Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn Thạc sĩ Giải pháp phát triển quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
o0o






LÊ HUỲNH NHƯ








GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN DẠNG MỞ
TẠI VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ











T.P Hồ Chí Minh - Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
o0o





LÊ HUỲNH NHƯ





GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN DẠNG MỞ
TẠI VIỆT NAM



Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60340201


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS TRẦN QUỐC TUẤN






T.P Hồ Chí Minh - Năm 2013

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ


Thứ tự HÌNH VẼ Trang
Hình 1.1 Mô hình tổ chức của quỹ mở 20

BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Thống kê một số loại phí của các quỹ đóng 50
Bảng 2.2 Thống kê một số loại phí của các quỹ mở 57

BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 1.1 Tổng giá trị tài sản ròng quỹ tương hỗ của Mỹ năm 2012 30
Biểu đồ 2.1 Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu năm 2007 - 2012 39
Biểu đồ 2.2 Giá trị đấu thầu trái phiếu Chính Phủ 41
Biểu đồ 2.3 Thị phần quản lý tài sản của các Công ty quản lý quỹ 48
Biểu đồ 2.4 Tỷ lệ chiết khấu thị giá/NAV của các quỹ niêm yết giai
đoạn 2006-2012
51


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn nhanh, hữu hiệu của
doanh nghiệp, thu hút nhà đầu tư chuyên nghiệp lẫn không chuyên trong nước lẫn
nước ngoài để phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế thế giới. Thị trường chứng khoán
Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã trải qua những giai đoạn thăng trầm, có những
bước phát triển vượt bậc về giá trị vốn hóa thị trường và số lượng nhà đầu tư tham
gia, phát huy vai trò tập trung các khoản tiền nhàn rỗi thành nguồn vốn lớn, cung
cấp cho chủ thể cần vốn trong nền kinh tế.
Sự lớn mạnh của thị trường chứng khoán trong 13 năm qua là cơ sở và
nền tảng cho việc hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán
xuất hiện và gia tăng về số lượng và giá trị nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của các
doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy nhiên ngành quỹ của Việt Nam cũng chỉ bắt đầu
hình thành từ khoản 5 năm trở lại đây. Tính đến thời điểm hiện tại, trên TTCK Việt
Nam có 26 quỹ đầu tư chứng khoán (bao gồm 05 quỹ đại chúng dạng đóng, 04 quỹ
dạng mở và 17 quỹ thành viên) đang hoạt động. Đối với loại hình quỹ đóng, bên
cạnh mặt tích cực là nguồn vốn huy động luôn ổn định, quỹ đóng ngày càng trở nên
kém thu hút đối với các nhà đầu tư do giá trị giao dịch trên thị trường chênh lệch
lớn với giá trị tài sản ròng của chứng chỉ quỹ và tính thanh khoản thấp. Một số quỹ
có kết quả hoạt động kém hơn mức sinh lợi bình quân của thị trường, quy mô cũng

như tính đa dạng các sản phẩm quỹ còn hạn chế so với tiềm năng của thị trường.
Đồng thời bản thân các quỹ đầu tư chứng khoán trong quá trình tồn tại vẫn chưa
phát huy được vai trò trong thu hút vốn đầu tư, dẫn dắt các nhà đầu tư cá nhân và
đóng góp vào sự ổn định trong hoạt động của TTCK.
Để thu hút ngày càng nhiều hơn nữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì
đòi hỏi ngành quỹ của Việt Nam phải khắc phục những hạn chế vốn có của quỹ
đóng, mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm quỹ,…Sự hình thành
và phát triển mô hình quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở là một xu thế tất yếu cho sự

2
phát triển của TTCK Việt Nam. Với những ưu điểm nổi bật của quỹ mở so với quỹ
đóng đang khiến loại hình quỹ này trở nên phổ biến ở các TTCK phát triển.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu “Giải pháp phát triển quỹ đầu tư
chứng khoán dạng mở tại Việt Nam” là cần thiết, đáp ứng được nhu cầu của nhà
đầu tư cũng như Chiến lược phát triển của TTCK giai đoạn 2011-2020. Đề tài được
thực hiện nhằm hệ thống kiến thức về quỹ đầu tư chứng khoán; kinh nghiệm phát
triển quỹ mở tại một số quốc gia trên thế giới; thực trạng hoạt động của các công ty
quản lý quỹ, quỹ đầu tư; tiến hành khảo sát và đưa ra đánh giá khả năng phát triển
quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt Nam và tìm ra các giải pháp phù hợp giúp
cho ngành quỹ của Việt Nam chuyển sang một hình thức hoạt động mới trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quỹ đầu tư chứng khoán,
quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở, kinh nghiệm thành lập quỹ đầu tư chứng khoán
dạng mở của các quốc gia trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán,
Công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư trên TTCK Việt Nan trong thời gian qua;
đưa ra đánh giá về khả năng phát triển của quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở dựa
trên khảo sát thực nghiệm về nhu cầu đầu tư của công chúng đầu tư, hệ thống pháp
lý, điều kiện cơ sở vật chất cũng như những cơ hội và thuận lợi cho sự phát triển

của quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt Nam.
- Đề xuất đưa ra các giải pháp cụ thể và lộ trình thực hiện các giải pháp
để hình thành và phát triển quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt Nam trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là TTCK của Việt Nam, các công ty
quản lý quỹ, các quỹ đầu tư chứng khoán nói chung và quỹ đầu tư chứng khoán
dạng mở nói riêng.

3
- Phạm vi nghiên cứu: tổng quan về quỹ đầu tư chứng khoán, kinh
nghiệm thành lập và phát triển của quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại một số
quốc gia trên thế giới (Mỹ, Thái Lan, Singapore,…); thực trạng thị trường chứng
khoán và hoạt động của các công ty quản lý quỹ, các quỹ đầu tư chứng khoán; khảo
sát điều kiện ra đời và phát triển của quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp như: phương pháp luận, phương pháp
thu thập thông tin từ các nguồn cung cấp thông tin như Sở giao dịch chứng khoán
TP.HCM, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước,…phương pháp thống kê, điều tra, phương pháp đánh giá các thông tin đã thu
thập được.
Dữ liệu được thu thập từ các báo cáo của Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ, các quỹ đầu tư, sách, tạp
chí khoa học, tạp chí chuyên ngành về đầu tư chứng khoán và các website có liên
quan đến nội dung nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việt Nam chỉ có quỹ đầu tư dạng đóng, chưa có quỹ đầu tư dạng mở. Với
chiến lược phát triển của ngành quản lý quỹ ở nước ta là định hướng sẽ thành lập
các quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở với quy mô hoạt động và đa dạng về sản

phẩm, dần dần chuyển đổi các quỹ đóng thành quỹ mở để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tại Việt Nam, đã có một số đề tài nghiên cứu về các giải pháp phát triển
quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam nhưng nhìn chung các đề tài này chỉ tập trung
vào phân tích thực trạng và đề xuất các kiến nghị liên quan đến phát triển ngành quỹ
nói chung mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu về việc đưa ra những giải pháp cụ thể
cho sự phát triển của quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở.
Đề tài tập trung nghiên cứu đưa ra các giải pháp và lộ trình thực hiện để
phát triển quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt Nam, giúp cho các cơ quan

4
quản lý nhà nước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và đưa ra các chính sách phù hợp
cho sự thành lập quỹ và khuyến khích các quỹ đang hoạt động chuyển sang phương
thức hoạt động mới trong thời gian tới.
6. Hạn chế của đề tài
- Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và tài liệu tham khảo nên trong phần
nội dung hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở (trong Chương 1) được
viết dựa trên những nội dung được ban hành trong Thông tư 183/2011/TT-BTC
hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ mở.
- Kết quả khảo sát điều tra chỉ dừng lại ở việc thống kê và miêu tả mức độ
hiểu biết của các NĐT về quỹ mở cũng như nhu cầu tham gia đầu tư khi quỹ mở
được thành lập mà chưa có những phân tích định lượng các yếu tố tác động tới nhu
cầu tham gia đầu tư của Nhà đầu tư vào quỹ mở.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm ba phần chính sau:
Chương I: Tổng quan về quỹ đầu tư chứng khoán.
Chương II: Thực trạng phát triển quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt
Nam .
Chương III: Giải pháp phát triển quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở tại Việt
Nam.






5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1 Cơ sở lý luận về quỹ đầu tư chứng khoán
1.1.1 Khái niệm và lợi ích khi đầu tư qua quỹ đầu tư chứng khoán
1.1.1.1 Khái niệm về quỹ đầu tư chứng khoán
Trên thị trường tài chính (TTTC), quỹ đầu tư (QĐT) là loại hình trung
gian tài chính tăng trưởng rất nhanh và là kênh đầu tư vốn quan trọng cho các nhà
đầu tư (NĐT) trên thị trường chứng khoán (TTCK), đặc biệt là các TTCK mới nổi
đang phát triển. QĐT có nhiều cách tiếp cận như sau:
Theo Luật Công ty đầu tư 1940 của Mỹ thì QĐT là các tổ chức tài chính
được quản lý chặt chẽ và phải tuân theo các điều luật và quy chế của Liên bang và
các Tiểu bang.
Theo tự điển Banking and Informationtics thì QĐT là một định chế tài
chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ nhiều nguồn khác nhau để
đầu tư vào các loại tài sản như cổ phiếu, trái phiếu và tiền tệ. Tất cả các khoản đầu
tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ
(CTQLQ), ngân hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác.
Theo Điều 3 Luật Chứng khoán Việt Nam thì QĐT chứng khoán là quỹ
được hình thành từ vốn góp của các NĐT với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu
tư vào chứng khoán hoặc các dạng đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó NĐT
không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.
Khi tham gia vào quỹ, các NĐT sẽ nhận được chứng chỉ quỹ (CCQ) là
loại chứng khoán do CTQLQ đại diện phát hành, xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của NĐT đối với tài sản hoặc vốn góp của quỹ theo tỷ lệ tương ứng với số đơn

vị quỹ của NĐT trong vốn điều lệ.
Trên thế giới, việc đầu tư vào các QĐT chứng khoán từ lâu đã trở thành
một kênh đầu tư rất phổ biến và được ưa chuộng, đồng thời QĐT còn là một bộ
phận cấu thành quan trọng, góp phần vào sự phát triển của TTCK và nền kinh tế nói
chung. Các QĐT sẽ có vòng đời xác định được ghi rõ trong Bản cáo bạch, thường là

6
10 hoặc 20 năm. Hết thời hạn này, quỹ có thể được gia hạn hoạt động hoặc giải thể.
Vốn điều lệ quỹ là số vốn bằng tiền do tất cả các NĐT thực góp và được ghi trong
điều lệ quỹ.
1.1.1.2 Lợi ích khi đầu tư qua quỹ đầu tư chứng khoán
Tại sao người dân ở các nền kinh tế phát triển lại thích đầu tư gián tiếp
vào chứng khoán thông qua các QĐT hơn là đầu tư trực tiếp vào các công ty? Đó là
vì họ nhận thấy QĐT có những lợi ích sau:
- Phân tán rủi ro: QĐT có thể đầu tư vào nhiều loại chứng khoán của
các ngành công nghiệp khác nhau theo mục tiêu của quỹ. Việc sở hữu một
nhóm các loại chứng khoán khác nhau dù không loại bỏ hoàn toàn các rủi ro
tiềm ẩn nhưng có thể giúp hạn chế rủi ro do giá của mỗi loại chứng khoán khác
nhau có thể bù đắp cho nhau và tối ưu hóa lợi nhuận.
- Đủ khả năng đầu tư: NĐT có thể đầu tư gián tiếp vào các công ty lớn
(blue-chips) hoặc sở hữu nhiều loại chứng khoán khác nhau với mức vốn tối thiểu
thông qua việc sở hữu CCQ.
- Giảm thiểu chi phí đầu tư: Một trong những nhân tố quan trọng khiến
hình thức QĐT hấp dẫn các NĐT đó là chi phí đầu tư. Sự so sánh có thể khác
nhau, nhưng với các NĐT vừa và nhỏ thường phải trả chi phí đầu tư nhiều hơn
một QĐT trong việc thực hiện mua bán chứng khoán trong một danh mục đầu tư.
Lý do là chi phí giao dịch trong hầu hết các thị trường từ trước đến nay đều có liên
quan chặt chẽ với quy mô giao dịch. Chi phí giao dịch của các NĐT cá nhân đối
với các khoản mua bán nhỏ thường cao hơn nhiều vì giá trị của mỗi giao dịch họ
thực hiện nhỏ hơn nhiều so với các QĐT khi họ giao dịch với số lượng chứng

khoán lớn hơn.
- Quản lý chuyên nghiệp: Quản lý đầu tư đòi hỏi phải tiêu tốn thời gian,
nguồn lực và năng lực chuyên môn cao, điều mà hầu hết những NĐT cá nhân
không thực hiện được. Khi đầu tư vào quỹ tức là NĐT đang thuê những nhà quản
lý chuyên nghiệp thực hiện các công việc mua, bán và giám sát các khoản đầu tư
của mình.

7
- Bảo vệ NĐT: Hoạt động của quỹ được điều chỉnh và giám sát bởi
UBCKNN và SGDCK. Tài sản của quỹ luôn được giám sát bởi ngân hàng giám
sát và báo cáo định k. Tính minh bạch được bảo đảm nhờ hệ thống báo cáo rõ
ràng, đầy đủ từ các CTQLQ.
1.1.2 Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế
Để phát triển bền vững nền kinh tế rất cần những nguồn vốn trung và
dài hạn, QĐT tạo ra các kênh huy động vốn phù hợp với nhu cầu của cả người
đầu tư lẫn người nhận đầu tư. Các nguồn vốn nhàn rỗi riêng lẻ trong công chúng
do vậy sẽ được tập trung lại thành một nguồn vốn lớn, thông qua QĐT các
nguồn vốn sẽ được đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đảm bảo được nguồn
vốn phát triển vững chắc cho cả khu vực tư nhân lẫn khu vực
nhà nước.
QĐT còn khuyến khích dòng chảy vốn nước ngoài. Đối với luồng vốn
đầu tư gián tiếp (FII), việc đầu tư vào quỹ sẽ loại bỏ các hạn chế về giao dịch mua
bán chứng khoán trực tiếp, kiến thức và thông tin về chứng khoán cũng như giảm
thiểu các chi phí đầu tư. Đối với luồng vốn đầu tư trực tiếp (FDI), QĐT góp phần
thúc đẩy các dự án bằng cách tham gia góp vốn vào các liên doanh hay mua lại một
phần vốn của bên đối tác, tạo thuận lợi cho NĐTNN trong việc thu hồi vốn cũng như
tăng được sức mạnh trong nước ở các liên doanh. Bên cạnh đó, QĐT còn góp phần
hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp trong nước: tiếp cận nguồn tài chính dài hạn,
cung cấp các thông tin tài chính, tư vấn kế hoạch tài chính, marketing và các mối

quan hệ với các tổ chức tài chính, doanh nghiệp khác. Lợi ích này của QĐT được
đặc biệt đánh giá cao với các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là
trong các nền kinh tế chuyển đổi.
1.1.2.2 Đối với thị trường chứng khoán
Trên TTCK, QĐT là một định chế tài chính trung gian nên có những vai
trò cơ bản sau:
- Quỹ góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung
và góp phần phát triển vào thị trường sơ cấp. Các QĐT tham gia bảo lãnh trái phiếu

8
Chính phủ (TPCP) và trái phiếu doanh nghiệp, cung cấp vốn cho sự phát triển
doanh nghiệp thông qua mua cổ phiếu của các đợt phát hành ra công chúng (IPO).
Với chức năng này, các QĐT giữ vai trò quan trọng trên thị trường sơ cấp. Thị
trường sơ cấp phát triển sẽ cung cấp hàng hóa đa dạng cho các danh mục đầu tư của
quỹ, tăng hiệu quả hoạt động, giúp cho các các quỹ tăng trưởng và phát triển.
- Quỹ góp phần vào việc ổn định thị trường thứ cấp. Với vai trò là các tổ
chức đầu tư chuyên nghiệp trên TTCK, các QĐT góp phần bình ổn giá cả trên thị
trường thứ cấp, góp phần phát triển vào thị trường này thông qua các hoạt động đầu
tư chuyên nghiệp với các phương pháp đầu tư khoa học.
- Quỹ góp phần tạo ra các phương thức huy động vốn đa dạng qua
TTCK. Khi nền kinh tế phát triển và các tài sản chính ngày càng tạo khả năng sinh
lời hơn, NĐT có khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài chính để đầu tư.
Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các QĐT hình thành dưới nhiều dạng sản
phẩm tài chính khác nhau như quỹ cổ phiếu, quỹ trái phiếu, quỹ cân bằng, quỹ đầu
tư doanh nghiệp tăng trưởng, quỹ đầu tư tư nhân,… có thời gian đáo hạn, khả năng
sinh lời và mức độ rủi ro được kiểm soát tốt.
- Quỹ làm cho các hoạt động đầu tư chứng khoán mang tính xã hội hóa:
QĐT tạo một phương thức đầu tư được ưa thích đối với các NĐT nhỏ, ít có sự hiểu
biết về chứng khoán, góp phần tăng tiết kiệm của công chúng bằng việc thu hút tiền
nhàn rỗi đầu tư vào quỹ.

1.1.2.3 Đối với Nhà đầu tư
Khi các NĐT, đặc biệt các NĐT cá nhân có những hạn chế nhất định về
kiến thức, kinh nghiệm, thời gian để trực tiếp tham gia trên TTCK thì họ tìm đến
những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp để ủy thác số tiền đầu tư của mình. Như vậy,
so với hình thức đầu tư trực tiếp thì đầu tư thông qua quỹ, NĐT sẽ có được những
lợi thế nhất định:
- Đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro: Các hình thức đầu tư của
quỹ rất đa dạng, phong phú nên NĐT đa dạng hóa danh mục đầu tư thông qua quỹ
nhằm giảm thiểu rủi ro. NĐT sẽ có nhiều cơ hội đầu tư vào các loại quỹ khác nhau

9
như: quỹ toàn cầu, quỹ quốc tế, quỹ tương hỗ, quỹ phòng ngừa rủi ro, quỹ giao
thương,… tham gia gián tiếp trên TTCK thông qua định chế tài chính trung gian này.
Như vậy, đa dạng hóa danh mục đầu tư, chuyển những tài sản nhiều rủi ro thành những
tài sản ít rủi ro là ưu thế vượt trội của QĐT so với các hình thức đầu tư khác.
- Giảm chi phí giao dịch và nghiên cứu: Các NĐT nhỏ khi đầu tư cần có
những kỹ năng cần thiết để tìm hiểu, phân tích và đánh giá về chứng khoán, TTCK
và các lĩnh vực đầu tư để đưa ra quyết định đầu tư đảm bảo hiệu quả đầu tư cao
nhất. Tuy nhiên, các NĐT riêng lẻ thường không có những kỹ năng này lẫn trình độ
chuyên môn. Bên cạnh đó, việc thu thập và xử lý thông tin từ các tổ chức phát hành,
tổ chức niêm yết sẽ hao tốn rất nhiều thời gian, công sức lẫn chi phí nghiên cứu.
QĐT với tư cách là NĐT chuyên nghiệp có thể giúp các NĐT có thể giảm thiểu tất
cả những chi phí trên do ưu thế về trình độ chuyên môn nhất định.
- Đảm bảo hiệu quả đầu tư cao do tính chuyên nghiệp hoạt động đầu tư
với các chuyên viên có trình độ chuyên môn về chứng khoán, TTCK và các lĩnh vực
đầu tư khác. Các nhà quản lý quỹ cung cấp dịch vụ quản lý và nghiên cứu thị trường
trong các môi trường mà các NĐT thường không hiểu rõ ràng. Do đó, khi đầu tư
qua quỹ, NĐT có thể ủy quyền cho nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp và được hưởng
nhiều loại dịch vụ do họ cung cấp, đảm bảo hiệu quả đầu tư.
1.1.2.4 Đối với Chính phủ

- Tăng tiết kiệm nội địa: Khi các QĐT huy động vốn thì sẽ thu hút lượng
vốn tiết kiệm lớn từ tập thể các NĐT trong một quốc gia mà quỹ hoạt động. Nếu
một NĐT trong quỹ mở bán cổ phiếu, nhà quản lý quỹ sẽ phải bán tài sản của quỹ
để thanh toán cho NĐT. Ngược lại, nếu quỹ đóng được niêm yết và mua bán sôi
động trên TTCK sẽ tăng sự luân chuyển các dòng vốn đầu tư trong nền kinh tế.
- Giảm sự phụ thuộc nguồn tài chính hay thay đổi: cam kết vốn dài hạn của
các quỹ đóng sẽ giảm sự phụ thuộc các nguồn vốn tư nhân bên ngoài không ổn định.
- Đa dạng hóa sở hữu: các QĐT có sức thuyết phục Chính phủ quan tâm
đến việc sở hữu các NĐTNN đối với các doanh nghiệp trong nước. Điều này lý giải

10
tại sao các quỹ lại được phép đầu tư vào một số nước trước khi thị trường được mở
cho các NĐT trực tiếp tham gia.
- Kỹ năng phát triển các thị trường vốn sở tại: các nhà quản lý quỹ mang lại
sự đánh giá về đầu tư và kỹ năng vận hành cho các thị trường sở tại. Để đáp lại sự quan
tâm của các NĐT, các nhà quản lý quỹ thường yêu cầu các tiêu chuẩn cao về bảo quản,
lưu giữ, thanh toán bù trừ, tiết lộ thông tin và sự giám sát của các cơ quan quản lý.
- Sự tăng trưởng giá cổ phiếu: nguồn vốn mới từ bên ngoài đổ vào TTCK
thường dẫn đến điểm cân bằng về giá cổ phiếu cao hơn, và do vậy chi phí vốn sẽ thấp
hơn đối với các công ty sở tại.
- Khuyến khích sự tăng trưởng cho các công ty trong nước: Các QĐT mạo
hiểm (Venture Capital) cung cấp các nguồn vốn có độ rủi ro cao và kỹ năng quản lý
giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng trưởng mạnh.
1.1.3 Phân loại quỹ đầu tư chứng khoán
1.1.3.1 Theo cơ cấu tổ chức hoạt động
Dựa trên cơ cấu tổ chức hoạt động, QĐT được tổ chức dưới hai hình
thức: QĐT dạng công ty (Corporate funds) và QĐT dạng tín thác (Trust funds).
Quỹ đầu tư dạng công ty
Theo mô hình công ty, QĐT được xem là một pháp nhân đầy đủ, được
thành lập dưới hình thức công ty đầu tư cổ phần, có điều lệ hoạt động, vốn huy động

từ các NĐT bằng cách phát hành cổ phiếu, những người góp vốn vào quỹ trở thành
các cổ đông và có quyền bầu ra Hội đồng quản trị quỹ. Đây là cơ quan điều hành cao
nhất của quỹ đứng ra thuê CTQLQ, ngân hàng bảo quản tài sản và giám sát việc tuân
thủ hoạt động của hai tổ chức này. Trong đó, ngân hàng giám sát đóng vai trò bảo
quản các tài sản quỹ, nhận hoặc giao chứng khoán cho quỹ khi thực hiện lệnh giao
dịch. Còn CTQLQ có trách nhiệm cử người điều hành và sử dụng vốn của quỹ để đầu
tư vào các chứng khoán hay các tài sản sinh lợi khác. Mô hình QĐT tổ chức dưới
dạng công ty thường được sử dụng ở các nước có TTCK phát triển, tiêu biểu là thị
trường Mỹ và Anh.


11
Quỹ đầu tư dạng tín thác
Theo mô hình tín thác, QĐT không được xem là một pháp nhân đầy đủ,
mà chỉ là quỹ chung vốn giữa những người đầu tư để thuê các chuyên gia quản lý
quỹ chuyên nghiệp đầu tư sinh lợi. Theo mô hình này, vai trò của CTQLQ khá nổi
bật, đứng ra thành lập và sử dụng vốn thu được thông qua việc phát hành các chứng
chỉ đầu tư để đầu tư vào những nơi có hiệu quả nhất. Ngân hàng giám sát đóng vai
trò là người bảo quản an toàn vốn và tài sản của người đầu tư, giám sát các hoạt
động của CTQLQ trong việc tuân thủ điều lệ quỹ. Mô hình QĐT dạng tín thác
thường được sử dụng ở các TTCK mới nổi, đặc biệt là ở Châu Á.
1.1.3.2 Theo quy mô, cách thức và tính chất góp vốn
Dựa theo quy mô, cách thức và tính chất góp vốn, QĐT được tổ chức dưới
hai hình thức: QĐT dạng đóng (gọi tắt là quỹ đóng) và QĐT dạng mở (gọi tắt là quỹ mở)
Quỹ đầu tư dạng đóng (Closed End Funds)
Quỹ đóng tiến hành huy động vốn thông qua việc phát hành CCQ một
lần duy nhất ra công chúng. Quỹ đóng có thể phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu
ưu đãi hoặc trái phiếu và quỹ không được phát hành thêm bất cứ một loại cổ phiếu
nào để huy động vốn và cũng không thực hiện mua lại các cổ phiếu đã phát hành
khi NĐT yêu cầu. Những người tham gia góp vốn không được phép rút vốn bằng

cách bán lại CCQ cho chính quỹ cho nên cấu trúc vốn của quỹ đóng rất chặt chẽ.
Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn
(đóng quỹ), CCQ được niêm yết trên TTCK, vì vậy NĐT có thể rút vốn bằng cách
bán lại CCQ thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ luôn cố định
và chỉ biến đổi trong trường hợp quỹ gọi thêm vốn, do đó quỹ có thể đăng ký đầu tư
vào các dự án lớn và các chứng khoán có tính thanh khoản thấp. Giá thị trường của
cổ phần quỹ đóng do cung cầu trên thị trường quyết định, có thể cao hơn, thấp hơn
hoặc bằng giá trị tài sản ròng (NAV) cổ phần của quỹ.
Quỹ đầu tư dạng mở (Open end Funds)
Quỹ mở còn được gọi là quỹ tương hỗ (Mutual Fund). Khác với quỹ
đóng, quỹ mở luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng vốn và cũng sẵn

12
sàng mua lại những cổ phiếu đã phát hành nên tổng vốn của quỹ mở biến động theo
từng ngày giao dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua/bán CCQ được
thực hiện trực tiếp với CTQLQ và CCQ của quỹ mở không được niêm yết trên
TTCK. Quy trình quản lý quỹ phức tạp hơn vì luồng tiền được ra/vào liên tục và tại
thời điểm NĐT nộp tiền/rút vốn có khả năng ảnh hưởng đến kết quả đầu tư của quỹ.
So với quỹ đóng, quỹ mở có lợi thế rõ ràng về khả năng huy động vốn,
mở rộng quy mô nên nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn các dự án đầu tư. Do cấu
trúc hoạt động của quỹ có tính chất “mở” nên rất thuận tiện cho NĐT trong việc rút
vốn vào bất k lúc nào. Tuy nhiên, đây cũng là điểm bất lợi cho quỹ vì cơ cấu vốn
không ổn nên quỹ phải thường xuyên duy trì một tỷ lệ khá lớn những tài sản có tính
thanh khoản cao như các TPCP hoặc cổ phiếu được niêm yết, ít có khả năng đầu tư
vào các dự án lớn có tiềm năng và những dự án có lợi nhuận lớn nhưng có độ rủi ro
cao. Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở chỉ tồn tại ở các nước
có nền kinh tế và TTCK phát triển như Châu Âu, Mỹ, Canada.
Theo nguồn vốn huy động
Quỹ đầu tư tập thể (Quỹ công chúng): Thường là quỹ dạng mở, được
điều hành bởi một công ty đầu tư. Quỹ huy động vốn bằng cách bán cổ phiếu quỹ ra

công chúng, sau đó đầu tư vào nhiều loại chứng khoán như: cổ phiếu, trái phiếu
công ty và các tài sản tài chính khác trên thị trường tiền tệ như chứng chỉ tiền gửi,
k phiếu và tín phiếu kho bạc. Những người đầu tư vào quỹ có thể là các cá thể
hoặc các tổ chức kinh tế, nhưng đa phần là các NĐT riêng lẻ, ít am hiểu về TTCK.
QĐT tập thể cung cấp cho các NĐT nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa
đầu tư, giảm thiểu rủi ro, chi phí đầu tư thấp với hiệu quả đầu tư cao do tính chuyên
nghiệp của đầu tư mang lại.
Quỹ đầu tư tư nhân (Quỹ thành viên): Quỹ này chỉ giới hạn ở một số
ít NĐT tham gia góp vốn. Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập các quỹ thành viên là
thực hiện các hoạt động đầu tư có tính chất tương đối mạo hiểm. Các hoạt động đầu
tư này có thể mang lại những khoản lợi nhuận tiềm năng rất cao cho các NĐT với
mức độ rủi ro cũng rất lớn. Với tính chất rủi ro như vậy, các quỹ thành viên không

13
phù hợp với việc huy động vốn từ công chúng. Quy mô và phạm vi huy động vốn
của quỹ chỉ tập trung vào một số ít NĐT lớn, có tiềm lực tài chính và có khả năng
chấp nhận những rủi ro cao trong hoạt động đầu tư. Để tham gia vào quỹ thành
viên, các NĐT phải đạt được những điều kiện nhất định do pháp luật đặt ra. Với
tính chất và mục tiêu đầu tư như trên, quỹ thành viên thường không phải chịu các
hạn chế như quỹ công chúng. Hầu hết các nước có TTCK phát triển đều có hình
thức quỹ này.
1.2. Những nội dung cơ bản về quỹ mở
1.2.1 Khái niệm và đặc tính của quỹ mở
1.2.1.1 Khái niệm về quỹ mở
Theo Luật Chứng khoán Việt Nam thì quỹ mở là quỹ đại chúng mà CCQ
đã chào bán ra công chúng phải được mua lại theo yêu cầu của NĐT.
Sau đợt phát hành lần đầu ra công chúng, giao dịch mua/bán CCQ của
NĐT được thực hiện định k dựa trên NAV của quỹ. Giao dịch này được thực hiện
trực tiếp với CTQLQ hoặc tại các đại lý phân phối chỉ định.
Theo khái niệm trên thì có sự khác biệt cơ bản giữa hình thức quỹ mở so

với quỹ đóng thể hiện ở việc quỹ mở cho phép NĐT mua và bán lại CCQ trực tiếp
với CTQLQ tại bất cứ thời điểm nào được xác định trước, với mức giá được xác
định trên cơ sở NAV của quỹ. Trong khi đó, CCQ của quỹ đóng chỉ được phát hành
một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn và quỹ không thực hiện mua lại CCQ
khi NĐT có nhu cầu. Điều này nghĩa là nếu muốn rút vốn khỏi quỹ, NĐT phải
chuyển nhượng phần vốn đã góp vào quỹ cho NĐT khác với mức giá do thị trường
hoặc hai bên thỏa thuận, mức giá đó có thể cao hoặc thấp hơn giá trị của một đơn vị
quỹ của quỹ. Thông thường, quỹ mở không quy định thời gian hoạt động cụ thể như
quỹ đóng, mà phụ thuộc vào nhu cầu của NĐT. Khi các NĐT không còn nhu cầu
đầu tư vào quỹ, họ sẽ rút toàn bộ vốn đầu tư và quỹ sẽ phải chấm dứt sự tồn tại của
mình tại thời điểm đó.



14
1.2.1.2 Đặc tính của quỹ mở
Quỹ mở phát hành thêm hay mua lại CCQ theo nhu cầu của NĐT khi họ
muốn đầu tư thêm hay muốn rút tiền ra khỏi quỹ. Do việc phát hành thêm hay mua
lại CCQ phát sinh theo định k (giao dịch định k), tổng tài sản của quỹ mở sẽ tăng
hay giảm đi. Càng nhiều NĐT mua CCQ thì càng nhiều CCQ được phát hành thêm.
Không có giới hạn số lượng CCQ được phát hành thêm mà chỉ giới hạn mức thấp
nhất dựa trên NAV của quỹ mở tại thời điểm phát hành lần đầu và trong thời gian
hoạt động.
Giao dịch mua/bán CCQ của quỹ mở: CCQ được giao dịch mua và bán
trực tiếp giữa NĐT với CTQLQ hoặc thông qua các đại lý phân phối chỉ định sau
khi NĐT hoàn tất việc mở tài khoản giao dịch theo quy định.
So sánh đặc tính của Quỹ đóng và Quỹ mở:
Đặc tính
Qũy mở
Quỹ đóng

Số lượng
CCQ
Tăng hoặc giảm do NĐT có thể
mua/bán lại CCQ tại ngày giao
dịch của quỹ.
Ít khi tăng/giảm.
Thời gian
hoạt động
Vô thời hạn.
Thông thường có giới hạn và
được quy định trong bản cáo
bạch.
Giao dịch
mua/chuyển
đổi/ bán
CCQ
- Được huy động vốn liên tục
trong quá trình hoạt động. NĐT có
thể thực hiện việc mua/bán vào
thời điểm định k với CTQLQ.
- NĐT có thể thực hiện việc
chuyển đổi CCQ giữa các quỹ
thuộc cùng một CTQLQ.
- CCQ không được niêm yết
trên sàn giao dịch chứng khoán.
- CTQLQ phải duy trì tỷ lệ tiền
- Chỉ huy động vốn trong
giai đoạn phát hành, hoặc có
thể tăng vốn theo thời điểm
khác nhau.

- CTQLQ chỉ giao dịch
trực tiếp với NĐT trong thời
gian huy động vốn, và khi quỹ
giải thể.
- CCQ được niêm yết và
giao dịch trên sàn giao dịch

15
mặt phù hợp và đảm bảo tính
thanh khoản khi NĐT rút vốn.
- Quy trình quản lý quỹ phức
tạp.
chứng khoán.
- NĐT sử dụng các dịch
vụ giao dịch CCQ như một
chứng khoán niêm yết thông
qua sàn giao dịch.
Giá giao
dịch
- CCQ được giao dịch dựa trên
NAV tại thời điểm giao dịch.
- - Không có chiết khấu giữa giá
giao dịch và giá trị NAV.
- NĐT phải trả phí phát
hành/phí mua lại/phí chuyển đổi
cho CTQLQ khi thực hiện giao
dịch.
- Giá giao dịch CCQ dựa
trên giá thị trường, phụ thuộc
vào lượng cung/cầu, có thể lớn

hoặc nhỏ hơn giá trị NAV của
quỹ.
- Giá trị NAV phản ánh
hiệu quả đầu tư nhưng chỉ
mang tính tham khảo.
- NĐT trả phí giao dịch
cho CTCK.
Tài sản
cơ sở
Tài sản cần có tính thanh khoản
cao (trái phiếu niêm yết, cổ phiếu
niêm yết)
Có thể là tài sản có tính thanh
khoản hoặc ít thanh khoản.
Được đầu tư vào cổ phiếu
OTC và cổ phiếu doanh
nghiệp chưa niêm yết.
Phân phối
CCQ được phân phối liên tục tại
các đại lý phân phối (CTCK,
NHTM, ngân hàng lưu ký, công ty
bảo hiểm, CTQLQ).
Việc phân phối CCQ chỉ thực
hiện trong thời gian huy động
lần đầu, hoặc khi tăng vốn
thông qua CTCK hoặc
CTQLQ.
Quy mô
Quy mô của Quỹ thay đổi thường
xuyên. Ở Việt Nam, không có giới

hạn tối đa mà chỉ có giới hạn tối
thiểu cho quy mô quỹ là 50 tỷ

Tổng nguồn vốn huy động của
quỹ luôn cố định và chỉ biến
đổi trong trường hợp quỹ gọi

16
đồng (theo quy định của Thông tư
183/TT-BTC).
thêm vốn.
Phí
- Phí phát hành, phí mua lại, phí
chuyển đổi CCQ.
- Phí quản lý quỹ.
- Phí dịch vụ quản trị quỹ, đại lý
chuyển nhượng và các loại phí
khác quy định tại Điều lệ quỹ.
- Thông thường quỹ sẽ có mức phí
khác nhau cho từng loại CCQ.
- Không có phí thưởng.
- Phí phát hành luôn được
cộng vào giá phát hành lần
đầu.
- Phí quản lý cho CTQLQ.
- Phí hành chính.
- Phí thưởng.
1.2.2 Sự cần thiết và tính tất yếu của quỹ mở
Xét về cơ chế vận hành, QĐT gồm hai hình thức quỹ đóng và quỹ mở.
Trên thế giới hiện nay có đến 90% các quỹ đang hoạt động theo mô hình quỹ mở.

Quỹ đóng vẫn tồn tại nhưng chủ yếu ở các quốc gia đang phát triển hoặc có cơ sở
hạ tầng pháp lý liên quan đến TTTC chưa thực sự hoàn thiện. Thông lệ trên thế giới
cho thấy quỹ đóng chỉ tồn tại trong thời gian đầu khi TTTC mới phát triển. Tuy
nhiên, khi thanh khoản thị trường ngày càng tốt, nhu cầu quay vòng vốn của các
NĐT ngày một cao thì quỹ đóng đã bộc lộ một số hạn chế, đòi hỏi phải có những
điều chỉnh, cải tiến thêm.
Quỹ mở ngày càng thông dụng nhiều hơn so với quỹ đóng và thể hiện
được chính xác ý nghĩa của việc tạo lập ra QĐT - một định chế tài chính trung gian
phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ
phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác nhằm đạt được mục tiêu đầu tư
nhất định - tạo ra giá trị thặng dư cho NĐT góp tiền vào quỹ.
Quỹ mở ra đời không chỉ giải quyết những hạn chế căn bản của quỹ đóng
mà còn là một bước đột phá trong việc tạo ra các sản phẩm đầu tư mới, các công
cụ đầu tư có tính minh bạch cao và phản ánh được giá trị thực của tài sản đầu tư,
giúp cải thiện sức cầu và tính thanh khoản cho thị trường.

17
1.2.3 Ưu và nhược điểm của quỹ mở
So với các hình thức đầu tư khác, nhất là quỹ đóng, quỹ mở cũng có
những ưu điểm và hạn chế nhất định trong phương thức hoạt động.
1.1.2.1 Ưu điểm của quỹ mở
- Quỹ mở luôn đảm bảo tính thanh khoản cao, cho phép NĐT có thể rút
vốn theo định k sát với NAV của quỹ sau khi trừ đi một số chi phí liên quan. Điều
này vừa bảo vệ NĐT vừa giúp cho các CTQLQ thu hút vốn nhanh hơn.
- CCQ của quỹ mở được giao dịch mua/bán theo NAV của quỹ, giúp
khoảng cách giữa giá trị của một đơn vị quỹ và thị giá ít bị chênh lệch, cho phép
bảo vệ NĐT tốt hơn do công bố thông tin minh bạch và thường xuyên hơn.
- Quỹ mở tạo ra một kênh huy động vốn linh hoạt, có khả năng tốt hơn
trong tận dụng cơ hội đầu tư dựa trên k vọng xu hướng biến động tăng/giảm của
kết quả hoạt động của quỹ và thị trường.

- Đối với CTQLQ, quỹ mở giúp linh động hơn trong thay đổi quản trị
danh mục vì các tài sản có tính thanh khoản cao, gia tăng nhanh chóng quy mô và
lợi nhuận khi khẳng định được hiệu quả hoạt động qua các phiên giao dịch CCQ.
- Quỹ mở đa dạng hóa các khoản đầu tư vào nhiều cổ phiếu và phụ
thuộc vào chính sách đầu tư của quỹ, có thể đầu tư vào trái phiếu – là loại tài sản mà
các NĐT cá nhân không thể thực hiện được do những quy định pháp lý và đòi hỏi
vốn đầu tư lớn. CTQLQ có các chuyên gia đầu tư để phân tích thị trường và các loại
chứng khoán bằng cách chọn các loại chứng khoán được định giá thấp hơn giá trị
thực và/hoặc có tiềm năng trăng trưởng tốt hơn trong dài hạn.
1.1.2.2 Hạn chế của quỹ mở
Bên cạnh những ưu điểm vượt trội so với các hình thức đầu tư khác, nhất là
quỹ đóng, thì hoạt động của quỹ mở cũng phải đối mặt với những hạn chế nhất định.
- Về phía CTQLQ, khi lập quỹ, rủi ro lớn nhất là việc NĐT yêu cầu
mua lại CCQ khi họ muốn rút vốn. Điều này đòi hỏi CTQLQ phải thận trọng hơn
trong phân bổ danh mục đầu tư và luôn phải duy trì một tỷ lệ tiền mặt nhất định để
đáp ứng nhu cầu rút vốn của NĐT, vì thế mà CTQLQ khó có thể yên tâm sử dụng

18
vốn vào các dự án mang tính quy mô và dài hạn. Hoạt động đầu tư vì thế mà ít
nhiều bị cản trở. Do đó, NĐT không nên trông đợi mức tăng trưởng NAV vượt trội
từ các quỹ mở.
- Về phía NĐT: dù được quyền bán ra CCQ khi có nhu cầu nhưng thực
tế các CTQLQ có thể từ chối việc mua lại. Theo Thông tư 183/2011/TT-BTC
hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ mở của Việt Nam thì CTQLQ có thể từ chối
mua lại CCQ khi không xác định được NAV (trường hợp chứng khoán trong danh
mục đầu tư của quỹ bị hủy niêm yết) hoặc khi CTQLQ không bán được tài sản
trong danh mục đầu tư (do tài sản bị mất tính thanh khoản hoặc chứng khoán của
quỹ nằm trong danh mục giải thể, phá sản).
- Ngoài ra, khi NĐT giao dịch mua/bán CCQ liên tục với CTQLQ thì vấn
đề về tổ chức, quản lý, giám sát, thanh toán, phân bổ đầu tư… trở nên phức tạp hơn. Để

quản lý và vận hành quỹ mở, đòi hỏi các CTQLQ phải có tiềm lực, đẩy mạnh đầu tư
máy móc, công nghệ, tổ chức đội ngủ nhân sự, xây dựng chiến lược đầu tư, tăng cường
năng lực quản lý,… Việc trang bị kiến thức đầu tư, kiến thức về quỹ mở không chỉ cần
thiết với đối tượng là NĐT, mà còn rất cần với các nhân viên đang làm việc trong các
tổ chức phân phối của quỹ và cả nhà quản lý của các quỹ. Để thành công, CTQLQ
đương nhiên cũng phải tiến hành các nghiên cứu, khảo sát thị trường nhằm cho ra đời
các sản phẩm phù hợp dựa trên nhu cầu của các nhóm đối tượng NĐT khác nhau.
1.2.4 Rủi ro khi đầu tư vào quỹ mở
Đầu tư theo bất k hình thức nào NĐT cũng gặp phải một số rủi ro nhất
định, đối với quỹ mở NĐT thường gặp phải một số rủi ro sau đây:
Rủi ro thị trường
Rủi ro này phát sinh khi các thị trường tài sản mà quỹ thực hiện đầu tư
có sự suy giảm từng phần hay toàn bộ trong một khoảng thời gian, dẫn tới sự suy
giảm của toàn bộ thị trường. Đây là loại rủi ro mang tính hệ thống nằm ngoài khả
năng kiểm soát của CTQLQ. Việc tổ chức nghiên cứu, đánh giá xu hướng thị
trường từ hoạt động nghiên cứu đầu tư sẽ góp phần đánh giá và dự đoán kịp thời

19
những tác động có thể có nhằm đưa ra những giải pháp thích hợp trong hoạt động
đầu tư, giảm thiểu tác động bất lợi từ những rủi ro thị trường.
Rủi ro lãi suất
CCQ cũng là một công cụ đầu tư nên bị ảnh hưởng bởi yếu tố lãi suất.
Lãi suất làm chi phí đầu vào các doanh nghiệp tăng, mức lãi suất mong đợi tăng sẽ
làm giảm giá trị cổ phiếu, giảm giá CCQ cũng như giá trị đầu tư vào trái phiếu và
ngược lại. Để hạn chế những rủi ro về lạm phát ảnh hưởng đến giá trị đầu tư, công
CTQLQ cần thường xuyên phân tích, đánh giá tác động từ xu thế thay đổi lãi suất
để có giải pháp theo tình hình biến động ảnh hưởng đến ngành, doanh nghiệp và trái
phiếu mà công ty đã đầu tư.
Rủi ro lạm phát
Lạm phát làm tăng chi phí đầu vào, tăng lãi suất danh nghĩa do đó ảnh

hưởng đến giá cổ phiếu và CCQ đầu tư. Rủi ro về lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà quỹ đầu tư vào, do vậy sẽ ảnh
hưởng kết quả lợi nhuận, giá trị doanh nghiệp và khoản đầu tư vào cổ phiếu của
doanh nghiệp. Tương tự như việc đánh giá rủi ro về lãi suất, hoạt động nghiên cứu
của CTQLQ cũng theo dõi chặt chẽ diễn biến của lạm phát, dự báo tác động ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến giá trị của các khoản đầu tư.
Rủi ro về thiếu tính thanh khoản của chứng chỉ quỹ
Rủi ro thanh khoản hàm ý mức độ dễ dàng hay khó khăn khi mua hoặc
bán lại CCQ. Quỹ mở có ưu điểm lớn về thanh khoản so với quỹ đóng là CCQ của
quỹ mở được giao dịch theo định k. Tuy nhiên, số lượng CCQ mà quỹ có thể mua
lại vào ngày giao dịch vẫn bị một số hạn chế theo quy định của pháp luật để đảm
bảo hoạt động ổn định của quỹ.
Rủi ro xung đột lợi ích
CTQLQ gặp phải những xung đột nhất định về lợi ích giữa các QĐT và
các sản phẩm tài chính khác do CTQLQ điều hành. CTQLQ cần thiết lập quy chế
kiểm soát nội bộ chặt chẽ, quy trình đầu tư cũng như bộ phận quản lý danh mục đầu

20
tư riêng biệt cho từng quỹ nhằm hạn chế xung đột lợi ích giữa các quỹ. Bên cạnh
đó, sự giám sát của ngân hàng giám sát cũng sẽ giúp giảm thiểu rủi ro này.
Rủi ro về tiến độ giải ngân
Quá trình phân bổ tài sản của quỹ mở vào các công ty đã niêm yết hoặc
chưa niêm yết sẽ phụ thuộc nhiều vào tiến độ thực hiện cổ phần hóa, quyết định
chấp thuận được niêm yết của các công ty theo chính sách của Chính phủ. CTQLQ
nên áp dụng chiến lược đầu tư năng động, linh hoạt thay đổi cơ cấu phân bổ tài sản
vào cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết nhằm nắm bắt cơ hội thị trường mang lại
hiệu quả tốt nhất cho quỹ.
Rủi ro giảm sút giá trị tài sản ròng
Rủi ro này phát sinh chủ yếu do sự giảm giá của các loại cổ phiếu trên thị
trường phi tập trung (OTC) và cổ phiếu niêm yết trên TTCK mà quỹ thực hiện đầu

tư. Khi đó, NAV của quỹ sẽ bị giảm sút và ảnh hưởng trực tiếp đến thị giá của CCQ
trên thị trường. CTQLQ cần nghiên cứu lựa chọn dự án đầu tư hiệu quả, tăng trưởng
với mức rủi ro hợp lý; thường xuyên theo dõi chặt chẽ những biến động và xu
hướng của nền kinh tế để có những giải pháp đầu tư hợp lý.
1.2.5 Nội dung hoạt động của quỹ mở
1.2.5.1 Mô hình tổ chức của quỹ mở
Quỹ mở là một hình thức của QĐT, có phương thức hoạt động tương đối
đặc thù nên mô hình hoạt động của quỹ có các bên tham gia như: CTQLQ, ngân
hàng giám sát, công ty kiểm toán, NĐT và các tổ chức cung cấp dịch vụ.

21


Quản lý
giám sát


cấp phép
hoạt động







+


Hình 1.1 – Mô hình tổ chức của quỹ mở

● CTQLQ (Fund management): được thành lập dưới dạng công ty cổ
phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thực hiện quản lý quỹ, danh mục đầu tư và
một số dịch vụ giá trị gia tăng như tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính doanh nghiệp.
Một CTQLQ có thể thành lập nhiều quỹ, gọi là các quỹ gia đình. Mỗi quỹ có thể
khác nhau về tiêu chí đầu tư, quốc gia đầu tư, tài sản hoặc ngành nghề đầu tư nhằm
đáp ứng thị hiếu đa dạng của những NĐT. Ở Việt Nam hiện nay, VietFund
Management (VFM) đang quản lý các quỹ VF1, VF2, VF3 và VF4. Mekong
Capital quản lý quỹ Mekong Enterprise Fund, Ltd; Mekong Enterprise Fund II, Ltd;
Vietnam Azalea Fund Limited….
Công ty
quản lý quỹ
Ban
đại diện quỹ
Ngân hàng
giám sát

Các tổ chức
cung cấp dịch vụ

UBCKNN

Công ty
kiểm toán

QUỸ MỞ
Giám sát
hoạt động
của quỹ

Kiểm toán

định k
hàng năm

B Bảo quản, giám sát
T tài sản của quỹ,
định giá NAV
Đưa ra chiến lược
mục tiêu,
thực hiện đầu tư
Cung cấp
dịch vụ

22
Theo quy định của Việt Nam, CTQLQ thực hiện một số nhiệm vụ chính
trong hoạt động của quỹ mở như sau:
- Phân bổ danh mục đầu tư của quỹ theo mục tiêu mà quỹ đề ra.
- Hoàn thành việc phân phối CCQ mở trong thời hạn quy định.
- Thay mặt Ban đại diện quỹ xây dựng và ban hành điều lệ quỹ, bản cáo
bạch tóm tắt; trường hợp sữa đổi, bổ sung điều lệ quỹ, CTQLQ phải lấy ý kiến của
đại hội NĐT.
- Tiếp nhận và thực hiện giao dịch mua/bán/chuyển đổi CCQ cho NĐT
khi có yêu cầu.
- Thực hiện hoặc ủy quyền cho ngân hàng giám sát xác định NAV của
quỹ và NAV/CCQ.
- Đền bù thiệt hại cho quỹ và NĐT trong trường hợp NAV bị định giá sai.
- Tổ chức họp đại hội NĐT thường niên hoặc bất thường về hợp nhất,
sáp nhập hoặc giải thể quỹ.
- Thực hiện phân chia lợi nhuận của quỹ cho NĐT theo quy định tại
điều lệ quỹ và chính sách chia lợi nhuận được công bố tại bản cáo bạch.
 Ngân hàng giám sát (Custodian/ Fund Administralor): Là NHTM

do CTQLQ lựa chọn và phải có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng
khoán, có chức năng thực hiện dịch vụ lưu ký và kiểm tra, giám sát, bảo đảm hoạt
động quản lý quỹ của CTQLQ là phù hợp với quy định của pháp luật và điều lệ quỹ.
Ngân hàng giám sát cũng thực hiện đăng ký sở hữu CCQ cho NĐT; thực hiện các
hoạt động giúp NĐT thực hiện quyền phát sinh liên quan đến việc sở hữu CCQ.
Ngân hàng giám sát có nghĩa vụ lưu giữ và bảo quản an toàn tài sản của quỹ, xác
nhận các báo cáo liên quan đến tài sản và hoạt động của quỹ.
 Công ty kiểm toán (Auditor): Là công ty kiểm toán bên ngoài có đội
ngũ kiểm toán viên công chứng (chartered accountant), thực hiện công việc kiểm
tra và xác nhận các báo cáo tài chính của quỹ là xác thực. Công ty kiểm toán
không được có quan hệ tham gia góp vốn, nắm giữ cổ phần, vay hoặc cho vay với

×