Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

ĐÁNH GIÁ XÁC SUẤT VỠ NỢ CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM












NGUYỄN HOÀNG THỤY BÍCH TRÂM





ĐÁNH GIÁ XÁC SUẤT VỠ NỢ CỦA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM



Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60.34.02.01






LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG







TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
i

Mục lục
Chương 1. Giới thiệu 2
Chương 2. Các nghiên cứu trước đây 4
Chương 3. Tổng quan về stress test 13
3.1 Khái niệm về stress test 13
3.2 Phân loại stress test 14
3.3 Quy trình thực hiện stress test 21
3.3.1 Xác định phạm vi phân tích 21
3.3.2 Thiết kế các kịch bản kinh tế vĩ mô trong stress test 23
3.3.3 Tích hợp các phân tích thị trường và rủi ro tín dụng 24
3.4 Xây dựng khuôn khổ mô hình stress test 26
3.4.1 Các mô hình bảng cân đối kế toán 29

3.4.2 Các mô hình giá trị có rủi ro (VaR) 31
Chương 4. Dữ liệu nghiên cứu và lựa chọn các biến kinh tế vĩ mô 35
Chương 5. Phương pháp và kết quả nghiên cứu 41
5.1 Tổng quan về phương pháp luận 41
5.2 Mô hình vĩ mô xây dựng kịch bản 41
5.3 Mô hình kinh tế vi mô 49
5.4 Ước tính giá trị tổn thất bằng mô hình CreditRisk+ 54
Chương 6. Kết luận 58
Tài liệu tham khảo 59
ii


Danh mục bảng biểu
Bảng 1: Đặc điểm của các loại stress test 17
Bảng 2: Phân loại dưới dạng mô hình của các phương pháp stress test vĩ mô 28
Bảng 3: Các biến kinh tế vĩ mô được xem xét lựa chọn để xây dựng kịch bản .35
Bảng 4: Ma trận tương quan giữa các biến kinh tế vĩ mô và tỷ lệ nợ xấu 37
Bảng 5: Tóm tắt thống kê mô tả các biến trong mô hình xây dựng kịch bản 39
Bảng 6: Danh mục các ngân hàng thương mại trong mẫu 40
Bảng 7: Kiểm định tính dừng 42
Bảng 8: Kiểm định đồng liên kết 42
Bảng 9: Kiểm định các tiêu chuẩn lựa chọn độ trễ thích hợp 43
Bảng 10: Kết quả mô hình vĩ mô 44
Bảng 11: Kiểm định LM về tính tự tương quan của mô hình vĩ mô 46
Bảng 12: Kiểm định độ lệch chuẩn 47
Bảng 13: Kết quả ước lượng dữ liệu bảng 51
Bảng 14: Tóm tắt thống kê của NPL được mô phỏng qua các kịch bản 53
Bảng 15: Kết quả chạy Creditrisk+ xác định xác xuất vỡ nợ 55
1


Tóm tắt
Bài nghiên cứu này thực hiện stress test để xem xét tác động vĩ mô lên
rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam dựa trên phân tích viễn
cảnh. Kết quả đã cho thấy rằng có sự tồn tại mối tương quan âm giữa tỷ lệ nợ
xấu (NPL) và tăng trưởng GDP với độ trễ là hai quý. Bài nghiên cứu này còn sử
dụng phương pháp mô phỏng Monte Carlo trong Credit VaR để tính toán khả
năng vỡ nợ của khu vực ngân hàng thương mại và nhận thấy rằng các ngân
hàng thương mại không thể hấp thụ được các khoản tổn thất tín dụng dưới các
kịch bản vĩ mô bất lợi. Điều này có thể đe dọa đến sự ổn định của hệ thống tài
chính. Những ước lượng này cũng rất hữu ích cho Ngân Hàng Nhà Nước trong
việc xác định mức độ rủi ro tín dụng và tính toán tỷ số an toàn vốn tối thiếu cần
thiết khi trường hợp xấu có thể xảy ra.
Từ khóa: Ngân hàng thương mại, nợ xấu, tăng trưởng GDP.












2

Chương 1. Giới thiệu
Những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu về stress test. Tầm quan
trọng của stress test đã được nhấn mạnh trong cuộc khủng hoảng gần đây và

những vụ sụp đổ ngân hàng ở nhiều quốc gia. Hiểu biết sâu sắc về khả năng
phục hồi của hệ thống ngân hàng trước các kịch bản kinh tế vĩ mô bất lợi là rất
quan trọng cho việc đánh giá đúng rủi ro hệ thống và giúp các nhà điều hành
đưa ra chính sách quản lý kịp thời bảo đảm an toàn cho hệ thống tài chính quốc
gia.
Bài nghiên cứu này thực hiện stress test để xem xét tác động vĩ mô lên
rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam dựa trên phân tích kịch
bản. Khuôn khổ thực hiện bao gồm ba phần độc lập nhưng bổ sung cho nhau
được kết hợp theo thứ tự. Phần đầu tiên sử dụng mô hình kinh tế lượng theo
chuỗi thời gian để ước lượng mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô lựa chọn
và sử dụng kết quả này để mô phỏng các kịch bản vĩ mô bất lợi trong hai năm
tới. Phần thứ hai sử dụng mô hình kinh tế lượng theo dữ liệu bảng để ước tính
độ nhạy của tỷ lệ nợ xấu (NPL) đối với tăng trưởng GDP và sử dụng kết quả
này để mô phỏng chất lượng tín dụng dưới các kịch bản xấu. Phần này sử dụng
bộ dữ liệu về tỷ lệ nợ xấu của tám ngân hàng thương mại được niêm yết trong
khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2013. Phần thứ ba sử dụng tỷ lệ nợ xấu
dự báo đại diện cho xác suất vỡ nợ (PD) trong trường hợp bất lợi để ước tính
phần tổn thất tín dụng, sử dụng mô hình giá trị tín dụng có rủi ro (Credit VaR).
Kết quả cho thấy mối tương quan ngược chiều giữa tỷ lệ nợ xấu và tăng
trưởng GDP. Trong đó, tăng trưởng GDP tác động lên tỷ lệ nợ xấu với độ trễ là
hai quý. Kết quả thực hiện ở kịch bản cơ sở khi nền kinh tế không có cú sốc đã
cho thấy nếu tăng trưởng GDP giảm 2,9 phần trăm sẽ làm gia tăng 1,3 lần nợ
xấu trong quý III năm 2013. Như vậy, ở kịch bản cơ sở tỷ lệ nợ xấu có thể vào
3

khoảng 3,7 phần trăm trong quý III năm 2013. Ngoài ra, chất lượng tín dụng thể
hiện mức độ quán tính mạnh mẽ với hệ số tự hồi quy là 0,84. Điều này ngụ ý
rằng một phần trăm gia tăng trong tỷ lệ nợ xấu của một quý nào đó sẽ gây ra sự
gia tăng 0,84 phần trăm trong tỷ lệ nợ xấu ở quý tiếp theo.
Bài nghiên cứu này xây dựng bốn kịch bản kinh tế vĩ mô, mỗi kịch bản

kéo dài hai năm. Những kịch bản này bao gồm một kịch bản cơ sở phản ánh
mức độ tăng trưởng GDP dự kiến khi nền kinh tế không xảy ra các cú sốc và ba
kịch bản xấu được coi là cực đoan, nhưng vẫn có khả năng xảy ra trong điều
kiện hiện nay. Nhìn chung, kết quả của kịch bản cơ sở chỉ ra rằng tỷ lệ nợ xấu
sẽ đạt đỉnh vào khoảng hơn 5 phần trăm trong quý thứ ba năm 2015. Ngược lại,
một kịch bản xấu sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu vào khoảng 6,4 phần trăm vào quý 2
năm 2014 của dự báo. Nhìn chung, thực hiện stress test đã cho thấy các ngân
hàng thương mại Việt Nam có nguồn lực tài chính chưa đủ tốt để hấp thụ các
tổn thất tín dụng dưới tập hợp các kịch bản kinh tế vĩ mô bất lợi. Đây có thể là
mầm mống đe dọa đến sự ổn định tài chính cho hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam.
Cấu trúc của bài nghiên cứu như sau: Phần 2 trình bày ngắn gọn một số
nghiên cứu liên quan, phần 3 thảo luận về phương pháp luận. Phần 4 mô tả dữ
liệu thu thập và phần 5 là các kết quả thực nghiệm. Cuối cùng, phần 6 là kết
luận bài nghiên cứu.






4

Chương 2. Các nghiên cứu trước đây
Wilson (1997) và Merton (1974) được biết đến với các bài nghiên cứu về
stress test đo lường rủi ro tín dụng dưới tác động kinh tế vĩ mô. Wilson thiết lập
mô hình trực tiếp dựa trên tính nhạy cảm của nhiều biến kinh tế vĩ mô đối với
xác suất vỡ nợ theo từng khu vực ngành nghề. Mô hình này hồi quy mối liên hệ
giữa xác suất vỡ nợ và các nhân tố vĩ mô, sau đó mô phỏng phân phối xác suất
vỡ nợ trong tương lai với mức thua lỗ kì vọng dưới ảnh hưởng của biến động

kinh tế vĩ mô. Mô hình Merton thì khác biệt ở chỗ kết hợp sự thay đổi giá tài
sản vào trong tiến trình xác định xác suất vỡ nợ. Mô hình của Wilson thì mang
tính trực giác và ít tính toán trong khi mô hình của Merton cần nhiều dữ liệu và
yêu cầu tính toán phức tạp.
Kể từ đó thì nhiều bài nghiên cứu đã ứng dụng công cụ này để đánh giá
mức độ hồi phục của hệ thống ngân hàng ở những quốc gia khác nhau trước
biến động vĩ mô bất lợi như là Berkowitz (1999), Pesola (2001), Froyland và
Larsen (tháng 10, 2002), Boss và cộng sự (2002), Hoggarth và Whitley (2003),
Gerlach và cộng sự (2003), Virolainen và Sorge (2006), Barnhill và cộng sự
(2006), van den End và cộng sự (2006), Missina và Tessier (2007). Mục tiêu
chính của những bài nghiên cứu này là đo lường mức độ nhạy cảm của danh
mục tín dụng trước kịch bản vĩ mô bất lợi hoặc những sự kiện, biến động ngoan
mục. Những thử nghiệm như vậy làm cho rủi ro được minh bạch hơn, giúp đánh
giá mức lỗ tiềm năng dưới điều kiện thị trường không bình thường. Trong đó,
Boss (2002) sử dụng mô hình rủi ro tín dụng vĩ mô để phân tích tình hình biến
động xấu của thị trường gây áp lực lên xác suất vỡ nợ của ngân hàng Áo và tác
giả đã nhận thấy sức sản xuất công nghiệp, tỷ lệ lạm phát, chỉ số chứng khoán,
lãi suất ngắn hạn danh nghĩa và giá dầu là các nhân tố quyết định xác suất vỡ
nợ. Sorge & Virolainen (2006) ứng dụng hai phương pháp chính trong stress
5

test cho nền kinh tế Phần Lan là kết hợp phân tích kinh tế lượng theo dữ liệu
bảng cân đối kế toán (mô hình bảng cân đối kế toán) và mô hình giá trị có rủi ro
VaR. Trong mô hình bảng cân đối kế toán, Sorge và Virolainen sử dụng khuôn
khổ của Wilson. Theo đó, các biến vĩ mô được liên kết với các khoản mục cho
vay trên bảng cân đối kế toán và thông qua phương pháp mô phỏng Monte
Carlo để mô phỏng ảnh hưởng của một vài cú sốc đến hệ thống ngân hàng, từ
đó xác định giá trị có rủi ro VaR. Mô hình VaR kết hợp phân tích nhân tố rủi ro
để ước lượng xác suất mất mát, đưa ra con số cụ thể về mức độ nhạy cảm của
danh mục trước nhiều loại rủi ro khác nhau. Thông qua đó, các tác giả còn tìm

thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ vỡ nợ đặc trưng theo ngành và
GDP, lãi suất và tổng nợ của khu vực doanh nghiệp. Từ đó cho thấy biến động
của môi trường kinh tế có ảnh hưởng lên dự phòng nợ khó đòi của ngân hàng.
Một số nhà nghiên cứu đã kết hợp nợ xấu, khoản dự phòng nợ khó đòi và
các nhân tố kinh tế vĩ mô vào trong ma trận vector để đo lường tính bất ổn của
hệ thống tài chính. Kalirai và Scheicher (2002) xây dựng mô hình ước lượng
hồi quy theo dữ liệu chuỗi thời gian giữa biến dự phòng nợ khó đòi tích lũy và
một tập hợp lớn các biến kinh tế vĩ mô bao gồm GDP, lỗ hổng sản lượng ngành
công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng cung tiền, chỉ số thị
trường chứng khoán, tỷ giá hối đoái, xuất khẩu và giá dầu. Bên cạnh đó, stress
test cũng được xem là một trong những công cụ đánh giá tính ổn định tài chính
và được giới thiệu ở chương trình FSAP 1999 liên kết giữa IMF với WB
(IMF&WB 2003). Sau khi giới thiệu FSAP, những nhà điều hành và giám sát
tiền tệ quốc gia đã bắt đầu kết hợp công cụ này vào trong các đánh giá ổn định
tài chính định kì. Nhiều nghiên cứu đã làm sáng tỏ tính hữu ích của stress test
trong phân tích vĩ mô. Ví dụ, Borio, Furfine & Lowe (2001) chỉ ra tầm quan
trọng của stress test trong việc nâng cao hiểu biết về rủi ro và mối quan hệ với
6

chu kì kinh doanh. Gần đây EU và Mỹ đã thực hiện cuộc thử nghiệm stress test
lớn nhất sau khủng hoảng để đánh giá hệ thống tài chính của họ (Fed 2009a,b
và CEBS 2010a,b).
Drehmann (2008) đã thảo luận về các mục tiêu, tiến trình lập mô hình và
những thách thức trong thực hiện stress test. Cihak (2007) cũng trình bày tỉ mỉ
và toàn diện khung lý thuyết liên quan đến việc thiết kế stress test dưới những
kịch bản vĩ mô với giả định phạm vi rủi ro rộng lớn. Ông đã mô tả những ứng
dụng của stress test trên dữ liệu ngân hàng. Bài nghiên cứu này thảo luận điểm
mạnh và điểm yếu của nhiều phương pháp thực hiện stress test và tính hữu ích
của nó đối với các nhà điều hành tiền tệ quốc gia. Sorge (2004) cũng cung cấp
tổng quát các phương pháp stress test cho hệ thống tài chính và thảo luận về

những thách thức trong phương pháp nghiên cứu như là đo lường rủi ro nội sinh
hoặc sự tương quan giữa rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường. Berkowitz (2000)
thảo luận cụ thể việc lựa chọn kịch bản khi thực hiện stress test.
Hầu hết các bài nghiên cứu xem xét rủi ro tín dụng khi thực hiện stress
test. Trước khi thực hiện mô phỏng ảnh hưởng của các kịch bản tác động lên
bản chất rủi ro tín dụng, các tác giả thường khảo sát mối liên kết giữa các biến
vĩ mô (như là tăng trưởng GDP, lãi suất, thất nghiệp, sức sản xuất công nghiệp,
lạm phát, v.v) và các biến đo lường rủi ro tín dụng liên quan thông qua mô hình
vệ tinh. Có nhiều phương pháp cho việc thiết lập những mô hình như vậy,
thường được gọi là mô hình rủi ro tín dụng vĩ mô. Drehmann (2005) và Cihak
(2007) đã làm sáng tỏ mối quan hệ phi tuyến giữa các biến động vĩ mô và rủi ro
tín dụng trong mô hình rủi ro tín dụng vĩ mô. Một vài nghiên cứu đã phát triển
mô hình rủi ro tín dụng vĩ mô theo Merton dựa trên tỷ suất sinh lợi tài sản để
ước lượng mức độ vỡ nợ. Merton (1974) là người đầu tiên thiết kế mô hình định
giá nhiều loại công cụ tài chính. Ý tưởng của mô hình Merton là xác định vỡ nợ
7

khi sụt giảm tỷ suất sinh lợi tài sản xuống dưới ngưỡng cho trước. Mô hình của
Merton được sử dụng trong nghiên cứu của Jakubik (2007) cho nền kinh tế
cộng hòa Séc. Mô hình này cũng được sử dụng trong nghiên cứu của Drehmann
(2005) đối với các khoản cho vay doanh nghiệp của các ngân hàng Anh.
Hamerle, Liebig & Scheule (2004) sử dụng mô hình đa nhân tố để dự báo xác
suất vỡ nợ của những khoản cho vay cá nhân ở Đức dựa trên các tiêu chuẩn
Basel II .
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác cũng khảo sát mối quan hệ giữa các biến
vĩ mô và các khoản mục cho vay trên bảng cân đối kế toán. Baboucek & Jancar
(2005) dùng mô hình VAR sử dụng tỷ lệ nợ xấu (NPL) và các nhân tố vĩ mô đại
diện cho nền kinh tế cộng hòa Séc để khám phá mối quan hệ này. Evjen và
cộng sự (2005) phân tích tác động phản ứng của tiền tệ liên quan đến biến động
về phía cung và cầu lên sự thua lỗ của ngân hàng ở Norway. Nghiên cứu xem

xét các cú sốc này ảnh hưởng đến sự thay đổi nhanh chóng mức độ dự phòng
của ngân hàng, từ đó đưa ra mức thiết lập dự phòng cần thiết để đảm bảo ổn
định tài chính và thảo luận làm thế nào để kết hợp stress test trong việc đưa ra
quyết định chính sách tiền tệ. Hơn nữa, các tác giả cũng cho thấy điều kiện môi
trường kinh tế vĩ mô là rất quan trọng cho khả năng thu hồi nợ. Các chỉ số kinh
tế vĩ mô được sử dụng trong bài như các biến độc lập là: GDP, tỷ lệ thất nghiệp,
tiền lương và CPI.
Một vài nghiên cứu chủ yếu kết hợp nhiều nguồn gốc rủi ro vào trong mô
hình. Một trong những nghiên cứu sớm nhất là của Barnhill, Papapanagiotou &
Schumacher (2000). Các tác giả này đo lường tương quan thị trường với rủi ro
tín dụng và ứng dụng kết quả giả định cho các ngân hàng Bắc Phi, liên kết sự
thay đổi trong điều kiện tài chính đối với tỷ số yêu cầu vốn tối thiểu của ngân
hàng. Nghiên cứu của Van den End, Hoeberichts & Tabbae (2006) phân tích
8

kịch bản đa nhân tố và thực hiện stress test cho Ngân Hàng Trung Ương Hà
Lan. Nghiên cứu này ước lượng xác suất vỡ nợ (PD) và dự phòng nợ khó đòi
(LGD) sử dụng mô hình về rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất. Cũng vậy,
Drehmann, Sorensen & Stringa (2008) ước lượng ảnh hưởng tổng hợp lên rủi ro
tín dụng và rủi ro lãi suất trên danh mục các ngân hàng, đánh giá giá trị kinh tế
của các ngân hàng, thu nhập tương lai và đáp ứng yêu cầu về vốn. Họ đã mở
rộng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro vỡ nợ trên khoản mục nợ và các khoản
mục ngoại bảng. Peura & Jokivuolle (2003) đo lường mức độ tương xứng về
vốn bằng cách mô phỏng sự khác biệt giữa mức vốn thực sự của ngân hàng và
yêu cầu vốn tối thiểu nhằm xem xét ngân hàng có đủ điều kiện về vốn để vượt
qua chu kì kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng Anh thực hiện mô hình đánh giá rủi
ro hệ thống được gọi là RAMSI đã kết hợp rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và phi
lãi suất, các tương tác mạng lưới và tác động phản hồi. Mô hình RAMSI cố
gắng làm tối thiểu hóa một vài giới hạn của stress test. Nghiên cứu của Aikman
et al. (2009) cũng thảo luận giới thiệu những tác động phản hồi về phía bên nợ

trong mô hình rủi ro hệ thống và làm thế nào những phản hồi này có thể dẫn
đến sự bất ổn hệ thống cao hơn dưới mô hình RAMSI.
Liên quan đến việc thiết kế kịch bản vĩ mô bất lợi trước khi mô phỏng
xác suất vỡ nợ của ngân hàng, Ali và Daly (2010) đã khảo sát các nhân tố kinh
tế vĩ mô tác động lên mức độ vỡ nợ tổng thể trong nền kinh tế Mỹ và Úc. Các
kết quả của nghiên cứu này đã chỉ ra rằng GDP, lãi suất ngắn hạn và tổng nợ là
những chỉ tiêu có ý nghĩa kinh tế đối với mức độ vỡ nợ tổng thể. Akhter và
Daly (2009) đã kiểm tra sức khỏe của các định chế tài chính trung gian trong
nhiều tình huống kinh tế vĩ mô khác nhau. Nghiên cứu này được kiểm soát
thông qua năm mươi quốc gia, mô tả sự thay đổi của các chỉ số ổn định tài
chính (FSIs) là do sự thay đổi môi trường kinh tế vĩ mô. FSIs bao gồm các chỉ
9

số tài chính liên quan đến vốn và khả năng sinh lời phản ánh tính ổn định của
các định chế tài chính trung gian. Các kết quả chỉ ra rằng chu kì kinh doanh,
lạm phát, tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực và quy mô của ngành công nghiệp có
ảnh hưởng đến FSIs. Một nghiên cứu tương tự được thực hiện bởi Babihuga
(2007) đã tìm thấy chu kì kinh doanh, lạm phát, lãi suất ngắn hạn và tỷ giá hối
đoái thực có mối quan hệ mạnh với hành vi của FSIs. Jacubic và Schmieder
(2008) đã thực hiện sự so sánh hai nền kinh tế khác nhau: nền kinh tế quá độ
chủ nghĩa cộng hòa Séc và nền kinh tế đã phát triển Đức. Mục tiêu của nghiên
cứu này là xác định biến kinh tế vĩ mô nào có thể tác động lên rủi ro tín dụng.
Hơn nữa, họ khảo sát ảnh hưởng của biến động chu kì kinh doanh đến tỷ lệ vỡ
nợ tổng thể của khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình. Nghiên cứu của họ bao
gồm hai mô hình rủi ro tín dụng cho mỗi quốc gia. Mô hình rủi ro tín dụng đầu
tiên được phát triển với mục đích phân tích tỷ lệ vỡ nợ của doanh nghiệp. Mô
hình của cộng hòa Séc bao gồm những biến độc lập như tỷ giá hối đoái thực,
lạm phát, GDP và tổng nợ trên GDP của khu vực doanh nghiệp có độ trễ. Kết
quả đã chứng minh rằng ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái thực là có ý nghĩa thống
kê và tác động âm lên lạm phát ở mức độ thấp. Riêng mô hình Đức bao gồm

các biến kinh tế vĩ mô: lãi suất danh nghĩa, GDP, sức sản xuất công nghiệp và
tỷ lệ nợ trên GDP. Các kết quả cho thấy rằng lãi suất danh nghĩa và GDP ảnh
hưởng đến tỷ lệ vỡ nợ. Đối với khu vực hộ gia đình, mô hình rủi ro tín dụng ở
cộng hòa Séc bao gồm tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất thực. Cả hai biến này đều tác
động dương đến tỷ lệ vỡ nợ của khu vực hộ gia đình. Mô hình rủi ro tín dụng
Đức có thu nhập hộ gia đình ảnh hưởng âm lên tỷ lệ vỡ nợ của hộ gia đình và tỷ
lệ nợ hộ gia đình trên GDP thì có tác động dương.
Gtogowski (2008) cũng kiểm tra mối liên hệ giữa các nhân tố chu kì kinh
doanh và khoản tổn thất nợ của ngân hàng thương mại Ba Lan. Kết quả đã cho
10

thấy rằng tốc độ tăng trưởng GDP, sự thay đổi trong lãi suất thực, tỷ lệ thất
nghiệp và tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất nợ. Bên cạnh
đó, tốc độ cho vay quá nhanh kết hợp với sự gia tăng trong giá tài sản có thể
gây ra sự bất ổn tài chính. Dựa trên phân tích VAR, Dovern và cộng sự (2008)
đã mô hình hóa sự ảnh hưởng giữa tỷ lệ xóa nợ và tỷ suất sinh lợi (ROE) của hệ
thống ngân hàng Đức với sự phát triển kinh tế vĩ mô. Kết quả của họ cho thấy
hệ thống ngân hàng Đức bị tác động bởi các biến kinh tế vĩ mô như: GDP, chỉ
số giá tiêu dùng (CPI), lãi suất 3 tháng và GDP Mỹ. Louzis và cộng sự (2010)
trong nghiên cứu của họ về kinh tế vĩ mô và các nhân tố quyết định tỷ lệ nợ xấu
đặc trưng của ngân hàng Hy Lạp đã tìm thấy rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ
lệ thất nghiệp và lãi suất cho vay có ảnh hưởng lên tỷ lệ nợ xấu. Filosa (2007)
cũng đã khảo sát sự nhạy cảm của hệ thống ngân hàng Ý đối với các biến động
kinh tế vĩ mô thông qua ứng dụng stress test. Nghiên cứu này mô hình hóa sự
tương tác giữa các biến kinh tế vĩ mô với biến tài chính và các chỉ số ổn định
ngân hàng. Theo nghiên cứu này, tính ổn định của ngân hàng được mô tả bởi tỷ
số của các khoản nợ hiện hành và tỷ lệ vốn hóa đối với các khoản nợ xấu trên
tổng nợ hiện hành. Các biến kinh tế vĩ mô và biến tài chính bao gồm lỗ hổng
sản lượng, lạm phát và lãi suất ECB ngắn hạn. Jimenez and Saurina (2005) tìm
thấy tác động âm của biến GDP trễ và tác động dương của lãi suất thực lên NPL

của ngân hàng Tây Ban Nha. Bên cạnh đó, theo kết quả của họ, chất lượng nợ
phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng nợ với độ trễ là bốn. Hơn nữa, các tác giả tìm
thấy sự tương tác giữa giai đoạn chu kì cho vay và chất lượng của nợ. Ngoài ra,
Delgado and Saurina (2004) kiểm tra sự ảnh hưởng của một chuỗi các chỉ số
kinh tế vĩ mô lên LLP và NPLs và tìm thấy tốc độ tăng GDP có ảnh hưởng âm
và lãi suất có ảnh hưởng dương. Quagliariello (2004) khảo sát ảnh hưởng của
môi trường kinh tế vĩ mô lên dự phòng nợ khó đòi, nợ xấu và tỷ suất sinh lợi
trên tài sản và xác định dạng chu kì cho một mẫu lớn của các định chế trung
11

gian Ý. Các kết quả cho thấy nợ xấu và dự phòng nợ khó đòi đối với tổn thất nợ
càng tăng thì cũng làm giảm giá trị môi trường kinh tế.
Pain (2003) đã khảo sát mối liên hệ giữa dự phòng nợ khó đòi của hầu
hết các ngân hàng UK và môi trường kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, nghiên cứu này
cho thấy rằng chu kì kinh doanh và sự biến động giá tài sản tác động đến chi
phí dự phòng của ngân hàng bởi vì chúng có liên quan đến khả năng đáp ứng
nghĩa vụ của những người đi vay. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng GDP thấp, lãi
suất thực cao và tốc độ tăng trưởng tổng dư nợ có độ trễ nhanh hơn dẫn đến sự
gia tăng dự phòng ngân hàng. Bằng chứng stress test sơ bộ khu vực ngân hàng
Áo cho thấy mối liên hệ giữa chi phí dự phòng nợ khó đòi của ngân hàng và các
biến kinh tế vĩ mô đặc biệt (Kalirai, Scheider, 2002). Các kết quả của nghiên
cứu này cho thấy chi phí dự phòng nợ khó đòi có ảnh hưởng âm đến tốc độ tăng
trưởng GDP và tương quan dương đến lãi suất. Đặc biệt hơn, gia tăng mức lãi
suất ngắn hạn, sụt giảm niềm tin kinh doanh, sụt giảm thị trường cổ phiếu và
sức sản xuất ngành công nghiệp đều tác động đến mức độ LLP. Pesola (2001)
mô tả mối liên hệ giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô, và tỷ lệ nợ xấu (NPL) cho các
quốc gia Bắc Âu trong khoảng thời gian khủng hoảng. Các biến phụ thuộc trong
nghiên cứu này là các tỷ số của các khoản tổn thất nợ ngân hàng trong khủng
hoảng cho vay và hoạt động kinh doanh. Các biến độc lập là phần trăm thay đổi
GDP có độ trễ, biến thu nhập bất thường kết hợp với tổng dư nợ có độ trễ và

biến giả điều chỉnh. Trong bối cảnh tương tự, Pesola (2005) mở rộng nghiên
cứu này cho nhiều quốc gia bao gồm Đức, Hy Lạp và Tây Ban Nha, Belgium và
UK sử dụng hồi quy dữ liệu bảng trên bộ dữ liệu từ trước những năm 1980 đến
năm 2002. Các kết quả chỉ ra rằng tổng dư nợ của khách hàng cao thường đi
kèm theo nó là các biến động kinh tế vĩ mô bất lợi.
12

Pesaran và cộng sự (2004) và Alves (2004) sử dụng mô hình VAR để
đánh giá ảnh hưởng của các biến kinh tế vĩ mô lên xác suất vỡ nợ của công ty.
Mô hình VAR của Pesaran và cộng sự bao gồm GDP, giá tiêu dùng, cung tiền
danh nghĩa, giá cổ phần, tỷ giá hối đoái và lãi suất danh nghĩa cho 11 quốc
gia/vùng trong giai đoạn 1979 - 1999. Kết quả của mô hình VAR toàn cầu này
được sử dụng như là dữ liệu đầu vào cho việc mô phỏng tỷ suất sinh lợi cho
công ty, sau đó tìm ra phân phối tổn thất của danh mục nợ doanh nghiệp. Một
thuận lợi của phương pháp này là liên kết rủi ro tín dụng của danh mục nợ được
đa dạng hóa quốc tế trong mô hình kinh tế vĩ mô khác biệt giữa quốc gia/ vùng.
Alves (2004) xây dựng VECM, sử dụng tần suất vỡ nợ kì vọng doanh nghiệp
(EDFs) như là các biến nội sinh và các nhân tố kinh tế vĩ mô (sự thay đổi 12
tháng trong lỗ hổng sản xuất công nghiệp, lãi suất 3 tháng, giá dầu và sự thay
đổi 12 tháng trong chỉ số giá thị trường cổ phiếu) như là những biến ngoại sinh.
Tần suất vỡ nợ kì vọng (EDFs) của mỗi khu vực công nghiệp EU được mô hình
hóa dựa trên các nhân tố kinh tế vĩ mô ngoại sinh cùng với EDFs của những
khu vực công nghiệp khác để theo dõi khả năng lây nhiễm.
Ngoài ra, mô hình VAR hệ thống cũng được sử dụng để đo lường tính
mong manh của ngân hàng một cách trực tiếp thông qua mối liên hệ giữa tỷ lệ
xóa nợ và các biến kinh tế vĩ mô. Vì tỷ lệ xóa nợ trên tổng nợ đối với doanh
nghiệp phi tài chính (PNFCs) và hộ gia đình có thể liên quan một cách khác
nhau đến chu kì kinh doanh, VAR cũng được ước lượng sử dụng dữ liệu khu
vực hộ gia đình và PNFCs.
Các nghiên cứu về stress test để xem xét tác động vĩ mô lên rủi ro tín

dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong giai đoạn sơ khởi.
Bài nghiên cứu này được thực hiện để ước lượng mối liên hệ giữa tỷ lệ nợ xấu
và tăng trưởng GDP và xem xét chất lượng tín dụng dưới tác động bất lợi mô
13

phỏng của các nhân tố kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. Từ đó giúp xác định khả năng
tổn thất của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi điều kiện kinh tế trở nên
bất lợi. Bước đầu, cho thấy bức tranh tổng thể về tiềm lực tài chính của hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương 3. Tổng quan về stress test
3.1 Khái niệm về stress test
Stress test là một kĩ thuật đo lường biến động của danh mục các tài sản,
tổ chức hoặc toàn bộ hệ thống tài chính dưới những kịch bản giả định. Nó sử
dụng các mô hình định lượng để ước lượng điều gì sẽ xảy ra đối với phần vốn,
lợi nhuận, dòng tiền, v.v của từng tổ chức tài chính hoặc toàn bộ hệ thống nếu
rủi ro xảy ra. Kĩ thuật này được các nhà quản lý rủi ro ở ngân hàng, các nhà
điều hành khu vực tài chính và cơ quan giám sát tài chính quốc gia sử dụng để
đánh giá tính bất ổn của một ngân hàng đặc biệt hoặc toàn bộ hệ thống tài chính
dưới các biến động bất lợi của nền kinh tế. Vào năm 1999, chương trình đánh
giá khu vực tài chính (FSAP) là một kế hoạch liên kết giữa IMF và World Bank
được thực hiện. Trong đó, stress test là một phần của chương trình này và đã
được xem như là một công cụ chuẩn trong việc phân tích tính ổn định tài chính.
Thực hiện stress test không chỉ đơn thuần là tính toán số học về những
ảnh hưởng của các cú sốc có thể xảy ra lên khu vực tài chính. Nó là một quá
trình gồm nhiều bước thực hiện bao gồm: lựa chọn những kịch bản kinh tế có
thể xảy ra đối với các tổ chức tài chính; ứng dụng khuôn khổ định lượng để liên
kết các kịch bản biến động khác nhau trong việc đo lường khả năng thanh toán
và tính thanh khoản; đưa ra chiến lược hành động từ thông tin các kết quả vừa
tìm được và tiếp tục theo dõi đo lường. Thuật ngữ stress test được sử dụng để
chỉ ra toàn bộ quá trình này.

14

Stress test hệ thống tài chính, thông thường được biết đến như là stress
test vĩ mô. Các stress test vĩ mô này được thực hiện với nhiều công cụ phục vụ
cho việc đánh giá tính ổn định tài chính, tìm ra những mối đe dọa cũng như
điểm mạnh của toàn hệ thống. Việc dự báo kinh tế vĩ mô phần lớn dựa trên dữ
liệu kinh tế vĩ mô lịch sử để lên kế hoạch cho hầu hết tình huống kinh tế tương
lai. Các mô hình dự báo kinh tế vĩ mô cũng được sử dụng trong stress test và nó
là một phần của phân tích kịch bản trong stress test. Tất cả những phương pháp
này nhằm tạo ra lời cảnh báo dự tính trước về các vấn đề có thể xuất hiện trong
tương lai. Hệ thống cảnh báo sớm thì khác biệt với stress test ở chỗ: nó bao
gồm các chỉ số có thể giúp ước lượng xác suất có thể xảy ra khủng hoảng. Đầu
tiên, nó xác định khủng hoảng bằng cách thiết lập các giá trị ngưỡng cho các
biến kinh tế vĩ mô và sau đó ước lượng xác suất phá vỡ của các ngưỡng. Stress
test cũng dựa trên dữ liệu lịch sử hay kịch bản giả định, nhưng nó tái tạo một
vài tình huống khắc nghiệt khó khăn để đánh giá tính bất ổn của hệ thống tài
chính dưới các tình huống này.
3.2 Phân loại stress test
Drehmann (2008) đã xác định ba mục tiêu chính của “stress tests”:
1. Đánh giá rủi ro và biến động của danh mục.
2. Đưa ra quyết định – Kết quả thử nghiệm có thể giúp ra quyết
định kinh doanh và lên kế hoạch.
3. Thông tin – Kết quả có thể mô tả tình trạng tổng quát của các tổ
chức hoặc toàn bộ khu vực tài chính và có thể được công bố ra bên ngoài.
Drehmann đã tranh luận rằng, xác định mục đích là điều cần thiết khi
thiết kế mô hình. Nếu mục tiêu chính là đánh giá tình hình hoạt động để đưa ra
kết luận theo kết quả mô hình thì mô hình này phải có khả năng dự báo tốt (sử
dụng các mô hình cấu trúc là thích hợp trong trường hợp này). Nhưng nếu chạy
15


mô hình để trình bày kết quả ra công chúng thì mô hình và kết quả của nó nên
minh bạch, dễ hiểu và dễ kiểm soát (các mô hình dạng rút gọn là thích hợp
hơn).
Dựa trên mục tiêu cuối cùng “stress test” được chia thành bốn loại:
 Stress test được xem như là một công cụ quản trị rủi ro nội bộ.
Các tổ chức tài chính sử dụng “stress test” để đo lường và quản lý rủi ro trên
các khoản đầu tư của họ. Một trong những người sử dụng sớm nhất là J.P
Morgan thực hiện vào giữa những năm 1990, sử dụng phương pháp giá trị có
rủi ro (VaR) để đo lường rủi ro thị trường. Tuy nhiên, việc thực hiện “stress
test” trước đây chỉ giới hạn ở một số nhân tố rủi ro và ít liên kết với quản trị rủi
ro tổng thể, kế hoạch kinh doanh và chi tiêu vốn của công ty.
 Stress test được xem như là biện pháp đo lường thận trọng ở
tầm vi mô hoặc để giám sát các ngân hàng cụ thể. Khuôn khổ Basel II yêu
cầu các ngân hàng thực hiện “stress test” đối với rủi ro thị trường và trong một
vài trường hợp, sử dụng kết quả “stress test” cho rủi ro tín dụng để đưa ra yêu
cầu vốn tối thiểu (trụ cột 1). Khảo sát của BCBS (2012) chỉ ra rằng các “stress
test” giám sát được sử dụng ngày càng nhiều để thiết lập yêu cầu vốn cho từng
ngân hàng cụ thể, quyết định mức vốn dự trữ rõ ràng hoặc giới hạn phân phối
vốn ngân hàng. Các tỷ số thanh toán trong khuôn khổ Basel III và các quy định
bảo hiểm ở châu Âu đều sử dụng “stress test” như là một phần không thể thiếu
trong khuôn khổ điều chỉnh.
 Stress test được xem như là biện pháp đo lường thận trọng ở
tầm vĩ mô để theo dõi giám sát hệ thống tài chính. Trong suốt hai thập kỉ
vừa qua, nhiều cơ quan quản lý tiền tệ ở các quốc gia bắt đầu thực hiện “stress
test” để phân tích rủi ro toàn hệ thống và các rủi ro riêng biệt của từng tổ chức.
16

Những kết quả này thường được công bố trong các báo cáo ổn định tài chính
của IMF.
 Stress test được xem như là công cụ quản lý rủi ro, ngăn ngừa

khủng hoảng. Stress test cũng được sử dụng, đặc biệt sau khủng hoảng gần
đây, để đánh giá các tổ chức tài chính quan trọng nào cần tái cấp vốn hoặc hỗ
trợ khác từ phía ngân hàng trung ương. Gần đây, các thử nghiệm được thực
hiện tại Mỹ và tổ chức CEBS/EBA thực hiện vào năm 2010 và 2011 đã thu hút
sự quan tâm bởi vì các ngân hàng được yêu cầu tái cấp vốn dựa trên các kết
quả thử nghiệm, phương pháp luận chi tiết và các kết quả của từng ngân hàng
cụ thể được công bố. Gần đây các chương trình của IMF áp dụng để hạn chế
tính trạng trì trệ của khu vực ngân hàng (bao gồm Ireland, Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kì), đã ước lượng nhu cầu tái cấp vốn ngân hàng thông qua stress test. Sử dụng
stress test như một công cụ quản lý rủi ro trong khủng hoảng là tương đối mới.
Phương pháp luận về quản lý rủi ro đã phát triển theo thời gian và việc sử
dụng stress test đã trở nên phổ biến. Bây giờ các tổ chức tài chính kì vọng có
thể quản lý cùng một lúc nhiều loại rủi ro hơn và các nhân tố rủi ro trong mối
liên hệ lẫn nhau thông qua phân khúc nội bộ của các bộ phận kinh doanh khác
nhau. Tương tự, stress test thận trọng vĩ mô đã phát triển từ thử nghiệm một
nhân tố đến thử nghiệm các viễn cảnh vĩ mô.
Tùy thuộc vào mục tiêu thực hiện stress test, các hành động quản lý hoặc
giám sát có thể được thực hiện. Các thử nghiệm thận trọng vĩ mô trong FSAPs
không quy định điển hình hành động cụ thể cho từng ngân hàng, mặc dù họ có
thể đưa ra các khuyến nghị chính sách thận trọng vĩ mô. Các stress test giám sát
được sử dụng ngày càng nhiều để hướng dẫn các hoạt động giám sát, bao gồm
việc cải thiện thu thập dữ liệu, kiểm tra mục tiêu và kiểm soát kĩ lưỡng hơn để
đưa ra các yêu cầu về hành động quản lý ngân hàng như là gia tăng thêm vốn,
17

giảm rủi ro, không chia cổ tức và cập nhật kế hoạch giải quyết vấn đề đang đối
mặt của từng tổ chức riêng lẻ. Stress test trong quản lý khủng hoảng được thiết
kế rõ ràng để ước lượng mức độ thiếu hụt vốn.
Bảng 1: Đặc điểm của các loại stress test
Đặc

điểm
Thận trọng vĩ mô

Thận trọng vi


Quản lý rủi
ro trong
khủng hoảng
Quản lý rủi
ro nội bộ
Mục
tiêu
chính
Công bố nguồn gốc
rủi ro hệ thống và
sự bất ổn để giám
sát và điều hành
quản lý toàn hệ
thống tài chính.
Đánh giá sức
khỏe và báo
cáo sự giám
sát của từng tổ
chức tài chính
riêng lẻ.
Thực hiện tái
cấp vốn và kế
hoạch tái cấu
trúc kinh

doanh.
Quản lý rủi
ro cho các
danh mục
đầu tư và đưa
vào kế hoạch
kinh doanh
nội bộ.
Được
thực
hiện bởi
Ngân hàng trung
ương, các cơ quan
điều hành tiền tệ
mang tính thận
trọng vĩ mô như
IMF
Cơ quan giám
sát hệ thống tài
chính (mang
tính thận trọng
vi mô)
Cơ quan giám
sát vĩ mô hoặc
vi mô
Các tổ chức
tài chính
Có thể
được
thực

hiện ở
Có thể thực hiện
trên tất cả các tổ
chức tài chính hoặc
các tổ chức quan
Thực hiện ở
từng tổ chức
riêng lẻ cần
giám sát (các
Đa dạng, có
thể bao gồm
tất cả các tổ
chức đang
Các tổ chức
tài chính
riêng lẻ.
18

các tổ
chức
trọng có ảnh hưởng
lớn đến toàn hệ
thống.
thử nghiệm
cho các ngân
hàng khác
nhau có thể
diễn ra ở
những thời
điểm khác

nhau).
trong tình
trạng kiệt quệ
và có nguy cơ
kiệt quệ.
Tính
thường
xuyên
Thường được thực
hiện một năm hoặc
nửa năm một lần
đối với cơ quan
điều hành tiền tệ
quốc gia, hoặc
trong khuôn khổ
của chương trình
FSAPs.
Từng tổ chức
tài chính có thể
được thử
nghiệm khi
cần thiết. Gia
tăng số lượng
kiểm soát điều
hành thông
qua stress test
Khi cần thiết.
Tần suất cao
(hàng ngày
hay hàng

tuần) cho các
rủi ro thị
trường, có
thể thực hiện
ở tần suất
thấp hơn cho
toàn doanh
nghiệp.
Bản
chất của
các biến
động
Các biến động
mang tính hệ thống
và thông thường là
tác động giữa các
tổ chức. Các biến
động này là rất lớn.
Thường là các
biến động cụ
thể; các giả
định vĩ mô đôi
khi được thực
hiện hoặc các
Các căng
thẳng hệ
thống đang
xảy ra hoặc
các biến động
tương đối nhẹ,

Có đặc trưng
riêng hay
mang tính hệ
thống (về
những vấn đề
của từng tổ
19

biến động
đáng quan tâm
giữa các tổ
chức.
chủ yếu tập
trung vào rủi
ro thanh toán.

chức tài
chính cụ thể).
Khả
năng kết
hợp các
rủi ro hệ
thống
Thông qua các biến
động ở mức độ thị
trường vĩ mô và
các đặc điểm mang
tính hệ thống (như
là các tác động
mạng lưới).

Thông qua các
biến động ở
mức độ thị
trường vĩ mô.
Thông qua các
biến động ở
mức độ thị
trường vĩ mô.
Thông qua
các biến động
ở mức độ thị
trường vĩ mô.
Khả
năng
biến
động
giả định
Thấp
Thấp
cao
Khác nhau
Tiêu
chuẩn
đánh
giá
Các yêu cầu điều
chỉnh hiện hành
hoặc tiềm năng và
đưa ra ngưỡng thay
thế nếu thích hợp

Các yêu cầu
điều chỉnh
hiện hành hoặc
tiềm năng và
đưa ra ngưỡng
thay thế nếu
thích hợp
Các yêu cầu
điều chỉnh
hiện hành
hoặc tiềm
năng và đưa ra
ngưỡng thay
thế nếu thích
hợp
Chỉ số mức
độ chịu đựng
rủi ro nội bộ
và các yêu
cầu điều
chỉnh.
20

Thước
đo đầu
ra chính
Các chỉ số tổng
hợp cho hệ thống
và sự biến động
của chúng

Các chỉ số an
toàn cho từng
tổ chức tài
chính.
Các chỉ số an
toàn cho từng
tổ chức tài
chính.
Các chỉ số an
toàn cho từng
tổ chức tài
chính.
Các
biện
pháp
tiếp theo
sau khi
thử
nghiệm
Thường là không
có các bước tiếp
theo cho các tổ
chức riêng lẻ,
nhưng được sử
dụng như là một
bước cơ bản cho
những thảo luận về
các thận trọng vĩ
mô tiềm năng hoặc
các đo lường cho

toàn hệ thống tài
chính.
Các tổ chức tài
chính có kết
quả stress test
không tốt thì
thường được
yêu cầu giải
thích và đưa ra
biện pháp quản
lý nếu cần
thiết.
Các tổ chức
“thất bại” thì
thường được
yêu cầu thực
hiện các biện
pháp quản lý
tài chính, như
là tái cấp vốn
với sự hỗ trợ
của chính phủ.
Có thể hoặc
không yêu
cầu hành
động quản lý.
Phát
hành
Thường xuyên
Hiếm khi

Thay đổi
Không
Bốn loại stress test cung cấp những thông tin khác nhau. Việc thông tin
giữa ngân hàng và cơ quan giám sát, giữa các cơ quan giám sát ở các quốc gia
hoặc giữa các nhóm FSAPs và các cơ quan quản lý tiền tệ quốc gia yêu cầu
phải có các phương pháp stress test hiệu quả. Mặt khác, việc công bố thông tin
về các kết quả stress test ra công chúng là không phổ biến, mặc dù gần đây điều
này đã thay đổi, đặc biệt đối với stress test quản trị rủi ro trong khủng hoảng.
21

Các kết quả stress test thận trọng vĩ mô được công bố trong các báo cáo ổn định
tài chính hoặc trong chương trình đánh giá ổn định hệ thống tài chính (FSAPs).
Trong các chương trình này stress test được thực hiện ở mức độ toàn hệ thống,
thường là không xác định cho từng tổ chức riêng lẻ. Việc phổ biến các kết quả
stress test là đang tranh cãi. Nhiều cơ quan quản lý tiền tệ quốc gia đã lên tiếng
liên quan đến sự phổ biến kết quả stress test có thể tạo ra các kì vọng không
thực tế, dẫn đến sự hiểu sai trong việc truyền thông đại chúng và làm giảm giá
trị stress test như là một công cụ giám sát làm ngân hàng tập trung quá nhiều
vào ảnh hưởng truyền thông đại chúng. Đối với FSAPs, các xuất bản là tự
nguyện.
3.3 Quy trình thực hiện stress test
3.3.1 Xác định phạm vi phân tích
Một bước quan trọng trong quy trình stress test vĩ mô là lựa chọn tập hợp
các tổ chức tài chính thích hợp. Việc nắm bắt toàn bộ khu vực tài chính là bao
quát toàn diện, nhưng thường rất khó vì đó là một nhiệm vụ phức tạp. Thông
thường, chúng ta chỉ chọn một phần của hệ thống tài chính và làm đơn giản giả
định để tạo ra mô hình và thực hiện stress test. Thường là thực hiện stress test
cho hệ thống ngân hàng bởi vì nó giải thích cho phần lớn hệ thống tài chính và
như Drehmann (2008) tranh luận “bởi vì vai trò nòng cốt của ngân hàng trong
việc biến đổi từ tiết kiệm sang đầu tư, vì vậy vị trí của nó trong việc truyền dẫn

các cú sốc trong toàn hệ thống tài chính ngược trở lại nền kinh tế thực là quan
trọng”. Một vài tác giả cũng tiến hành thử nghiệm các khu vực khác của hệ
thống tài chính như khu vực bảo hiểm và quỹ hưu trí (Cihak (2007)). Đôi lúc,
họ còn xem xét sự khác biệt giữa sở hữu nhà nước, tư nhân và ngân hàng nước
ngoài (Cihak 2007). Các ngân hàng này có thể được nhóm lại theo mức độ vốn
hóa (lớn, vừa và nhỏ) hoặc tình hình hoạt động (ngân hàng mạnh và ngân hàng
22

yếu). Hơn nữa, việc cân nhắc các loại tài sản được đưa vào thực hiện stress test
cũng là một vấn đề cần quan tâm. Xác định danh mục tài sản liên quan để thực
hiện stress test vĩ mô phụ thuộc một phần vào tính chất của những rủi ro được
phân tích và trên dữ liệu sẵn có.
Vì hạn chế về dữ liệu nên nhiều phương pháp nghiên cứu đã xây dựng
danh mục giả định được thiết kế bằng cách mô phỏng theo sự phân chia tài sản
và rủi ro trong hệ thống tài chính. Ngược lại, những nghiên cứu khác sử dụng
dữ liệu thực nên phân tích thường giới hạn trong một vài ngân hàng lớn có tầm
quan trọng trong hệ thống và dữ liệu về các tổ chức này là có sẵn, được công bố
rộng rãi trên thị trường. Đối với việc lựa chọn loại tài sản để đưa vào phân tích,
cho đến nay stress test vĩ mô chủ yếu tập trung vào các loại tài sản trên sổ sách
ngân hàng. Một vài mô hình phân biệt rủi ro theo phân loại đối tượng cho vay
(cho vay người tiêu dùng, cho vay liên ngân hàng, cho vay doanh nghiệp được
phân chia theo ngành nghề lĩnh vực hoạt động), ví dụ Boss (2002), Sorge &
Virolainen (2006) hoặc Jakubik & Schmieder (2008).
Ngay cả khi phạm vi phân tích đã được xác định về tập hợp tổ chức và
loại tài sản thì việc đo lường rủi ro không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Trong
thực tế, danh mục tài sản thay đổi liên tục qua thời gian theo nhu cầu đầu tư và
các chiến lược bảo hiểm rủi ro của từng tổ chức. Bản chất thực sự của bất kỳ
khoản tín dụng có thể tìm thấy từ các khoản giải ngân cho vay và hồ sơ trả nợ
của khách hàng hoặc được đặc trưng bởi nợ khó đòi, không chắc chắn thu hồi.
Hơn nữa, các tổ chức tài chính có thể tái phân bổ danh mục tài sản của họ để

phản ứng với những cú sốc kinh tế vĩ mô và do đó làm thay đổi bản chất rủi ro
bên trong của những tổ chức này.

×