉ ra rằng, phần phía nam Xa-kha-lin và các đảo Ku-rin được trả về
cho Liên Xô, như điều đó đã được quy đònh bởi các hiệp ước trước đây của các cường
quốc đồng minh.
Theo hòa ước này, tình trạng chiến tranh của Nhật với Liên Xô, Trung Hoa và
một số nước khác vẫn chưa chấm dứt trên tư cách pháp lí; vì thế trên phương diện
pháp quyền, hòa bình vẫn chưa hoàn toàn được khôi phục; các quan hệ giữa Nhật với
nhiều nước Châu Á khác chưa được giải quyết; các vấn đề lãnh thổ cũng không được
xác đònh được rõ ràng. Hòa ước còn phê chuẩn việc ở lại vô thời hạn của quân đội Mỹ
ở Nhật Bản.
Với việc kí hòa ước San Franxitxco Mỹ đã đạt được mục đích riêng của mình,
nó mở đường cho Mỹ và Nhật đi đến kí kết một loạt những hiệp ước song phương
khác, cụ thể:
- Ngay trong ngày 8-9-1951, chỉ năm giờ sau khi kí hòa ước trên Mỹ đã kí với
Nhật Bản một hiệp ước rất quan trọng khác đó là Hiệp ước an ninh Mỹ –
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 12
Nhật. Hiệp ước này trao cho Mỹ quyền duy trì quân đội của mình ở Nhật
Bản với sứ mệnh “đảm bảo hòa bình và an ninh ở Biển Đông và an ninh
của Nhật Bản”; Mỹ còn nhận được quyền thiết lập các căn cứ của Mỹ ở
Nhật, tiến hành các hoạt động quân sự ở biển Đông và Đông Nam Á; Mỹ
còn được sử dụng các đảo của Nhật như là các bàn đạp quân sự cơ sở.
- Ngày 28-2-1952, Mỹ lại kí với Nhật hiệp ước hành chính thực ra là củng cố

những đặc quyền của quân đội Mỹ cùng với cơ sỡ quân sự mà Mỹ sử dụng
trong thời gain chiếm đóng.
Ví dụ theo điều 9 của Hiệp ước này quy đònh Mỹ có quyền duy trì trên lãnh
thổ Nhật quân đội của mình và có quyền đưa vào Nhật bất kì loại vũ khí
nào, kể cả vũ khí nguyên tử.
- Ngày 26-7-2952, Mỹ lại kí với Nhật một hiệp ước bổ sung về sử dụng lãnh
thổ: Mỹ được trao tới 612 căn cứ và khu vực trong đó có 300 khu vực được
sử dụng vô thời hạn. Quân Mỹ còn được nhận 18 khu vực khác để tiến hành
các cuộc tập trận và 35 sân bay cùng các hải cảng, xí nghiệp, bệnh viện
quân sự khác
Hệ thống các hòa ước trên bắt đầu có hiệu lực từ 28-4-1952, và đi vào lòch sử
với cái tên gọi “Hệ thống San Franxitxco”â, đánh dấu sự ra đời của Liên minh Mỹ –
Nhật Bản.
Với hệ thống hoà ước San Franxítxcô, cơ sở pháp lí nền tảng cho liên minh
Nhật – Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã được thiết lập.
Về phía Nhật, đã có những cố gắng để sử dụng tối đa mối liên minh Nhật – Mỹ
cho việc củng cố phát triển kinh tế chính trò của mình, còn về phía Mỹ là người đóng
vai trò chủ đạo chi phối. Tuy nhiên, sự liên minh này hoàn toàn không thủ tiêu được
những mâu thuẫn tồn tại và phát triển giữa hai bên.
Liên minh chính trò, quân sự Nhật-Mỹ nếu nhìn từ bình diện quan hệ quốc tế
mà xét thì đó là những đảm bảo điều kiện thuận lợi nhất để Nhật khôi phục và phát
triển kinh tế của mình trong thời gian tiếp theo.

2. Liên minh an ninh quân sự giữa Mỹ và Nhật Bản trong chiếntranh
lạnh
Học thuyết quân sự của Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh là:
- tìm mọi cách giành ưu thế quân sự trên phạm vi toàn cầu
- bao vây cô lập Liên Xô và các nước xã hội chủ nghóa
- xây dựng các khối quân sự để vừa kiểm soát các đồng minh ,vừa tạo cơ sở
cho hoạt động quân sự khi cần thiết.

_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 13
Ở Tây u Mỹ xây dựng khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Ở Thái Bình Dương, Mỹ coi việc xây dựng Hiệp ước phòng thủ với Nhật Bản
lâu dài là hết sức cần thiết ,thậm chí coi Nhật bản như một NATO phương
Đông .
Mỹvới Nhật đã thỏa thuận kí hiệp ước phòng thủ chung 1960 tại Oasinhton.
Hiệp ước nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc có mặt dài hạn của các căn cứ quân
sự Mỹ ở Nhật. Hơn nữa hàng năm, Mỹ muốn kiểm soát trực tiếp và kiềm chế
khả năng quân sự của Nhật Bản
Việc kí hiệp ước này cả hai nước đều xuất phát từ những mục đích khác nhau:
Về phía Nhật
- Thứ nhất, sử dụng chiếc ô an ninh của Mỹ ,Nhật coi nó như một sự đảm bảo
an ninh từ xa nếu bò tấn công . Sự lo sợ của Nhật bản trong thời kỳ này là khả năng
quốc phòng của Liên Xô ngày càng được tăng cường với tiềm năng về vũ khí hạt nhân
của nước này buộc Nhật phải dựa vào Mỹ trong lónh vực phòng thủ.
- Thứ hai, Ký hiệp ước này với Mỹ , Nhật sẽ có thêm khoản chi phí quốc
phòng lớn, giúp Nhật chỉ tập trung vào một mối quan tâm chủ yếu là phát
triển kinh tế.
- Mặt khác , Thời kỳ đầu sau chiến tranh Nhật chưa đủ mạnh để mặc cả với
Mỹ, Nhật ở vào vò trí phụ thuộc chấp nhận
Thực ra, trong quan hệ an ninh quân sự Mỹ ,Nhật thập niên 50-60 , mang tính
phòng thủ nhiều hơn là vấn đề liên kết chiến lược quân sự của quân đội hai nước.
Trên thực tế kể từ 1964 trở đi, viện trợ quân sự của Mỹ cho Nhật Bản đã chấm dứt,
Mỹ cho rằng Nhật cần phải tăng thêm chi tiêu quân sự của mình và phải có những
đóng góp khác vào việc “bảo vệ thế giới tự do”. Mỹ nhìn thấy ở Liên minh Tôkiô –
Sêun khả năng đặt lên vai Nhật một phần gánh năng về viện trợ cho Cộng hòa Triều
Tiên.
Bước sang những năm 70, đặc biệt là sau khi Mỹ sa lầy trong chiến tranh Việt

Nam,Hiệp ứơc an ninh Mỹ – Nhật có ghi nhận bổ sung về sự cần thiết phối hợp hành
động quân sự của cả hai nước, song trên thực tế lực lượng phòng vệ Nhật Bản dường
như hoạt động độïc lập với quân đội Mỹ. Chính điều này đã tạo cơ hội cho Nhật Bản
không tham gia trực tiếp hoạt động quân sự với quân đội Mỹ trong khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương.
Một điểm mốc quan trọng mà nhiều nhà phân tích quân sự coi là bước chuển
gai đoạn trong quá trình quan hệ an ninh quân sự hai nước. Đó là việc hình thành
“phương pháp chỉ đạo” vào năm 1978. Đây là phương hướng hợp tác quân sự do sự
phối hợp giữa bộ quốc phòng Mỹ và cục phòng vệ Nhật Bản tạo ra.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 14
Sau thất bại ở chiến tranh Việt Nam, Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam đã làm
cho Nhật Bản lo lắng về sự lớn mạnh của khối Xô viết điều đó thúc đẩy Nhật Bản
phải tính đến chương trình hợp tác quân sự với Mỹ. Tháng 8 – 1975, hai bên đã đi đến
thỏa thuận mở rộng và củng cố quan hệ quân sự giữa quân đội hai nước.
Tới năm 1978, qua nhiều lần tiếp xúc thương lượng Mỹ, Nhật bản đã công bố
bản phương hướng hợp tác quân sự Mỹ – Nhật trong giai đoạn mới. Với bản phương
hướng này sự liên kết quân sự giữa hai nước nâng lên một bước mới cả về quy mô và
chất lượng. Nếu trước đây mức độ liên kết chưa mang tính hệ thống như các nước trong
khối NATO thì từ đó hợp tác trong lónh vực quân sự Mỹ – Nhật đã mang tính phân
công trách nhiệm.
Sự liên minh này một mặt tạo cơ hội cho việc đảm bảo cho lợi ích của Mỹ ở
Nhật và khẳng đònh với các đồng minh rằng Mỹ sẽ tiếp tục có mặt ở Châu Á, thậm chí
còn gắn bó hơn trước chiến tranh Việt Nam vì có sự phối hợp toàn diện của đồng minh
Nhật Bản. Điều đó còn tạo ra cơ sở pháp lí trong quan hệ song phương cho sự tham gia
đóng góp về quân sự của Nhật đối với chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Sang đầu những năm 80, khi Liên Xô tăng cường khả năng chiến đấu của các
lực lượng hải quân và không quân ở Tây Bắc – Thái Bình Dương thì Mỹ, Nhật đã tính
đến một khả năng phòng thủ mới và tích cực hiện đại hóa lực lượng hải quân của Nhật

và kéo theo sự phối hợp tác chiến giữa lực lượng bộ binh của Nhật với lực lượng thủy
đánh bộ Mỹ.
Nói tóm lại, hợp tác về an ninh quân sự Mỹ – Nhật trong thời gian này đã tìm
được tiếng nói chung, hàn gắn được những lỗ hổng vốn tồn tại trong nhiều năm giữa
những điều khoản của hiệp ước và những hoạt động cụ thể trong sự phối hợp của lực
lượng quân sự hai bên.
Vào những năm cuối của thập niên 80, Nhật Bản đã cam kết với Mỹ tăng
cường ngân sách quốc phòng, thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc phòng
thủ xa trên dưới 1000 dặm kể từ bờ biển của Nhật.
Chính phủ Nhật Bản còn tài trợ cho chương trình nghiên cứu quốc phòng trung
hạn 5 năm với tổng số tiền 18,4 ngàn tỉ yên, phối hợp với Mỹ sản xuất các loại vũ khí,
và thỏa thuận sẽ tham gia vào chương trình chiến tranh giữa các vì sao của My
õ.






_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 15

Biểu đồ so sánh về chi phí quốc phòng Mỹ-Nhật từ 1986 đến 1991 (tỷ đô la)

24.77
265.48
26.05
273.97
27.41

281.94
29.04
294.88
30.81
289.76
32.49
287.45
0
50
100
150
200
250
300
350
1986 1987 1988 1989 1990 1991

(Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu của bộ quốc phòng Hoa Kì và quốc phòng vệ Nhật)
Ghi chú:- các số liệu hàng trên là chi phí quốc phòng của Mỹ
-các số liệu ở hàng dưới là chi phí quốc phòng của nhật Bản.
Như vậy, quan hệ an ninh quân sự Mỹ – Nhật càng về giai đoạn cuối của chiến
tranh lạnh càng được nâng lên một tầm mới và ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng
của Nhật trong việc đóng góp vào chiến lược toàn cầu của Mỹ. Có nghóa là, Nhật Bản
thật sự trở thành một NATO phương Đông.

3. Quan hệ kinh tế Nhật – Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh
Sau chiến tranh thế giới thừ hai,nền kinh tế nhật Bản bò kiệt quệ và lâm vào
tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng : năng lượng thiếu , lạm phát tăng vọt thất
nghiệp tràn lan ,do đó kinh tế Nhật phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Mỹ.
Tháng 12-1948, chính phủ Mỹ ra lệnh cho quân đội chiếm đóng bắt đầu ngay

không chậm trể việc thực hiện ổn đònh nền kinh tế Nhật Bản theo kế hoạch mà Mỹ
vạch ra. Trong bức thư ngày 19-12-1948, gửi cho chính phủ Nhật, tướng Mác ctơ
công khai trình bày những điều kiện trong việc khôi phục nền kinh tế của Nhật Bản:
bằng con đường can thiệp có ý nghóa tích cực của một cường quốc bên ngoài có thể
nhanh chóng hơn bao giờ hết giải quyết được nhiều trở ngại liên quan tới những xung
đột chính trò nặng nề, hành động của Mỹ có liên quan tới vấn đề viện trợ và cấp vốn
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 16
cho việc khôi phục, những công việc trong tương lai sẽ phụ thuộc vào sự “tiến bộ” mà
nhân dân Nhật Bản đặt được trên con đường thực hiện những mục đích đã nêu ra điều
đó yêu cầu một sự đổi mới tư duy và đổi mới hành động của người Nhật, yêu cầu tăng
cường chế độ tiết kiệm và từ bỏ một số những đặc quyền và sự tự do vốn thuộc vế một
xã hội tự do.
Điều đó chứng tỏ lúc ban đầu chính sách của Mỹ là không hề quan tâm đến sự
khôi phục kinh tế của Nhật, họ cho rằng công việc đó thuộc về người Nhật. Thậm chí
Mỹ còn thi một chính sách nghiệt ngã như đòi hỏi nhiều về bồi thường chiến tranh
hoặc chủ trương thủ tiêu các tổ chức độc quyền lớn ví dụ giải thể các tập đoàn
Zaibatsu, thực hiện đạo luật cải cách ruộng đất nhằm nâng cao sản xuất nông nghiệp,
khắc phục nạn khủng hoảng lương thực thực phẩm ở Nhật lúc đó, thế nhưng không đặt
ra nhiệm vụ thủ tiêu những tàn tích phong kiến ở nông thôn, không cải thiện đời sống
của phần lớn nông dân Nhật Bản. Liên Xô đã cực lực lên án đạo luật này và đưa ra
một đạo luật cải cách ruộng đất khác. Dự án của Liên Xô chủ trương tòch thu toàn bộ
các ruộng đất cho thuê và chuyển vào tay những người đang canh tác, thủ tiêu những
tàn tích phong kiến, nâng cao đời sống nhân dân. Dự luật cải cách của Liên Xô không
được thông qua do sự chống đối của Mỹ nhưng đã được công bố rộng rãi trên báo chí
Nhật Bản, được dư luận nhân dân Nhật ủng hộ và đã có ảnh hưởng lớn đến vấn đề cải
cách ruộng đất ở Nhật Bản. Kết quả là chính phủ trưng thu ruộng đất của đòa chủ vắng
mặt và nông dân có thể mua lại ruộng và trở thành chủ sở hữu.
Từ mùa hè 1947, với tình hình chiến tranh lạnh ngày càng gay gắt giữa hai siêu

cường, chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản có sự thay đổi với những nới lỏng hơn, chủ
trương biến Nhật Bản trở thành một đồng minh chiến lược đủ sức làm đối trọng với
Trung Hoa và cách mạng ở Châu Á, Mỹ gia tăng viện trợ đầu tư cho Nhật, giảm bớt
tiền bồi thường chiến tranh, nới lỏng đạo luật thủ tiêu sự tập trung quá mức sức mạnh
kinh tế (chỉ còn áp dụng với 18 công ti).
Mỹ viện trợ và cấp vốn cho việc khôi phục kinh tế , chính phủ Mỹ yêu cầu
chính phủ nhật mở rộng các lónh vực hoạt động của người nước ngoài ở Nhật, bảo đảm
tự do đầu tư nước ngoài , trao cho người nùc ngoài quyền tự do đi lại và có quyền sở
hữu ở Nhật.
Tháng 3-1949, nhà tài chính nỗ tiếng của Mỹ, giám đốc ngân hàng Đi Troi
Tđốtgiơ vạch ra kế hoạch “ổn đònh và độc lập hoá” nền kinh tế nhật Bản .sau đó Mỹ
cho tiến hành một loạt các bòên pháp như cải cách hình thức thuế khoá ở Nhật,Mỹ cố
gắng khống chế tốc độ phát triển kinh tế trong quỹ đạo của họ, nhằm sử dụng Nhật
làm bàn đạp tấn công các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương .
Tính đến năm 1950, Mỹ đã đầu tư vào Nhật gần 14 tỷ USD. Đặc biệt, trong
cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, Nhật Bản với vai trò là căn cứ cơ sở phục vụ
cho “quân đội Liên hiệp quốc” do Mỹ đứng đầu , đã giúp cho kinh tế Nhật phát triển
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 17
nhờ các đơn đặt hàng của Mỹ và nhờ những khoản lợi thu được nhờ phục vụ cuộc
chiến tranh này.
Nhờ những yếu tố trên đã giúp cho nền kinh tế của Nhật đạt được sự tăng
trưởng cao trong những năm 1952 – 1973, trước sự ngạc nhiên của thế giới (tốc độ thần
kì), trung bình mỗi năm kinh tế tăng trưởng 10%. Về giá trò tuyệt đối, năm 1950, tổng
sản phẩm quốc dân của Nhật mới đạt 24 tỷ USD nhỏ hơn bất kì một phương Tây nào,
và chỉ bằng vài phần trăm so với tổng sản phẩm quốc dân của Mỹ. Tới năm 1968, sau
khi lần lượt vượt qua các nước tư bản phát triển như Canada, Pháp, Anh, Cộng hòa liên
bang Đức, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai sau Mỹ. Trong đầu thập niên
70, khi thế giới vấp phải cuộc khủng hoảng năng lượng, Nhật Bản đã kòp thời tự điều

chỉnh chiến lược của mình trong việc chuyển dòch cơ cấu kinh tế. Do đó, tuy tốc độ
phát triển giảm (1974-1991, kinh tế tăng trưởng bình quân 4%) nhưng Nhật Bản vẫn
đạt là nước đi đầu trong những ngành có hàm lượng cao về công nghệ và tư bản. Cụ
thể năm 1977, xe hơi của Nhật đã thay thế thép trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực
và đến 1980, Nhật trở thành nước sản xuất nhiều xe hơi nhất thế giới cạnh tranh quyết
liệt với ngành sản xuất ô tô của Mỹ. ODA của Nhật cũng tăng liên tục và trở thành
nước dẫn đầu thế giới vào năm 1991.
Trong bối cảnh xuất siêu tăng nhanh, dẫn đến mâu thuẫn mậu dòch Nhật Mỹ
lên đỉnh cao. Nhật đã điều chỉnh đồng yên (tăng giá vào tháng 9-1985). Chỉ trong hai
năm đồng Yên tăng từ 244 yên đến 160 yên /USD. Để đối phó với tình hình này từ
tháng 1-1986. Nhật liên tiếp giảm lãi suất và đưa ra chính sách kích thích tăng trưởng
bằng các kế hoạch chi tiêu công cộng. Kết quả thực hiện các chính sách kinh tế này
thúc đẩy kinh tế Nhật tăng trưởng mạnh trong thời gian từ 11-1986 đến 3-1991, dẫn
đến giá chứng khoán và giá đất tăng mạnh, thúc đẩy quá trình di chuyển nhiều cơ sở
sản xuất công nghiệp từ Nhật sang các nước Châu Á.
Tóm lại, quan hệ Nhật – Mỹ thời kì chiến tranh lạnh còn mang tính lệ thuộc
một chiều. Trong đó Nhật không có một chính sách đối ngoại độc lập mà là phụ thuộc
vào Mỹ. Nhờ chiếc ô đảm bảo an ninh của Mỹ, và trong thời kì dài, Tôkyô đã tập
trung vào phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 18

CHƯƠNG III
QUAN HỆ MỸ – NHẬT BẢN
SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY

I. Những biến đổi tình hình quốc tế
Cuối những năm 80 đầu thập niên 90, tình hình quốc tế diễn biến khá phức tạp
ảnh hưởng sâu sắc và nhiều mặt tới sinh hoạt quốc tế tới mọi quốc gia. Tình hình đó

dẫn đến sự thay đổi về chất trong mối quan hệ Mỹ – Nhật.

1. Chấm dứt sự đối đầu giữa hai siêu cường
Trước cuộc chiến tranh lạnh, nếu xem thế giới là một dàn nhạc giao hưởng chia
thành hai bè thì Mỹ và Liên Xô trong hơn 45 năm tồn tại chưa bao giờ cùng chơi chung
một bản hòa tấu . Sau khi Liên Xô sụp đổ, chỉ còn lại người nhạc trưởng duy nhất là
Mỹ điều khiển dàn đồng ca. Như vậy, chiến tranh lạnh chấm dứt đồng nghóa với việc
chấm dứt sự đối đầu giữa hai hệ thống về quân sự, chính trò tư tưởng và ngoại giao.
Sự sụp đổ nhanh chóng của Liên Xô và các nùc XHCN Đông u làm nảy sinh
những vấn đề buộc Mỹ và Nhật phải đối phó, đó là:
- Vấn đề gìn giữ hòa bình: trước khi chiến tranh lạnh kết thúc trên thế giới
xảy ra nhiều cuộc chiến tranh nóng và các bên tham chiếm có điều kiện để
lựa chọn đồng minh. Sau chiến tranh lạnh, việc tăng cường đóng góp về
người và ủng hộ tài chính cho hoạt động gìn giữ hòa bình là một thách thức
đối với Nhật Bản và Mỹ. Vai trò của Nhật trong hoạt động này được nâng
cao và sự phối hợp hành động với Mỹ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết
- Chiến tranh lạnh kết thúc cùng với sự mất đi của “mối đe dọa Xô viết” đã
đặt quan hệ Nhật Mỹ trước những thử thách mới. Lãnh đạo hai nước đều có
sự nhìn nhận lại vai trò của nhau trong tình hình mới khi mà tầm quan trọng
của nhân tố an ninh quân sự có phần giảm đi và nhân tố kinh tế ngày càng
trở nên quan trọng
- Trong thời gian chiến tranh lạnh có thể chia quan hệ Nhật – Mỹ thành hai
loại : “ưu tiên cao” và “ưu tiên thấp”.
- Những vấn đề “ưu tiên cao” nằm trong chính sách liên quan đến ổn đònh
khu vực và ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 19
- Những vấn đề “ưu tiên thấp” bao gồm quan hệ tay đôi mà chủ yếu là quan
hệ buôn bán và mậu dòch, cả hai bên dù có bất đồng buôn bán nghiêm

trọng đến đâu cũng không được làm tổn hại đến quan hệ chiến lược thuộc
ưu tiên cao.
- Khi chiến tranh lạnh kết thúc cùng với sự mất đi của mối ưu tiên cao thì vấn
đề ưu tiên thấp trở thành nổi bật lên và biến thành ưu tiên cao trong quan
hệ hai nước

2. Vấn đề nhận thức quan hệ Mỹ – Nhật Bản
Trong thời kỳ chiến lạnh dư luận trong công chúng hai nước tương đối đồng
nhất về sự cần thiết về mối quan hệ về sự cần thiết phối hợp hành động quốc tế.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, diễn ra sự bất đồng trong nhận thức về quan
hệ Mỹ – Nhật Bản như sau:
- Vấn đề tham gia chiến tranh vùng vònh: qua cuộc chiến tranh này Mỹ muốn
xác lập lại vai trò lãnh đạo trong một trật tự thế giới mới. Mỹ xem đó như
là một thử nghiệm để tiếp tục duy trì sự lãnh đạo của mình và làm một cuộc
thử sức của liên quân đồng minh Mỹ. Mỹ đã tập hợp sức mạnh quốc tế để
thực hiện một sự can thiệp trực tiếp khi cần. Đồng thời qua đó để Mỹ xác
đònh lại vai trò của các đồng minh trong một trật tự thế giới mới
Nhật Bản đã không tham gia vào liên quân vùng Vònh như yêu cầu của
Mỹ. Nhật Bản đã từ chối một cách tế nhò là trong chương 9 Hiến pháp của
họ cấm đưa quân đội ra nước ngoài. Thế nhưng Mỹ gây sức ép buộc Nhật
phải đóng góp về tài chính thay thế cho đóng góp về người. Như vậy, đây là
lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật tham dự hạn chế
vào cuộc xung đột quân sự nhưng không theo yêu cầu của Mỹ. Điều đó làm
nảy sinh căng thẳng trong mối quan hệ giữa hai bên. Việc Mỹ gây sức ép
buộc Nhật Bản phải đóng góp trong khi công luận ở Nhật Bản cho rằng
cuộc chiến tranh ở vùng Vònh là một cuộc “chiến tranh xâm lược”, vì thế
người Nhật ác cảm hơn đối với Mỹ. Họ cho rằng Mỹ không tôn trọng Nhật
Bản do đó trong quan hệ với Mỹ cần phải có giới hạn và độc lập hơn so với
trước đây.
- Mặt khác, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc về kinh tế cho nên công

chúng Nhật cho rằng Nhật phải tự chủ hơn trong quan niệm chính trò và
giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ. Nhật cần phải khẳng đònh vai trò của mình
trước cộng đồng thế giới. Một số công chúng Nhật vẫn không quên được tội
ác của Mỹ gây cho họ trong quá khứ và hai chính phủ không xin lỗi nhau
như người dân của hai nước mong muốn.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 20
Tóm lại,sau khi Liên Xô tan rã, các nước Đông u chuyển sang con đường phát
triển kinh tế thò trường và thực hiện chế độ chính trò đa nguyên , thì sự đối đầu về quân
sự – chính trò chuyển sang một sự thách thức mới đối với Mỹ và các nước dồng minh
của Mỹ. Đó là sự thách thức của tình trạng bất ổn đònh về chính trò và khủng hoảng
kinh tế –hậu quả của chiến tranh lạnh , Mỹ không thể hành động một mình mà phải
phối hợp hành động với các đồng minh của mình . Sự chia sẽ trách nhiệm với Nhật
không còn gói gọn trong chi phí quốc phòng nữa mà mở rộng ra hầu hết các hoạt động
quốc tế khác.

II. Quan hệ hợp tác an ninh - quân sự giữa Mỹ và Nhật Bản thời kì sau
chiến tranh lạnh
1. Hợp tác trong lónh vực quân sự
Hợp tác quân sự giữa Mỹ và Nhật Bản là một biểu hiện hết sức quan trọng đã
diễn ra trong quá trình quan hệ giữa hai nước trong nhiều thập kỉ qua. Từ năm 1991,
trước nhiều thách thức bởi những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế sau chiến
tranh lạnh, quan hệ quân sự giữa hai nước diễn ra từ đơn giản đến phức tạp, từ sự phụ
thuộc một chiều của Nhật Bản vào Mỹ dẫn đến sự hợp tác chia sẽ trách nhiệm ngày
càng cao của Nhật Bản.
Thời kì từ sau chiến tranh lạnh đến nay, vấn đề chuyển giao kó thuật quân sự
giữa hai nước là một mặt hết sức quan trọng trong hợp tác quân sự song phương Mỹ –
Nhật Bản.
Đầu những năm 90, lợi nhuận Nhật Bản thu được trong quân sự tăng lên đó là

sự đảm bảo cao về thò trường tiêu thụ của cục phòng vệ Nhật Bản; nhờ sự phối hợp
hành động có hiệu quả của các công ti kinh doanh vũ khí của Mỹ thông qua chuyển
giao kỹ thuật quân sự và nhờ sự tăng trưởng ổn đònh của nền kinh tế Nhật Bản. Từ
1993 trở đi, suy thoái kinh tế diễn ra làm cho khu vực sản xuất quân sự của Nhật gặp
khó khăn dẫn đến tốc độ triển khai các kó thuật quốc phòng từ phía Mỹ. Mỹ lo lắng
việc chuyển giao kó thuật quân sự sẽ làm sói mòn khả năng cạnh tranh của các công ti
sản xuất hàng quân sự của Mỹ và sẽ tác động xấu đến lợi ích an ninh của Mỹ.
Hai bên cùng hợp tác sản xuất loại máy bay chiến đấu FSX. Mỹ chuyển giao
cho các công ty quân sự Nhật Bản một công nghệ mới để từ đó sản xuất ra các loại
máy bay quân sự hiện đại; tạo cơ hội cho Nhật Bản chế tạo các thiết bò hành không vũ
trụ trong tương lai. Điếu đó làm tăng lên khả năng vừa hợp tác vừa cạnh tranh lẫn
nhau giữa các ngành công nghiệp quân sự giữa hai bên.
Một đặc trưng của quá trình hợp tác quân sự Mỹ – Nhật là sự hợp tác giữa các
công ty thay thế cho nhà nước, hai bên cùng có lợi trở thành nguyên tắc số một. Ví dụ,
Nhật tiếp thu được những công nghệ mới trong lónh vực quốc phòng từ phía Mỹ thì đổi
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 21
lại Mỹ sẽ nhận được sự giúp đỡ đối với quân đội Mỹ ở trên nước Nhật và Mỹ được
xây dựng một căn cứ không quân mới ở Nhật.
Ngoài ra, hai nước còn cùng triển khai nhiều chương trình khác để hiện đại hóa
hệ thống vũ khí. Ví dụ, phối hợp sản xuất máy bay tấn công mới AWACS , cùng triển
khai nghiên cứu phát triển kó thuật tên lửa có điều khiển.
Tháng 4-1996, Nhật, Mỹ đã thỏa thuận về vấn đề căn cứ quân sự của Mỹ ở
Okinawa. Hai bên dàn xếp về việc trao trả 11 căn cứ quân sự của Mỹ ở đây. Theo
thỏa thuận, các khu vực căn cứ gồm sân bay, quân cảng , trại binh… sẽ được di chuyển
khỏi đảo Okinawa trao trả đất cho Nhật. Nhật chòu chi phí tài chính cho việc di chuyển
khoảng 10 tỷ đôla.
Hai bên thỏa thuận hợp tác giúp đỡ giữa quân đội Mỹ Nhật như cung cấp hậu
cần cho các cuộc tập trận chung hoặc sự tham gia của hai nước vào hoạt động giữ gìn

hòa bình của Liên hiệp quốc. Phạm vi hợp tác hậu cần giữa các lực lượng của Mỹ,
Nhật được mở rộng ra ngoài các căm cứ trên lãnh thổ Nhật.
Tháng 6-1997, Mỹ, Nhật công bố báo cáo về việc xem xét lại phương hướng
hợp tác phòng thủ Nhật – Mỹ đã ký từ 1978, hai bên thỏa thuận sẽ thiết lập sơ cấu
điều chỉnh hợp tác trong các vấn đề như vạch kế hoạch chung để đảm bảo phối hợp có
hiệu quả trong bất kì cuộc tấn công vũ tranh nào nhằm vào Nhật Bản. Hai bên tăng
cường trao đổi tin tức tình báo, thi hành nhanh chóng cơ chế phối hợp tay đôi khi Nhật
Bản bò tấn công thì Mỹ sẽ có sự hỗ trợ thích hợp. Khi có khủng hoảng xảy ra chính phủ
hai nước sẽ xem xét kế hoạch hợp tác trên sáu lónh vực: hoạt động nhân đạo, vấn đề
dân tò nạn, tìm kiếm và cứu nạn, bảo đảm sự thi hành trừng phạt kinh tế của Liên hiệp
quốc, Nhật Bản cung cấp cho Mỹ sử dụng căn cứ trên đất Nhật, Nhật Bản cung cấp
hậu cần cho các lực lượng Mỹ. Như vậy, nhu cầu mới của phạm vi chính sách an ninh
của Nhật đã được thừa nhận, vai trò của Nhật trong liên minh quân sự được điều chỉnh
và có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng, được xác đònh một cách cơ bản.
Năm đầu tiên của thế kỉ 21, đặc biệt sau sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ các quan hệ
vế an ninh quân sự Mỹ – Nhật được nâng cao lên, mở đầu bằng cuộc chiến chống
khủng bố do Mỹ phát động. Chính phủ Nhật cam kết sẳn sàng hổ trợ Mỹ và cùng với
Mỹ đấu tranh chống lại chủ nghóa khủng bố do Mỹ khởi xướng ở Afganixtan.
Ngày 1-10-2001, tàu chiến của Mỹ đã rời cảng Yocosuca tiến vào vùng vònh. Lực
lượng phòng vệ Nhật đã huy động 24 tàu tuần tra, 3 máy bay lên thẳng, một lực lượng
đặc nhiệm để hộ tống và bảo vệ. Sau đó quốc hội Nhật Bản thông qua một dự luật mới
cung cấp cả dòch vụ y tế và hậu cần cho quân đội Mỹ đang tham chiến ở Afganixtan.
Đó là một sự thay đổi về chất, một bước ngoặt lớn trong phương châm phòng vệ của
Nhật Bản. Ngày 9/11/2001, bốn chiến hạm của quân đội Nhật đã tiến vào n Độ
Dương để thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ quân đội Mỹ.
Về đóng góp tài chính trong hợp tác quân sự, sau nhiều lần thương lượng Nhật
Bản đồng ý tăng ngân quỹ trợ giúp cho các hoạt động quân sự của quân đội Mỹ trên
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 22

đất Nhật bằng 50% tổng chi phí của chính phủ Mỹ. Như thế hàng năm Nhật phải đóng
4 tỷ USA vào kinh phí của lính Mỹ trên đất Nhật. Trong cuộc khủng hoảng vùng vònh
lần 2, Nhật đã chia rẽ chi phí chiền tranh vùng vònh khoảng 13 tỉ đôla, điều đó chứng
tỏ vai trò quân sự của Nhật đã vượt khỏi ảnh hưởng của khu vực Thái Bình Dương và
lan tỏa mang tính toàn cầu.
Tóm lại, hợp tác quân sự giữa Mỹ và Nhật Bản là một trong những lónh vực
hợp tác quan trọng nhất của Liên minh Mỹ – Nhật.
Nó có tác động ảnh hưởng đến các mặt hợp tác khác. Quá trình hợp tác trên
lónh vực này của hai nước phát triển đi lên từ chỗ phụ thuộc một chiều đến quan hệ hai
chiều cùng có lợi, cùng chia sẽ trách nhiệm.
Xu hướng này tiếp tục chi phối quan hệ Mỹ – Nhật trong hiện tại và tương lai.
Quy mô của sự hợp tác chuyển sang chú trọng về chất lượng. Sự có mặt của quân đội
Hoa Kỳ trên đất Nhật sẽ giảm xuống. Hai bên cùng phôi hợp hoạt động để xây dựng
một chiến lược an ninh tập thể mang tính khu vực.

2. Quan hệ Mỹ – Nhật trong lónh vực an ninh
Quan hệ an ninh Nhật –Mỹ đựơc hình thành khởi đầu bằng việc kí kết hiệp ước
an ninh năm 1951
Sau chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ vẫn cam kết tiếp tục duy trì các lực lượng
của mình ở khu vực Đông Á. Lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực Đông A ùlà nhằm đạt
được thế cân bằng tương đối về lực lượng giữa các trung tâm quyền lực ở khu vực theo
nghóa không có cường quốc nào chiếm đòa vò thống trò ở đây ngoài Mỹ. Tổng thống
Clin ton khi xác đònh quan điểm của mình về một “cộng đồng Thái Bình Dương “ mới
đã tuyên bố rằng : các lực lượng triển khai tuyến trước của Mỹ ở châu Á là một trong
những trụ cột chủ yếu . Trong chiến lược an ninh quốc gia năm 1996, Tổng thống
Clinton nhấn mạnh ba mục tiêu trung tâm là:
- Duy trì an ninh của Mỹ với các lưc lượng quân sự luôn luôn sẵn sàng chiến
đấu
- Tăng cường khôi phục tính sống động của nền kinh tế Mỹ
- Thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài

Mặc dù chính quyền Mỹ bò sức ép chính trò từ nhiều phía nhưng vẫn không dễ
dàng từ bỏ được vì tầm quan trọng về kinh tế và chiến lược ngày càng tăng của khu
vực này. Mỹ mong đợi ở Nhật Bản hỗ trợ cho những nỗ lực của Mỹ trong việc tiến
hành chiến tranh trong khi Mỹ vẫn đóng quân tại các căn cứ của Nhật bản . Mỹ mong
đợi Nhật sẽ giữ vai trò bảo vệ và giám sát đường biển tích cực, nỗ lực bảo vệ tên lửa,
triển khai lên phía trước các tàu phòng vệ trong vùng biển Nhật Bản.
Phía Nhật Bản mặc dù vẫn coi trọng quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ
song Nhật Bản đã đặt mối quan hệ ấy trong hướng ưu tiên chung cho lợi ích quốc gia.
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 23
Điều đó được thể hiện qua việc Nhật Bản từng bước bình thường hóa đi đến mở rộng
quan hệ với nhiều nước trên thế giới và không cần tính đến Mỹ có đồng ý hay không.
Ví dụ, Nhật Bản tăng cường quan hệ với Việt Nam ngay từ những năm đầu của thập kỉ
90 bất chấp chính sách bao vây cấm vận Việt Nam của Mỹ; hoặc Nhật đẩy mạnh các
hoạt động mở rộng quan hệ với nhiều nước vốn tồn tại nhiều bất đồng với Mỹ như n
Độ, Iran, Pakixtan, Malaysia.
Nhật Bản muốn thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo, một mặt vẫn muốn
duy trì quyền lợi có được trong quan hệ, nhưng mặt khác cũng không muốn bò ràng
buộc chặt bởi “Hiệp ước an ninh Nhật –Mỹ”.
Nhật đã tiến hành xem xét lại Hiệp ước này, so với thời kì chiến tranh lạnh vai
trò của Nhật Bản trong Hiệp ước được nâng cao hơn, có tính độc lập, bình đẳng hơn so
với Mỹ. Ngoài những đóng góp chi phí quân sự cho quân Mỹ và các hoạt động phối
hợp diễn tập của liên quân hai nước, Nhật còn tự đảm nhận việc bảo đảm an ninh
thông thường, có quyền tự do trong phòng vệ và xử lí các công việc có liên quan đến
an ninh của Nhật và của khu vực, thế giới. Chẳng hạn như, Nhật không đồng tình với
Mỹ về việc Mỹ triển khai Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia( NMD) hoặc Nhật đã
phê phán chính sách cứng rắn của chính quyền Bush trong quan hệ với Cộng hòa dân
chủ nhân dân Triều Tiên nói riêng và việc giải quyết vấn đề hoà bình trên bán đảo
Triều Tiên nói chung. Nhật còn tích cực đóng góp kinh phí và tham gia các hoạt động

trong các tổ chức và diễn đàn quốc tế như ASEAN + 3. APEC, WTO… Nhật đẩy mạnh
các hoạt độn gìn giữ hòa bình do Liên hợp quốc tổ chức.
Ví dụ, Nhật cử 700 quân tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc
ở Campuchia, chi 13 tỉ USD cho liên quân chống Irac, đóng góp nguồn ngân sách cho
Liên hợp quốc chiếm 21% trong tổng ngân sách hàng năm của tổ chức này. Những
hoạt động trên của Nhật Bản thời gian qua chứng tỏ Nhật đang từng bước khôi phục lại
tính tự chủ và tinh thần trách nhiệm quốc tế vốn lâu nay đã bò mờ nhạt do lệ thuộc vào
Mỹ.
Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn tiếp tục coi Hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ là hòn đá
tảng trong chính sách đối ngoại của mình sau chiến tranh lạnh, tiếp tục dựa vào Mỹ
một mặt do những ràng buộc hòa bình của Hiếp pháp 1947 quy đònh chưa sửa đổi, mặt
khác mặc dù hiện thời Nhật không có kẻ thù trực đe dọa trực tiếp như trong thời kì
chiến tranh lạnh, nhưng trong thực tế theo đáng giá của Nhật, ít ra có 3 vấn đề có khả
năng đe dọa an ninh Nhật Bản đó là:
- Vấn đề bán đảo Triều Tiên
- Tiềm năng quân sự, đặc biệt là kho vũ khí hạt nhân của Nga
- Sức mạnh đang nổi lên của Trung Quốc
Nhật bản khẳng đònh sự hiện diện của quân đội Mỹ tại châu Á là “điều cần
thiết để bảo đảm hoà bình và ổn đònh”. Thời báo New York đã bình luận : Một mình
_____________________________________________________________
Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử
Quan hệ Mỹ – Nhật Bản sau chiến tranh thế giới đến nay - 24
Nhật Bản không thể bắt tay Trung Quốc , một mình Nhật Bản không thể bắt tay Triều
Tiên thống nhất, một mình Nhật Bản không thể bảo vệ đường biển của chính nó – Vì
tất cả những lý do này , chúng ta cần liên minh với Mỹ.
Sức mạnh phòng vệ của Nhật Bản nếu không liên minh với Mỹ sẽ là “gót chân
Asin” của Nhật Bản .Vì thế cả hai phía phải tiến đến một liên minh Nhật –Mỹ ở mức
cao hơn cả thời kỳ chiến tranh lạnh , điều đó đã buộc chặt Nhật Bản vào sự phụ thuộc
chiến lược của Mỹ mà Nhật Bản không thể làm gì khác hơn trước một thực tế là
Trung Quốc đang nỗi lên như một cường quốc thật sự cả về kinh tế lẫn quốc phòng.

Quan hệ an ninh Mỹ – Nhật thường xuyên được điều chỉnh theo hướng nâng
cấp vò trí và vai trò của Nhật Bản trong liên minh với Mỹ thể hiện qua các giai đoạn
với các văn bản đã kí kết:
- Từ Hiệp ước an ninh 1951 đến “Liên minh chiến lược hướng tới thế kỉ XXI”,
tháng 4-1996 do cựu Thủ tướng Nhật bản là Hashimoto và Tổng thống Mỹ Bill
Clinton đã ký kết tại Tokyo

- Từ đạo luật cơ sở Nhật – NATO kí tháng 5-1997 đến phương hướng hợp tác
phòng thủ mới Nhật – Mỹ công bố 23-9-1997.
Đến đây Hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ đã được mở rộng bao trùm lên toàn bộ
khu vực châu Á Thái Bình Dương và Nhật Bản đóng vai trò quân sự ở khu vực.
Cả Nhật Bản và Mỹ đã điều chỉnh quan hệ an ninh theo hướng nâng cao chất
lượng hợp tác thể thiện qua một số sự kiện chính như sau:
- Cuộc gặp thượng đỉnh giữa Tổng thống Mỹ G.W. Bush và thủ tướng Nhật
Bản Ymori diễn ra ngày 19-3-2001, mục đích chính của cuộc gặp này là cả
hai muốn hâm nóng lại các cam kết song phương nhất là trong lónh vực an
ninh đã được kí kết trước đây; đồng thời trấn an các nhà đầu tư của cả hai
nước và làm dòu những căng thẳng do vụ đắm tàu đánh cá của Nhật Bản ở
gần Hawai (tháng 2-2001)và vụ phạm tội của một số quân nhân Mỹ ở Nhật
Bản.
Cả hai cho rằng việc Mỹ tiếp tục có mặt tại Nhật Bản không chỉ là nhu cầu
của nước này mà còn là sự cần thiết đảm bảo an ninh Đông Bắc Á; Liên
minh Nhật – Mỹ là nền tảng của hòa bình và ổn đònh tại khu vực châu Á –
Thái Bình Dương.
Hai bên đề cập tới mối đe dọa của vũ khí hủy diệt và tên lửa đạn đạo (gián
tiếp đề cập tới kho vũ khí nguyên tử của Trung Quốc và tên lửa đạn đạo
của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên). Đó được coi là lí do chính mà
Mỹ đưa ra để lí giải cho việc phát triển hệ thống tên lửa phòng thủ (MND)
của Mỹ.
_____________________________________________________________

Hoàng Thò Như Ý Khoa Lòch sử

×