Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Các lý thuyết công tác xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.25 KB, 30 trang )

CHƯƠNG 3

CÁC LÝ THUYẾT CÔNG TÁC XÃ HỘI

1. Thuyết Năng động tâm lý/ trường phái phân tâm học
1.1
Nội dung chính của thuyết
1.1.1 Bản năng – Bản ngã và siêu ngã
Bản chất của con người bao gồm 3 hệ thống: id (bản năng), ego (bản ngã) và
siêu ngã.
Bản năng: đại diện cho những động cơ bẩm sinh. Đây là phần chúng ta có
chung với loài vật. Bản năng họat động trên nguyên tắc khoái lạc, thỏa mãn tức
thời. Bản năng quan tâm đến việc đáp ứng các nhu cầu sinh học như đói ăn, khát
uống… Bản năng phát triển quá mạnh sẽ làm cho con người trở nên dã man, thú
tính.
 Hệ thống căn bản khởi thủy của nhân cách
 Mù quáng, chỉ biết đòi hỏi, trái với đạo đức
 Giải tỏa căng thẳng tức thì để trở về trạng thái cân bằng
 Tránh nỗi đau, tìm lạc thú
 Chỉ biết ước muốn và hành động
 Chủ yếu là phần vô thức, hoặc ngoài tầm ý thức
 Có thể ví như đứa con nít
Siêu ngã (cái Thiện): đối nghịch với bản năng, siêu ngã là phần cao cấp. Nơi
siêu ngã, những giá trị của cá nhân, những nguyên tắc đạo đức được hình thành
giúp con người phân biệt phải trái. Phần siêu ngã ở mỗi cá nhân khác nhau, tùy
thuộc vào những giá trị của xã hội, nền giáo dục của gia đình. Cha mẹ có siêu ngã
mạnh và phát triển tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành một siêu ngã
mạnh nơi con cái, giúp trẻ có cảm thức về tội lỗi.
 Tiếng nói của lương tâm
 Tìm sự hoàn thiện
 Ngăn cấm những xung động của bản năng


 Phần thưởng của siêu ngã: cảm giác tự hào và quý trọng mình
 Hình phạt của siêu ngã: mặc cảm tội lỗi và tự ti
 Có thể ví như bậc cha mẹ
Bản ngã (cái Tôi): là cái biểu hiện ra bên ngoài mọi người đều thấy. Bản ngã
duy trì sự cân bằng giữa bản năng và siêu ngã liên quan đến những đòi hỏi của con
người. Khi một người đói, bản năng sẽ yêu cầu con người thỏa mãn cơn đói bằng
mọi cách (kể cả ăn cắp), siêu ngã chống lại bản năng bằng cách đưa ra những quy
tắc đạo đức, giá trị bản thân (lòng tự trọng) và bản ngã sẽ giúp con người chọn
thỏa mãn cái đói bằng cách thức xã hội chấp nhận được. Như vậy, bản ngã họat
động trên nguyên tắc thực tế. Bản ngã giúp chế ngự những ham muốn bất chính,
chống lại sự thất vọng, kiểm sóat căng thẳng, phân tích tổng hợp tình hình thực
tế….
 Tiếp xúc với thế giới thực tại bên ngoài, bộ phận “điều hành” của nhân
cách
 Trung gian giữa siêu ngã và bản năng
 Hoạt động theo quy luật thực tế
 Có thể ví như người trường thành

Chính bản ngã và siêu ngã làm cho con người khác với loài vật. Tuy nhiên cần
có sự kết hợp hài hòa giữa siêu ngã và bản ngã để những cảm giác có tội sinh ra từ
siêu ngã được bản ngã xử lý có hiệu quả và hợp lý tạo điều kiện cho con người
phát triển quân bình và lành mạnh. Nếu siêu ngã quá khắt khe, cảm giác tội lỗi sẽ
áp đảo và ảnh hưởng đến tòan bộ nhân cách. Trong nhiều trường hợp tự tử, người
ta thấy nguyên do đến từ cảm giác tội lỗi quá lệch lạc của đương sự.
Trong ba thành phần cấu tạo nên bản chất con người, bản ngã là thành phần
quan trọng nhất. Nó không ngừng đối phó với những lực nội tại cũng như ngoại lai
và trưởng thành lên theo thời gian.

1.1.2 Chức năng chính của bản ngã
Theo Schammes (1996), bản ngã có một số chức năng ý thức và vô thức sau

đây:
 ý thức môi trường bên ngoài: bản ngã định hướng chính xác về thế giới bên
ngoài. Nó xác định thời gian, không gian, con người và phân biệt ảo giác, ảo tưởng
và các mối liên kết hời hợt
 phán đoán: khả năng phán đoán của bản ngã giúp ta chọn lựa hành vi phù
hợp trong những hoàn cảnh khác nhau để đạt mục tiêu
 khả năng nhận thức: đây là khả năng tạo ra những giới hạn tâm lý phù hợp
(than mật hay giữ khoảng cách) trong tương quan với người khác
 kiểm sóat xung lực: bản ngã phân biệt các lọai xung lực, kiểm sóat hành vi
thái độ và tình cảm ở mức độ sao cho phù hợp với các quy tắc xã hội
 điều tiết quá trình tư duy: đây là khả năng ghi nhớ, tập trung và đánh giá
tình hình của bản ngã để đưa ra những hành vi và cảm xúc phù hợp
 tạo tương quan: bản ngã có khả năng quản lý các mối tương quan nhằm đạt
mục tiêu cá nhân và khả năng nhìn nhận mỗi người là một cá thể độc đáo
 tạo cơ chế tự vệ: bản ngã giúp ta giảm thiểu lo lắng
 điều tiết các tác nhân kích thích: đây là khả năng sàng lọc và chọn lựa các
tác nhân kích thích bên ngòai để duy trì, tập trung vào điểm trọng tâm của đời
người, giúp ta tránh hời hợt/buông thả hay kiệt lực
 tự trị: đây là khả năng duy trì sự chú ý, tập trung, trí nhớ, trí hiểu
 duy lý hóa: tránh những cảm xúc không thể chấp nhận được bằng cách nghĩ
đến hay nói về những cảm xúc này một cách vô cảm (một người nói với tư vấn
viên là cô ta rất buồn nhưng không biểu lộ cảm xúc buồn bã). Điều này làm cho
đương sự không hiểu được vấn đề tác động lên cuộc sống của mình thế nào

1.1.3 Cơ chế phòng vệ
Nhân viên xã hội ứng dụng thuyết năng động tâm lý cần phải nhạy bén với cơ
chế phòng vệ mà thân chủ sử dụng bởi vì cơ chế này tác động rất nhiều đến khả
năng giải quyết vấn đề của thân chủ. Phòng vệ là sự đáp trả vô thức, tự động giúp
ta giảm thiểu những nguy cơ, đối phó với lo lắng. Người ta có thể sử dụng những
cách phòng vệ lành mạnh hoặc có hại. Đây là điều nhân viên xã hội cần biết.

 chối từ hay phủ nhận : không nhìn nhận thực tế vì nó có hại cho sự an toàn
của tôi. Bóp méo những suy nghĩ và cảm nhận của mình trong một hoàn cảnh bi
đát nào đó. Nhắm mắt trước những thực tế đáng lo sợ vì những thực tế này quá
đau đớn không thể chấp nhận được (không chấp nhận mình quá ốm hay quá mập
mà cho rằng mình coi được, không tin vào chẩn đoán của bác sĩ).
 Tiếp nhận: lấy suy nghĩ của người khác làm của mình để tránh xung đột
trực tiếp (người vợ bị đánh cho rằng mọi sự là lỗi của mình vì đã bị ông chồng
“nhét” vào đầu tư tưởng chị là người không biết cách chăm sóc chồng)
 Dời chỗ/ Hóan đổi – giận cá chém thớt: chuyển những cảm xúc tiêu cực về
một ai đó hay một sự việc nào đó lên người khác. Giải tỏa ức chế bằng cách
chuyển từ đối tượng nguy hiểm qua đối tượng an toàn hơn (giận chồng mà không
đánh chồng được nên đánh con)
 Phóng chiếu: quy kết những cảm nghĩ, tình cảm của mình cho người khác.
Gán cho người khác những ước muốn và những xung động bất ổn mà chính mình
có, để khỏi phải đối diện với vấn đề của mình (anh thanh niên không muốn giận
bạn gái, vì thế khi anh ta có bất đồng với cô ấy thì anh cho rằng cô giận anh)
 Thóai lui/ co về quá khứ: quay lại những hành vi thiếu chín chắn ở giai
đoạn đầu của sự phát triển. Trở về hình thái trước đây của mình trong những giai
đoạn phát triển đã qua. Để đối phó với những tình huống quá căng thẳng, con
người thường bám vào những hành vi thiếu trưởng thành mà thuở nhỏ mình vẫn
làm vì thời đó là thời người ta cảm thấy an toàn trong tay mẹ (em bé 8 tuổi đái
dầm sau khi biết kết quả thi ở trường tệ).
 Viện lý/lý sự: tìm lý do để biện minh hành động không được xã hội chấp
nhận (ăn cắp viện lý do giúp người nghèo). Đưa ra những lý do để biện hộ cho
những hành vi và bản ngã bị tổn thương của mình (VD: xin việc nhưng bị từ
chối…
 Nhập nội: Cho vào , «nuốt vào» những giá trị và những chuẩn mực của
người khác. Chấp nhận điều tiêu cực người khác gán cho mình mặc dù mình
không có điều tiêu cực đó để tránh va chạm. Thí dụ: người bố luôn luôn mắng
chửi đứa con là “đồ ngu”, đứa con chấp nhận điều đó (vì không thể cãi lại bố) và

càng ngày càng học kém vì mất tự tin và ý chí học hỏi.
 Dồn nén: Đây là cơ chế thông thường mà con người hay dùng, giúp đối phó
với sự lo lắng và cứu con người khỏi bị choáng ngợp vì lo. Những ý nghĩ và cảm
xúc đáng sợ bị đẩy ra khỏi ý thức một cách tự động. Đa số những kinh nghiệm đau
đớn của tuổi thơ (1-5 tuổi) đều bị đẩy ra khỏi ý thức, nhưng vẫn ảnh hưởng đến
hành vi con người sau này
 Cao thượng hóa: Tái định hướng những xung động về tính dục và gây hấn
vào những hoạt động có ích và được xã hội chấp nhận
 Bù trừ: Che đậy những yếu điểm của mình bằng cách hình thành một số nét
trội nào đó để bù trừ cho những giới hạn của mình (là học sinh giỏi nhất không
được thì tìm cách là học sinh phá nhất)

1.1.4 Các giai đoạn phát triển
Theo Erikson (1968), sự trưởng thành của con người chia ra 8 giai đoạn; mỗi
giai đoạn có một giá trị riêng, và khi vượt qua từng giai đoạn, con người phải trải
qua những khủng hoảng và mâu thuẫn do hai lực: lực đẩy do điều kiện sinh lý của
bản thân và lực kéo của môi trường văn hóa xã hội của giai đoạn đó, và tùy theo
mức độ thành công hay thất bại, sẽ đạt được nhiều hay ít giá trị của giai đoạn đó.
Mức độ giá trị đạt được này có ảnh hưởng rất lớn đến bản ngã của con người
trưởng thành.




Giai đoạn
cuộc đời
Giá trị Thách đố về mặt
tâm lý
Tác nhân
quan trọng

Sơ sinh Hy vọng Tin tưởng ><
nghi ngờ
Người mẹ
Tập đi Ý chí Tự chủ >< xấu
hổ, rụt rè
Bố mẹ
Mẫu giáo Có chủ
đích
Chủ động >< cảm
giác tội lỗi
Gia đình
Nhi đồng Năng
lực
Năng nổ, hiệu quả
>< tự ti
Lối xóm
Vị thành
niên
Trung
thực
Khẳng định bản
thân, biết mình ><
mơ hồ về căn tính
của mình, phân tán
nhân cách
Nhóm Đồng
đẳng
Thanh
niên
Yêu

thương
Thân thiết, gần
gũi >< tách biệt, cô
độc
Bạn khác
phái
Tráng niên

Chăm
sóc
Năng động, tác
tạo >< tự đủ, trì trệ
Gia đình
riêng
Lão niên Trí tuệ Mãn nguy
ện ><
căm ghét, thất vọng
Nhân sinh


1.2 Đánh giá và can thiệp CTXH
1.2.1 Đánh giá
Nhân viên xã hội đánh giá điểm mạnh và những giới hạn về chức năng bản ngã
của từng thân chủ bằng cách hỏi trực tiếp thân chủ hoặc hỏi những người khác
hoặc xem xét các nguồn dữ liệu sẵn có như bệnh án, hồ sơ cảnh sát… để tìm ra
những khiếm khuyết về mặt thể lý ảnh hưởng đến chức năng bản ngã, những yếu
tố kích thích và khả năng tự trị của thân chủ. Việc đánh giá quá trình phát triển
tâm lý của thân chủ đòi hỏi phải xem lại những kinh nghiệm quan trọng trong quá
khứ vì theo tâm lý bản ngã, mọi giai đoạn phát triển được xây dựng trên nền tảng
các giai đoạn trước đó và mọi trục trặc trong giai đoạn phát triển có thể gây ra sự

bộc phát các hành vi bất thường.
Việc thu thập thông tin sẽ giúp nhân viên xã hội tác định những kỹ năng cần
thiết cho thân chủ trong quá trình phát triển

1.2.2 Can thiệp
Phẩm chất mối tương quan giữa thân chủ và nhân viên xã hội vô cùng quan
trọng, quyết định kết quả can thiệp. Ban đầu, nhân viên xã hội phải làm sao tạo
được những tương quan cảm xúc tích cực nơi thân chủ qua việc cùng hợp tác, thỏa
thuận mục tiêu can thiệp và làm cho đôi bên có cảm giác thỏai mái khi làm việc
với nhau. Muốn vậy, nhân viên xã hội phải có kỹ năng thấu cảm (nhạy cảm và
nhận thức đúng mọi cảm xúc của thân chủ, tỏ ra hiểu thân chủ) và lòng chân thực
(thái độ tự nhiên và thành thật).
Có hai hướng can thiệp ứng dụng thuyết năng động tâm lý:
 duy trì bản ngã nếu khám phá ra rằng chức năng bản ngã của thân chủ
không bị tổn hại. Phương pháp này giúp thân chủ hiểu rõ hơn về những
động cơ và hành vi của mình và vận dụng những điểm mạnh của bản thân
để giải quyết vấn đề. Với phương cách này, thân chủ được (a) khuyến khích
phát triển và duy trì những tương quan tích cực, (b) khám phá, diễn tả và
giải tỏa những cảm xúc để có cái nhìn khách quan về những khó khăn hiện
tại (c) phản ánh tình hình và con người, tìm ra những giải pháp cho vấn đề
hiện thời. Nhân viên xã hội có thể chỉ cho thân chủ các nguồn tài nguyên
sẵn có hay tác động trực tiếp lên thân chủ, đặc biệt khi thân chủ đang gặp
khủng hỏang và không thể phán đóan tốt được.
 thay đổi bản ngã: kỹ thuật này được sử dụng khi nhân viên xã hội khám phá
ra rằng trong quá khứ, thân chủ có lúc đã trải qua những giai đoạn thích
nghi không tốt trong quá trình phát triển. nhân viên xã hội tạo điều kiện để
thân chủ tự ý thức bằng cách (a) khám phá ra các kiểu hành vi bất thường
của thân chủ, (b) cho giải thích mới về các kiểu tương quan (c) đối phó với
những cơ chế tự vệ lệch lạc (d) sửa chữa những lỗ hổng trong quá trình phát
triển và (e) hướng dẫn thân chủ đi vào những tương quan đúng đắn


2. Thuyết hành vi
Bản chất của con người theo thuyết hành vi: con người là cái mà họ làm.
2.1 Một số nguyên tắc căn bản và những giả định của thuyết hành vi:
 Hành vi là tất cả những sinh hoạt và phản ứng của con người mà quan sát
được hay đo lường được. Ví dụ các cử động, tư thế cơ thể, giọng nói cũng như tất
cả những gì thay đổi bên ngoài mà ta nhận ra được. Chỉ những gì quan sát được
mới đáng kể, phần trừu tượng trong hoạt động của tâm lý không đáng quan tâm
 Con người có khuynh hướng tự nhiên tìm kiếm lạc thú và tránh khổ đau.
Hành vi của con người thường hướng đến mục tiêu này.
 Mọi người học cách cư xử từ những phản ứng trực tiếp của môi trường, từ
việc quan sát người khác hành xử ra sao.
 Hành vi có thể thay đổi được
 Cần lý giải hành vi cách đơn giản.
 Biện pháp giúp thay đổi ứng xử tập trung vào phản ứng có tính cách
khuyến khích hay trừng phạt. Những biện pháp này phải tức thời và trước sau như
một, không thay đổi. Khuyến khích thường tạo ra những thay đổi nhanh nhất.
Khuyến khích có thể được hiểu là bất kỳ phản ứng của môi trường tạo ra tính liên
tục của hành vi, làm cho hành vi tiếp tục lập lại. Ví dụ trẻ đánh bạn được sự đồng
tình của người khác sẽ tiếp tục đánh bạn. Trừng phạt là những phản ứng của môi
trường ngăn cản hành vi tiếp diễn. Cũng trẻ ở trên khi đánh bạn bị trừng phạt sẽ
không đánh bạn nữa.
Mọi hành vi đều bị ảnh hưởng bởi các nguyên tắc học hỏi bao gồm nguyên tắc
điều kiện cổ điển, điều kiện hóa phản ứng.

2.1.1 Điều kiện hóa cổ điển
Khoa học hành vi cho rằng một kích thích nhất định nào đó sẽ tạo nên những
phản ứng vô tình ở đối tượng. Quá trình này được Iwan P. Pavlov nhà sinh lý học
người Nga gọi là điều kiện hóa cổ điển. Điều kiện hóa là một quá trình phát triển
các dạng hành vi thông qua những đáp trả lại kích thích của môi trường hay những

kích thích của hành vi cụ thể nào đó. Nó là quá trình mà trong đó một kích thích
trung tính liên kết lập đi lập lại nhiều lần tạo ra dấu hiệu và phản ứng nhất định nơi
đối tượng.
Thí nghiệm của Pavlov cho thấy rõ quá trình này. Khi con chó nhìn hay ngửi
thấy đồ ăn (kích thích tự nhiên, không điều kiện), tự nhiên nó chảy nước dãi vì
sinh lý (phản ứng tự nhiên). Bây giờ gõ tiếng chuông (kích thích có điều kiện)
cùng lúc cho đồ ăn thì con chó không có phản ứng gì khác ngoại trừ một ít tò mò.
Pavlov đã phối hợp cả hai kích thích nhiều lần và con chó cứ nghe tiếng chuông là
có phản ứng chẩy nước rãi. Ông Pavlov gọi phản ứng này là phản ứng được tập
luyện (phản ứng có điều kiện) (conditioned reaction CR).





Kích thích tự nhiên
(unconditioned stimulus
UCS)
= đồ ăn
Phản ứng tự nhiên
(unconditioned reaction
UCR)
= Tiết nước rãi
Kích thích trung tính
(neutral stimulus NS)
= Tiếng chuông
Kích thích tập luyện (cưỡng
bức)
(conditioned stimulus CS)
= Tiếng chuông

Phản ứng tập luyện (cưỡng bức)

(conditioned reaction CR)
= Tiết nước rãi khi nghe
tiếng chuông




Điều kiện hóa cổ điển giúp ta hiểu các vấn đề thân chủ đã trải qua. Những kích
thích trung tính như một nơi chốn, một người, một tâm trạng nào đó có thể làm
nảy sinh những hành vi có vấn đề. Một vết chó cắn có thể tạo nên sự sợ hãi loài
chó. Vì thế, can thiệp dựa trên nguyên tắc đảo nghịch, nghĩa là giúp thân chủ trở
về với tình trạng an toàn trước đó. Thân chủ được dạy cách dần dần đương đầu với
căng thẳng.




2.1.2 Ðiều kiện hóa phản ứng /có hiệu lực
Ðiều kiện hóa phản ứng cho rằng hành vi tương lai được quyết định bởi những
hậu quả của hành vi hiện tại. Những điều kiện có trước có thể gây ra hành vi, có
hai dạng củng cố trong mô hình này: dạng tích cực và dạng tiêu cực.
Xét một người nào đó có những hành vi do ngẫu nhiên hoặc đột khởi. Sau đó
người ấy có những cảm nhận về kết quả của hành vi. Kết quả này có thể là dễ
chịu, trung tính hoặc khó chịu. Nếu cảm nhận là dễ chịu người đó sẽ có khuynh
hướng tái lập hành vi đó, ngược lại nếu khó chịu sẽ có khuynh hướng tránh hành
vi đó đi * Mô hình cơ bản là R → S
Đặc biệt đối với những hành vi sử dụng chất gây nghiện có một động lực kép
khiến người nghiện bị thôi thúc mạnh mẽ phải tiếp tục hành vi đó là họ phải thực

hiện hành vi để có được những khoái cảm do chất gây nghiện mang lại đồng thời
để tránh những khó chịu do không sử dụng gây ra.

2.2 Đánh giá và can thiệp CTXH
2.2.1 Đánh giá
Sau khi giúp thân chủ hiểu rõ nguyên tắc can thiệp hành vi, nhân viên xã hội có
thể thực hiện việc đánh giá qua tiến trình phân tích chức năng hành vi













Trước hết, hành vi có vấn đề của thân chủ phải được xác định rõ ràng, cụ thể.
Kế tiếp, nhân viên xã hội xác định những điều kiện môi trường nào đã làm cho
hành vi được củng cố và duy trì. Sau cùng cũng phải xem xét hệ quả của hành vi.
Trong suốt quá trình đánh giá, nhân viên xã hội có thể hỏi những câu hỏi sau:
 Vấn đề của bạn là gì?
 Vân đề này bắt đầu xảy ra khi nào?
 Vấn đề này xảy ra trong những tình huống nào?
 Cái gì có khuynh hướng xảy ra trước khi vấn đề xảy ra? (bạn/ hay ai
đó thường làm gì trước khi vấn đề xảy ra)
 Cái gì có khuynh hướng xảy ra sau khi vấn đề xảy ra? (bạn/ hay ai

đó thường làm gì sau khi vấn đề xảy ra)
Dấu hiệu xã hội
Dấu hiệu môi trường
Dấu hiệu cảm xúc Hành vi Hệ quả
Dấu hiệu nhận thức
Dấu hiệu thể lý

Sơ đồ phân tích chức năng hành vi
 Khi vấn đề xảy ra có ai hiện diện?
 Vấn đề xảy ra bao lâu một lần? thông thường vào giờ nào (trong
ngày/tuần/tháng/năm)
 Vấn đề kéo dài trong bao lâu?
 Vấn đề này ảnh hưởng đến đời sống của bạn như thế nào?
 Khi vấn đề xảy ra, bạn nghĩ gì?
 Khi vấn đề xảy ra, bạn cảm thấy thế nào? Phản ứng của cơ thể ra
sao?
 Bạn đã làm gì để giải quyết hay giảm thiểu vấn đề? Kết quả thế nào?
 Những người xung quanh bạn thường làm gì khi vấn đề xảy ra?

Nhân viên xã hội có thể hỏi thân chủ các câu hỏi theo 5 lãnh vực liên quan đến
vấn đề

Lãnh
vực
Tiền tố (Dấu hiệu) Hệ quả (yếu tố củng cố)

hội
Đa phần thời gian thân chủ ở
với ai?
Thân chủ có tương quan với

những người không có vấn đề này
không?
Thân chủ có sống với người liên
quan đến vấn đề không?
Mạng lưới xã hội của thân chủ
có thay đổi không khi vấn đề bắt
đầu xuất hiện hay trầm trọng?
Các tương quan của thân chủ
bị ảnh hưởng như thế nào?
Môi
trường
Những ai, nơi nào, sự vật/việc
gì đóng vai trò tiền tố của vấn đề?
Mức độ thân chủ tiếp xúc với
các tiền tố này ra sao? Có dễ tránh
không?
Những ai, nơi nào, sự vật/việc
đã bị ảnh hưởng bởi vấn đề này?
Môi trường của thân chủ có
thay đổi vì vấn đề này không?
Cảm
xúc
Tình trạng cảm xúc trước khi
vấn đề xảy ra?
Sau khi vấn đề xảy ra thân chủ
cảm thấy thế nào?
Thân chủ cảm thấy thế nào về
bản thân mình?
Nhận
thức

Những tư tưởng nào diễn ra
trong đầu của thân chủ hay thân
chủ có niềm tin gì đối với vấn đề
này?
Sau đó thân chủ nghĩ gì?
Thân chủ tự nhủ gì?
Thể lý Những tình trạng thể lý khó
chịu nào xuất hiện trước khi vấn đề
xảy ra?
Sau đó, thân chủ cảm thấy thể
lý thế nào?
Hậu quả sức khoẻ thể lý của
thân chủ ra sao?

Từ việc phân tích hành vi này, nhân viên xã hội xác định được các yếu tố kích
thích làm củng cố và duy trì hành vi. Dựa trên đó, nhân viên xã hội lập kế hoạch
cùng với thân chủ xây dựng mục tiêu điều chỉnh hành vi bằng cách xem xét các
điều kiện và sự kiện xảy ra trước khi hành vi bắt đầu xuất hiện để từ đó đề ra
những mục tiêu cụ thể để đem lại những hành vi mới như mong ước. Thân chủ và
những người tác động quan trọng đến thân chủ như bạn đời, bạn thân, giáo viên
thống nhất vai trò của mình trong việc giúp thân chủ thay đổi hành vi.

2.2.2 Can thiệp
Mặc dù việc trị liệu hành vi phải theo một cấu trúc chặt chẽ nhưng tương quan
giữa nhân viên xã hội và thân chủ cũng phải được coi trọng. Nhân viên xã hội phải
tỏ ra là người đáng tin cậy, có khả năng và tận tụy nếu không nhân viên xã hội có
thể tạo ra nơi thân chủ một vài hành vi phòng vệ đối phó lại cảm giác bị đe dọa.
Nhân viên xã hội phải hết sức thận trọng không nên sử dụng hành vi trừng phạt
đối với thân chủ vì việc trừng phạt có thể tạo ra sự xa lánh.
Những đặc điểm của mô hình can thiệp theo trường phái hành vi

 Tính khoa học
 Tính năng động
 Nhấn mạnh hiện tại
 Nhấn mạnh sự cộng tác của thân chủ
 Nhấn mạnh việc học hỏi
 Tính cá nhân hóa
 Sự tiến bộ theo mô hình bậc thang
 Thời gian trị liệu ngắn
 Trị liệu trọn gói

Tiến trình can thiệp theo thuyết hành vi gồm các bước sau:
 xác định vấn đề của thân chủ theo thuyết hành vi (Làm rõ nghĩa
những từ trọng tâm mà thân chủ dùng khi trình bày vấn đề, đổi vô
số những vấn đề và những lời than phiền chung chung thành một
hai hành vi cụ thể)
 nhân viên xã hội và thân chủ thu thập thông tin về vấn đề
 xác định hành vi mục tiêu -> Phân nhỏ hành vi mục tiêu -> Xếp các
hành vi mục tiêu phân nhỏ theo thứ tự (một hành vi mục tiêu tốt
phải nhỏ, cụ thể, đo lường được, thích hợp với vấn đề và thân chủ
 cụ thể hóa các bước cần thiết để giải quyết vấn đề
 xác định các kết quả cụ thể có thể có được khi trị liệu
 xác định nguồn lực môi trường và tài nguyên con người của thân chủ
có thể tạo ra sự đổi thay. Nhận dạng và tìm ý kiến của những người
có thể tham gia vào tiến trình can thiệp (thường những người này là
những người đóng vai trò củng cố hoặc kích thích hành vi)
 dự đoán những trở ngại có thể có ngăn cản việc đạt được mục tiêu và
lên kế hoạch giảm thiểu những trở ngại này
 chọn lựa chiến lược can thiệp phù hợp với sự tham gia của thân chủ
và với trọng tâm là tạo ra những kết quả tích cực cho các hành vi
mới. Nên chú trọng đến hành vi đem lại phần thưởng hơn là đem lại

sự trừng phạt
 nhân viên xã hội, thân chủ và người khác thu thập các dữ liệu liên
quan đến hoạt động của thân chủ. Những chuyển biến của thân chủ
phải được ghi chép đều đặn
 thân chủ và nhân viên xã hội thường xuyên đánh giá tiến trình can
thiệp, so sánh tình trạng ban đầu với hành vi mới được thiết lập
 quá trình can thiệp chấm dứt khi thân chủ đạt được mục tiêu và tỏ ra
ý muốn duy trì kết quả đạt được
Phương pháp can thiệp theo thuyết hành vi có thể sử dụng trong các trường
hợp trẻ em bị đối xử tệ bạc, bạo lực học đường, lạm dụng chất kích thích, tội
phạm, mâu thuẫn gia đình, bạo hành gia đình, các vấn đề bệnh lý mãn tính

3. Thuyết nhận thức
3.1 Nội dung chính của thuyết
Nhận thức là sự hiểu biết của cá nhân về sự vật. Thuyết nhận thức chủ trương
mỗi cá nhân có một suy nghĩ và hiểu biết riêng về sự vật, cách thu nhận và diễn
giải các thông tin, đánh giá các kinh nghiệm, các phán đoán, và quyết định cách
ứng xử. Tất cả những khái niệm này được Piaget gọi là cấu trúc nhận thức. Cấu
trúc nhận thức là cách người ta suy diễn sự vật, phân tích các thông tin, tạo ra sự
hiểu biết về sự vật, ảnh hưởng đến cảm xúc và cách ứng xử. Nói cách khác, cảm
xúc và cách ứng xử của con người là sản phẩm của cấu trúc nhận thức khi đánh
giá các thông tin đến từ thế giới chung quanh cá nhân (nhận thức quyết định cảm
xúc và hành vi). Cấu trúc nhận thức được hình thành và phát triển bằng học hỏi
qua kinh nghiệm sống của bản thân và qua sự quan sát, học hỏi từ ngoại cảnh.
Những kinh nghiệm mới phù hợp với cấu trúc nhận thức được sát nhập vào nó;
ngược lại, khi gặp những kinh nghiệm mới trái ngược với cấu trúc nhận thức,
người ta sẽ chỉnh sửa lại cấu trúc nhận thức để chứa đựng được kinh nghiệm mới.
Beck (1995) mô tả mối quan hệ giữa niềm tin, cảm xúc, và ứng xử như sau: sự
vật diễn ra (A - activating event) dẫn đến tư tưởng hay niềm tin (B - belief); tư
tưởng hay niềm tin dẫn đến cảm xúc hay hành động (C - consequences). Ví dụ

người trầm cảm có một thành kiến tiêu cực về sự vật và thế giới. Tức là trong cấu
trúc nhận thức/cognitive schemas của những người trầm cảm có sẵn ba thành kiến
tiêu cực: tôi không có giá trị, tôi càng ngày càng tệ hơn, thế giới này là một nơi
không an lành. Vì có những thành kiến như thế nên khi sự việc diễn ra (A) họ suy
diễn (B) theo hướng tiêu cực và dẫn đến buồn bã (C).
Albert Ellis (1962), một trong những người áp dụng thuyết nhận thức đầu tiên
trong tâm lý trị liệu, tin rằng phần đông con người có cách suy nghĩ hẹp hòi và
không hợp lý về sự vật và về cách phải ứng xử như thế nào để được an toàn trong
cuộc sống. Do đó, mục tiêu của tâm lý trị liệu là giúp thân chủ có được cách suy
nghĩ đúng đắn về cuộc đời và về cách ứng xử thích hợp.
Thuyết Nhận Thức chủ trương cá nhân gặp khó khăn vì rơi vào một trong ba
trường hợp sau:
 Không có nhận thức/cognitive deficit.
 Nhận thức cứng nhắc/cognitive rigidity: trắng đen, có không,
đúng sai…
 Nhận thức lệch lạc/cognitive distortion: tức là những tin tưởng
sai, dựa trên một cấu trúc nhận thức tiêu cực, thí dụ: bị xử ức
nhưng không khiếu nại vì “khiếu nại cũng chẳng đi đến đâu”.

3.2 Đánh giá và can thiệp CTXH
Trong quá trình Đánh giá và can thiệp CTXH nhân viên xã hội phải luôn luôn
ý thức rằng thân chủ những nhận thức định kiến, do đó nhân viên xã hội nên:
 không ngừng kiểm tra niềm tin và thái độ của mình đối với thân
chủ
 xây dựng và đánh giá các loại giả thiết về tình trạng của thân chủ
 xem xét và sắp xếp thư tự ưu tiên các giả thiết tích cực và tiêu
cực về thân chủ
 sử dụng các công cụ đánh giá những thay đổi của thân chủ
 sử dụng các nguồn phản hồi khác như người giám sát, nhóm
đồng đẳng có quan hệ với thân chủ


3.2.1 Đánh giá
Trước hết nhân viên xã hội chỉ cho thân chủ thấy tính logic của lý thuyết nhận
thức. Sau đó, nhân viên xã hội đánh giá niềm tin của thân chủ, xác định những
niềm tin lệch lạc gây ra vấn đề hiện tại. Niềm tin của thân chủ được đánh giá qua
một tiến trình gọi là “chất vấn kiểu Socrat” (Socrat dạy học bằng cách đặt câu hỏi
cho sinh viên trả lời cho đến khi ra câu trả lời). nhân viên xã hội đánh giá tính xác
thực của các giả định của thân chủ lien quan đến vấn đề qua việc đặt câu hỏi. Sau
khi thân chủ mô tả vấn đề hiện tại, nguồn gốc phát sinh vấn đề, nhân viên xã hội
có thể hỏi các dạng câu hỏi sau để đánh giá:
 trước hết, khám phá niềm tin cốt lõi liên quan đến vấn đề hiện tại
của thân chủ (anh/chị nghĩ gì khi……? Anh/chị kết luận sao?
Việc đó có ý nghĩa gì đối với anh/chị?
 Đằng sau niềm tin cốt lõi liên quan đến vấn đề hiện tại của thân
chủ có gì logic?
 Có gì hỗ trợ cho quan điểm của thân chủ
 Có những giải thích nào khác cho quan niệm của thân chủ?
 Có những niềm tin, cảm xúc, hành vi nào tác động đến mức dính
bén vấn đề của thân chủ?
3.2.2 Can thiệp
Một khi niềm tin của thân chủ quá kiên vững, nhân viên xã hội can thiệp bằng
cách giúp cho thân chủ nhận ra vấn đề hiện tại, thực hành các bài tập giải quyết
vấn đề hay đối phó với vấn đề. Khi thân chủ tỏ ra có niềm tin lệch lạc trầm trọng,
nhân viên xã hội và thân chủ phải xác định các hoàn cảnh, tình huống tạo ra sự
lệch lạc niềm tin, quyết định phương cách thích nghi hay thay đổi cách nghĩ và sau
đó điều chỉnh cách nghĩ.
Nhân viên CTXH ứng dụng thuyết Nhận Thức có thể giúp thân chủ bằng các
phương pháp sau:
Thay đổi nhận thức/cognitive restructuring:
Kỹ thuật này được sử dụng khi niềm tin của thân chủ lệch lạc có vấn đề. Thông

qua thảo luận, trao đổi, nhân viên xã hội giúp thân chủ thay đổi phần B trong mô
hình ABC (A = sự việc diễn ra/ activating event; B = niềm tin về sự việc belief; C
= cảm xúc hay hành động gây ra do niềm tin/consequences. Ví dụ trời mưa thay vì
suy nghĩ tiêu cực như “Mọi thứ xám xịt và xấu xí. Một ngày như vầy chẳng đem
lại ích lợi gì cho mình hết” thì đổi cách nghĩ tích cực “Bình an biết bao! Hôm nay
mình có thể ở nhà đọc sách. Thật tuyệt!”
Để thay đổi hệ thống niềm tin của thân chủ cân thực hiện 3 bước sau: Thứ nhất
giúp thân chủ xác định những tư tưởng trước và trong khi xảy ra hành vi, tình cảm
tiêu cực (Cái gì diễn ra trong đầu tôi?). Cần phải giúp thân chủ phản ánh lại tư
tưởng cảm xúc của mình như thể sự việc đang xảy ra lúc này đây. Nhân viên xã
hội có thể giúp thân chủ tưởng tượng lại sự việc (anh/chị hãy nhắm mắt lại, hít thở
sâu, hình dung ra mình đang ở trong tình huống đó. Anh chị đang làm gì? Đang
nghĩ gì?) nhân viên xã hội có thể mời các thân chủ khác tham gia đóng kịch để đi
đến kết luận. Bằng cách diễn lại tình huống, thân chủ có thể gợi lại luồng tư tưởng
tạo ra vấn đề.
Cũng có thể sử dụng bảng đánh gía bốn cột: các tình huống gây stress (A), tư
tưởng tự động (B), giả định của thân chủ, cảm xúc (C). ví dụ một người bị từ chối
khi đi xin việc (A) có thể nghĩ rằng “mình sẽ không bao giờ có việc làm” (B), bởi
vì “mình không có giá trị” (giả định), dẫn đến trầm cảm (C)
Bước hai là đánh giá mức độ mong muốn thay đổi tư tưởng của thân chủ. Để
làm được điều này, nhân viên xã hội giúp thân chủ phân tích lợi hại của việc thay
đổi tư tưởng. Có thể sử dụng giấy viết để liệt kê hết những phần thưởng cũng như
cái gia phải trả cho việc thay đổi niềm tin.
Sau cùng, nhân viên xã hội thách đố các niềm tin lệch lạc của thân chủ bằng
cách thiết kế các thí nghiệm hay công tác tự nhiên lien quan đến vấn đề của thân
chủ để phá đổ niềm tin lệch lạc đó. Ví dụ một sinh viên tin rằng hễ cô nói gì ra thì
cả lớp đều cười, nhân viên xã hội có thể yêu cầu cô thử phát biểu 1 lần trước lớp
và xem phản ứng của người khác.





3.2.2.1 Ứng phó nhận thức/cognitive coping:
Giúp thân chủ chuẩn bị sẵn một phương thức mới để ứng phó với những hoàn
cảnh tiêu cực. Thí dụ mỗi lần giận dữ muốn la hét, đập phá thì đi bộ 100 bước ra
khỏi hiện trường.
Một số phương cách:
Huấn luyện Tự bảo mình: thân chủ nhận và học đối phó với tình huống cách
hiệu quả hơn bằng cách tự kỷ ám thị ý nghĩ tích cực. Ví dụ một người sợ nói trước
đám đông có thể tự nói với mình rằng tôi cũng đâu có thua ai, tôi làm được bao
nhiêu chuyện huống hồ gì đây chỉ là chuyện nhỏ
Huấn luyện kỹ năng giao tiếp: thân chủ được huấn luyện các kỹ năng xã hội,
kỹ năng thương thuyết, sự quyết đoán để có thể xây dựng các mối tương quan thân
thiết với người khác mà cải thiện tình cảm tiêu cực. Thân chủ học cách lắng nghe,
đối thoại ôn hoà, rõ ràng, mạch lạc, dùng câu nói chủ yếu về “Tôi”/“I” messages,
tức là nói về vấn đề, cảm xúc, ý muốn của bản thân, thay vì chĩa mũi dùi công kích
sang người đối diện. Thí dụ người chồng đã hẹn sáng thứ bảy chở vợ về thăm quê
ngoại, nhưng lại đi uống cà phê với bạn gần trưa mới về. Thay vì nói “Tại sao
sáng thứ bảy nào anh cũng phải đi uống cà phê, bỏ uống một sáng thứ bảy có chết
không? Người gì đâu không biết giữ lời hứa gì hết? Nói đi nửa tiếng mà đi tới giờ
này mới về? Sao không đi luôn tới sáng mai đi?” Người vợ có thể nói “Em chờ
gần hai tiếng đồng hồ, mất hết cả hứng thú. Em không muốn trễ hẹn với Ba Má.”

3.2.2.2 Huấn luyện phương pháp giải quyết khó khăn/problem solving training
Đây là phương pháp 5 bước gồm xác định vấn nạn, tìm kiếm và liệt kê các giải
pháp, gạn lọc giải pháp, chọn giải pháp thích hợp nhất, và sau cùng, hoạch định kế
hoạch thi hành.
Phương cách hữu hiệu nhất để Huấn luyện phương pháp giải quyết khó khăn là
sắm vai. Trước hết, Nhân viên xã hội làm mẫu để thân chủ học và rồi yêu cầu thân
chủ đóng vai, luyện cách giải quyết khó khăn.

Nhiều nhân viên XH phối hợp hai thuyết Nhận Thức và Thuyết hành vi để giúp
thân chủ. Thí dụ để giúp những người có bệnh trầm cảm, nhân viên CTXH trước
hết tập cho thân chủ thay đổi cách suy nghĩ từ “ly nước vơi một nửa” sang “ly
nước đầy một nửa” (đây là giai đoạn B của công thức ABC), từ đó tiến đến giai
đoạn C tức là có một hành động tích cực nào đó để chống cơn trầm cảm. Kỹ thuật
dùng phản ứng thưởng hay phạt/positive hoặc negative reinforcement của thuyết
hành vi được áp dụng để khuyến khích những cách ứng xử lành mạnh và làm giảm
dần những ứng xử không lành mạnh, dẫn đến bi quan yếm thế. Nhận Thức hành vi
liệu pháp/Cognitive behavioral therapy thường được áp dụng trong thuật làm cha
mẹ; trong việc điều trị bệnh nghiện ngập kể cả ma túy, rượu, cờ bạc và tình dục;
trong tư vấn gia đình; và trong điều trị các triệu chứng tâm lý như bồn chồn, trầm
cảm, căng thẳng thần kinh.



4. Thuyết hệ thống cảm xúc gia đình

Từ những năm 1960 khi mới bắt đầu xuất hiện, học thuyết hệ thống cảm xúc
gia đình của Murray Bowen đề xướng đã trở nên rất hữu dụng đặc biệt trong việc
đánh giá và trị liệu gia đình. Học thuyết này đã cho một khung phân tích toàn diện
để hiểu được các mối lien kết tình cảm gia đình tác động thế nào đến mỗi cá nhân
trong gia đình.
4.1 Nội dung chính của thuyết
4.1.1 Đa thế hệ
Cá tính của con người và cách ứng xử của họ trong gia đình chịu ảnh hưởng từ
nhiều thế hệ. Thí dụ những cá tính phục tùng, trấn áp, thống trị, hay gây sự, lạnh
lùng… có thể trở nên cố định hơn, hoặc đậm nét hơn qua các thế hệ (cha nào con
nấy). Mặt khác, Bowen còn chỉ ra rằng các mối quan hệ với đại gia đình có thể
cũng quan trọng cho sự phát triển cá tính của con người như các mối quan hệ với
gia đình hạt nhân.


4.1.2 Sự tách rời của cá nhân
Cá nhân lành mạnh hay dễ thích nghi là do sự tách rời cá nhân quyết định.
Điều này mang hai ý nghĩa, sự tách rời cả về tâm lý lẫn thể lý. Trước hết đó là khả
năng một người có thể phân biệt và quân bình giữa những gì người ấy nghĩ và
những gì người ấy cảm thấy, giữa lý trí và tình cảm. Suy nghĩ là có khả năng nhìn
các phản ứng và các thành kiến của mình một cách khách quan. Còn cảm xúc thì
cung cấp các thông tin về tầm quan trọng của vấn đề đối với bản thân. Sau nữa, sự
tách rời cá nhân còn là khả năng tách rời thể lý. Qua quá trình trưởng thành, cá
nhân lành mạnh sẽ dần dần tách rời khỏi gia đình, ở riêng, có suy nghĩ, cảm xúc,
và cuộc sống riêng. Sự phát triển lành mạnh này không làm hại đến mối quan hệ
tốt đẹp với gia đình gốc.

4.1.3 Mối quan hệ ba chiều/ tam giác
Quan hệ thân thiết giữa hai người trong gia đình có thể trở nên căng thẳng (hai
người, dù thương yêu nhau đến nấy, cũng không tránh khỏi những lúc mâu thuẫn,
xung đột) vì vậy cần người thứ ba để được ổn định Khi có chuyện buồn phiền hay
mâu thuẫn, ta thường có khuynh hướng giải tỏa hay tìm sự giúp đỡ của người thứ
ba. Người thứ ba (có thể là nhiều người thứ ba khác nhau tùy theo nhu cầu của hai
người kia) giữ vai trò trung gian hoà giải, cố vấn tâm lý, hay an ủi (nghe than thở).
Thí dụ khi tôi có chuyện buồn phiền với người chồng thì tôi đi giải tỏa nỗi niềm
với bạn thân để hỏi ý kiến.
Quan hệ ba chiều là lành mạnh, tuy nhiên, trong một số trường hợp, nó có thể
có ảnh hưởng tai hại đến sự tách rời (trưởng thành lên) của cá nhân. Thí dụ: người
mẹ nạn nhân của bạo hành bởi người cha, luôn luôn dựa vào đứa con trai để tìm
nguồn an ủi và chỗ nương tựa tinh thần. Tình trạng này sẽ biến đứa con thành
người bảo vệ mẹ và hoà giải bố mẹ. Vai trò kéo dài này sẽ ảnh hưởng đến sự
trưởng thành tự nhiên của đứa con nghĩa là tách rời khỏi suy nghĩ, cảm xúc, vấn
đề, cuộc sống thường ngày của gia đình gốc và xây dựng suy nghĩ, cảm xúc, vấn
đề, cuộc sống thường ngày của riêng mình.


4.1.4 Bồn chồn lo lắng trong hệ thống tâm lý gia đình
Bồn chồn lo lắng là một cảm xúc khó chịu nhưng lành mạnh có công dụng như
một tín hiệu báo trước các mối đe doạ hay hiểm nguy (Marks, 1987). Triệu chứng
của bồn chồn khó chịu là cảm giác căng thẳng và sự hoạt động vượt mức bình
thường của hệ thống thần kinh trung ương. Tình huống gây ra cảm giác bồn chồn
khó chịu có thể là các cơ hội phát triển (thí dụ sinh viên sắp đến kỳ thi ra trường,
cô gái sắp đến ngày lên xe hoa…) hoặc là các mối đe doạ. Cảm giác này chỉ trở
thành vấn nạn nếu nó cản trở khả năng giải quyết sự việc của cá nhân.
Có bốn loại gia đình thường xảy ra bồn chồn khó chịu:
 Gia đình vợ chồng không hoà thuận: mỗi người trút cảm giác bồn chồn khó
chịu của mình lên người kia và tìm cách điều động, kiểm soát người đó.
 Gia đình một người trong hai vợ chồng có vấn đề tâm lý: người còn lại cố
gắng thích ứng để duy trì hạnh phúc, và vì vậy có thể có cảm giác bồn chồn
khó chịu.
 Gia đình có một hay nhiều đứa con có vấn đề tâm lý: cha mẹ sẽ hướng cảm
giác bồn chồn khó chịu của mình vào đứa trẻ, làm cho nó có những phản
ứng đối phó tiêu cực.
 Gia đình có những thành viên gắn bó với nhau một cách bất bình thường
về tâm lý, làm cản trở quá trình tách rời khỏi gia đình một cách lành mạnh
và cần thiết của cá nhân. Mối quan hệ gắn bó quá đáng này, mà Erikson gọi
là “vướng mắc”/enmeshed, tạo ra căng thẳng, và để giảm căng thẳng những
người liên quan sẽ có thể cố gắng tránh mặt nhau. Thí dụ trong nhiều gia
đình Á châu cha mẹ thường tự hào họ hy sinh tất cả cho con cái, vui cái vui
của con, buồn cái buồn của con, coi sự thành công hay thất bại của con cái
là thành công hay thất bại của mình. Sự nhập chung/fusion này không lành
mạnh, nó làm cản trở sự tách rời tự nhiên của đứa con, có thể tạo ra sự căng
thẳng cho mọi người liên quan và đứa con có thể sẽ tìm cách tránh xa bố
mẹ.
Trong bốn loại gia đình trên, bầu không khí căng thẳng ảnh hưởng đến tất cả

các thành viên và có thể truyền qua các thế hệ. Trong các gia đình bất hạnh này,
những thành viên kém khả năng tách rời sẽ có triệu chứng bồn chồn khó chịu cao,
sẽ có khuynh hướng tìm đến bạn bè, hay chồng, vợ cũng có triệu chứng bồn chồn
khó chịu như mình, và thế là sự bồn chồn khó chịu được truyền sang và gia tăng
qua các thế hệ.

4.1.5 Cha mẹ phóng chiếu lên con cái
Đây là một trong những hình thức của “cơ chế tự vệ”: quy kết những cảm nghĩ,
tình cảm của mình cho người khác, gán cho người khác những ước muốn và
những xung động bất ổn mà chính mình có, để khỏi phải đối diện với vấn đề của
mình. Thí dụ người vợ giận chồng vì không dành nhiều thời gian cho gia đình
nhưng nói với người chồng rằng đứa con của mình giận bố vì vắng nhà nhiều.
Cơ chế tự vệ tâm lý này là cách truyền cảm xúc bồn chồn lo lắng qua các thế
hệ. Những đứa con thường xuyên lâu dài bị cha mẹ đổ cho những cảm xúc, đặc
tính tiêu cực sẽ có thể tin là chúng thực sự có những cảm xúc, những cá tính đó và
có cách cư xử thích ứng. Trong thí dụ trên, có thể sự kiện bố vắng nhà không ảnh
hưởng nhiều đến vui buồn của đứa trẻ (có khi các con còn vui khi bố vắng nhà nếu
bố khó tính, hay la rầy), nhưng do ảnh hưởng của mẹ, đứa trẻ có thể dần dần sẽ có
cảm xúc buồn. Một thí dụ khác: nếu đứa trẻ thường xuyên bị bố mẹ mắng là ngu
dốt, đứa trẻ sẽ có khả năng mất dần ý chí phấn đấu học hỏi và trở thành ngu dốt
thật sự.

4.1.6 Sự đồng hóa/tan biến và cắt đứt tình cảm
Sự đồng hóa/tan biến trái nghĩa với sự tách rời của cá nhân. Đây là tình trạng
liên quan đến hai hay nhiều người trong hệ thống tam giác mà trong đó một thành
viên hy sinh sự tách rời, trưởng thành của cá nhân để tạo ra sự quân bình cho hai
người kia. Khi một người đặc biệt bị đồng hóa/tan biến trong mối tương quan với
1 người khác thì người này sẽ có phản ứng mạnh mẽ với người kia. Ví dụ một
người mẹ bị chồng đánh và lôi đứa con gái 12 tuổi về phía mình thì tương quan
mẹ con giữa 2 người này có khuynh hướng hợp nhất/tan biến. Cảm xúc vui buồn

của mẹ sẽ trở thành cảm xúc của con và đứa trẻ không có chỗ để phát triển đời
sống cảm xúc của cá nhân mình. Thông thường cả hai phía đều không nhận ra sự
tai hại này vì thiếu khả năng biện phân. Đối với đứa bé, cơ cấu này đã hình thành
trước khi giai đoạn trưởng thành để nó có thể phân biệt được sự việc.
Nếu như chúng ta thường kém sáng suốt trong khi bị tan biến/ đồng hóa trong
các tương quan thì ta lại cũng có khả năng thoát khỏi các mối tương quan. Đây gọi
là cắt đứt tình cảm khi một người cố gắng tách mình ra khỏi một số thành viên hay
toàn bộ gia đình. Cắt đứt tình cảm có khi là kết quả của việc người đó không có
khả năng trực tiếp giải quyết vấn đề bị đồng hóa nói trên nên tự tách mình ra khỏi
các tương quan với người khác.
Sự cắt đứt tình cảm này đôi khi rất phức tạp, đi từ việc tránh gặp mặt (bỏ nhà
ra đi ở tuổi dạy thì) đến việc không nói về tương quan căng thẳng giữa hai người.
ví dụ một bé trai mâu thuẫn với mẹ nó có thể kể cho mẹ các sinh hoạt ở trường
nhưng lại không nói về cảm xúc của nó đối với mẹ, do đó đã tạo ra các tương quan
giả tạo và đứa trẻ có khuynh hướng đi tìm những tương quan khác bên ngoài gia
đình như trường học, công sở

4.1.7 Những ý khác
Bowen cho rằng trong gia đình hạt nhân, thứ tự anh chị em ai sinh trước ai sinh
sau cũng có thể nói lên phần nào đó sự phát triển nhân cách của trẻ. Ví dụ con lớn
thường có khung hướng bảo thủ và trách nhiệm hơn trong khi con út lại xã giao
giỏi và dễ nổi loạn. Các vấn đề khác cũng cần quan tâm như giới tính của anh chị
em, khoảng cách giữa từng đứa, các ảnh hưởng của môi trường bên ngoài….
4.2 Đánh giá và can thiệp CTXH
Thông thường, các vấn đề trong gia đình tựu trung ở quan hệ tam giác, sự đồng
hóa/tan biến, và sự cắt đứt tình cảm. Những vấn đề này cho thấy gia đình hoặc quá
thờ ơ hoặc quá chú tâm đến các hoạt động gia đình mình. Mục tiêu của loại trị
liệu này là làm sao mở ra, hay khai khẩn hệ thống gia đình, phá bỏ tương quan tam
giác, thiết lập các tương quan mới giữa các thành viên trong gia đình hạt nhân và
gia đình mở rộng. Nhân viên xã hội có thể thực hiện các công việc sau:

- giảm sự căng thẳng gia đình
- gia tăng khả năng phản tỉnh của các thành viên
- gia tăng sự tách biệt cá nhân bằng cách tổ chức lại hệ thống
tình cảm gia đình sau khi xác định và điều chỉnh các tương quan tam
giác có vấn đề và khai khẩn các tương quan tránh né
- tăng cường khả năng chia sẻ các bận tâm về hệ thống gia đình
của các thành viên
- uốn nắn sự bất bình đẳng trong gia đình bằng cách ngăn chặn
hay kiểm soát những thành viên cư xử theo lối thống trị không phù
hợp

4.2.1 Đánh giá
Một trong các phương pháp có thể sử dụng để đánh giá đó là sơ đồ quan hệ gia
đình. Sơ đồ này thể hiện tương quan 3 thế hệ, gồm các thông tin cơ bản về các
thành viên trong gia đình (ngày sinh, ngày mất, hôn nhân, các cuộc di chuyển,
bệnh tật), tính cách căn bản và mức độ chức năng của mỗi thành viên (trình độ học
vấn, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, tài năng, những thành công, thất bại) và các
kiểu tương quan. Cũng có thể thêm vào cấu trúc gia đình (vai trò, nguyên tắc, giới
hạn) và các tác động của các biến cố trong sơ đồ này.
Qua việc tham gia lập sơ đồ quan hệ, các thành viên trong gia đình hiểu hơn về
gia đình mình, những tương quan giữa các thành viên và các mối quan hệ tam giác
đã phát triển ra sao. Đây còn là cơ hội để các thành viên bộc lộ suy nghĩ và biết
nhau hơn. Họ cũng nhận ra những hành vi của họ đã nâng đỡ hay cản trở tương
quan gia đình để từ đó chính bản thân họ đưa ra những giải pháp cải thiện tình
hình.
Tương quan giữa thân chủ và nhân viên xã hội trong phương pháp trị liệu này
phải làm sao cho các thành viên trong gia đình cảm thấy an toàn và thoải mái giải
tỏa các lo âu của mình. Nhân viên xã hội phải cố gắng tập trung vào những bận
tâm của gia đình và tạo ra tương quan trao đổi thân thiện cũng như phải bình tĩnh,
hâm nóng bầu khí nguội lạnh hoặc làm giảm nhiệt bầu khí quá nóng trong gia đình

phải giữ được tính khách quan trong mọi vấn đề, tránh mọi thành kiến hay định
kiến để làm sao cho mọi thành viên giải tỏa được mọi suy nghĩ của họ.
Nhân viên xã hội phải để ý đến những phản ứng tình cảm thái quá và những
tương quan tam giác giữa các thành viên trong gia đình. Nói cách khác, vai trò của
nhân viên xã hội giống như là một huấn luyện viên: giữ tình trạng lo lắng hay căng
thẳng ở mức thấp nhất, tránh các phản ứng tình cảm, tạo ra những tương quan
mang tính cách xây dựng, gợi mở để các thành viên thảo luận và tương tác với
nhau.

4.2.2 Can thiệp
Phá vỡ quan hệ ba chiều/ tam giác
Với kỹ thuật này, nhân viên xã hội giúp phá bỏ quan hệ tam giác có vấn đề và
mở ngõ cho các thành viên trong gia đình tạo ra các mối liên kết lành mạnh hơn,
giúp cho một thành viên nào đó trong quan hệ tam giác cũ trở nên tự lập và có khả
năng tách rời hơn. Ví dụ trong tam giác cha, mẹ, con có vấn đề, cả hai cha mẹ
tránh né tương quan đổ vỡ giữa 2 người bằng cách lập ra quan hệ ba chiều, lôi đứa
con vào cuộc. nhân viên xã hội có thể hướng dẫn đôi vợ chồng dành thời gian nói
lên những suy nghĩ của bản thân mình về người kia. Nếu họ cần người thứ ba làm
trung gian, họ có thể nhờ một thành viên đáng kính trong gia đình như anh chị,
chú, thím. Nhân viên xã hội giúp họ diễn lại các biến cố để xem lại cách họ đã
tương tác (hoặc có thể đổi vai cho nhau).
Gia tăng khả năng thấu hiểu
Thuyết hệ thống gia đình tin rằng hiểu biết sẽ dẫn đến đổi thay. Nhân viên xã
hội tạo ra những buổi thảo luận giúp những người trong cuộc tự soi để hiểu rõ hơn
những tác động của các mối tương quan lên tính cách và hành vi của mình. Nhân
viên xã hội có thể sử dụng kỹ thuật tự xét lại bản thân và tình thế trong đó nhân
viên xã hội đặt câu hỏi, đưa ra những nhận định, đề nghị các cách giải thích mới
về vấn đề để các thành viên trong gia đình có thể tự phản tỉnh. Ví dụ 2 người trong
gia đình có mâu thuẫn với nhau được giúp ngồi lại thảo luận về những khác biệt
của mình trong bình tĩnh và tôn trọng để từ đó cùng với nhau tìm ra hướng giải

quyết vấn đề. Nhân viên xã hội đóng vai trò hướng dẫn trực tiếp và cắt nghĩa các
hành vi hiện tại. phương pháp này làm cho các thành viên trong gia đình tăng khả
năng đánh giá và hiểu biết cảm xúc, thái độ và hành vi của người khác để cùng
nhau chọn lựa các giải pháp.
Nhân viên xã hội cũng có thể sử dụng kỹ thuật nhìn lại quá trình phát triển để
khám phá mối liên hệ giữa hành vi hiện tại với các hành vi trong quá khứ. Nếu
một thanh thiếu niên tỏ thái độ chống đối gia đình, nhân viên xã hội có thể tổ chức
một buổi thảo luận cho các bậc cha mẹ xem nguyên nhân gốc từ đâu, những bối
cảnh nào suốt đời thơ ấu đã khiến trẻ hôm nay lại có hành vi như thế. Nhân viên
xã hội giúp gia đình trực diện với các hành vi lệch lạc của trẻ để từ đó hiểu hơn
những tâm tư, cảm xúc của trẻ mà có những cách nghĩ, cách làm khác phù hợp
hơn khi đối xử với trẻ.
Hai kỹ thuật khác có thể được sử dụng là giải tỏa suy nghĩ (giúp nói ra được
những gì giữ trong lòng) và bày tỏ cảm xúc bằng cách dùng đại từ “tôi” (bày tỏ
cảm xúc của mình thay vì dán nhãn, chỉ trích tiêu cực)
Giáo dục
Phương pháp này liên quan đến việc làm phát triển sự thấu hiểu. Bằng cách
giải thích cho thân chủ biết các giai đoạn phát triển thong thường của một gia
đình, nhân viên xã hội giúp các thành viên trong gia đình cảm thấy những cảm xúc
hành vi của họ hiện thời là điều bình thường. điều này giúp họ bớt phòng vệ và
chủ động hơn trong việc tìm cách thay đổi tình thế. Nhân viên xã hội cũng chỉ cho
thân chủ thấy rõ những yếu tố môi trường nào ảnh hưởng đến đời sống gia đình
của họ. Ví dụ, một người chồng có thể dùng những bận rộn của công việc để tránh
né những căng thẳng gia đình sau vỡ ra vấn đề sẽ tự tìm hướng giải quyết sao cho
dung hòa giữa bản thân – công việc – vợ con.
Những câu chuyện thay thế
Vào giai đoạn đầu của quá trình can thiệp, nhân viên xã hội có thể yêu cầu các
thành viên trong gia đình nói riêng với mình những vấn đề nhạy cảm để tránh
những căng thẳng giữa họ. nếu căng thẳng ở mức cao độ đến nỗi tương quan tốt
đẹp giữa họ không thể phát triển được, nhân viên xã hội có thể dung những câu

chuyện thay thế để kéo họ ra khỏi sự bận tâm về gia đình mình mà có cái nhìn
khách quan về tình hình thực tế. nhân viên xã hội kể cho họ nghe ví dụ về một gia
đình nào đó có những vấn đề tương tự và yêu cầu các thành viên trong gia đình
chia sẻ nhận định và đề nghị giải pháp cho gia đình thay thế kia (nhưng thực chất
là cho chính bản thân họ).
Làm việc với các cá nhân
Một trong những ưu điểm của thuyết hệ thống gia đình là cho phép làm việc
với tiểu hệ thống hay từng thành viên trong gia đình. Can thiệp theo thuyết này đòi
hỏi sự ý thức (mà không nhất thiết phải có sự hiện diện) của mọi thành viên trong
gia đình. Qua trị liệu cá nhân, nhân viên xã hội giúp thân chủ vẽ biểu đồ hệ thống
tương tác gia đình và xem xét các hành vi của thân chủ trong tương quan với biểu
đồ đó. Nhân viên xã hội giúp thân chủ quan sát bản thân trong các quan hệ ba
chiều và sau đó phá vỡ các tương quan tiêu cực bằng cách phát triển các tương
quan lành mạnh với các thành viên khác trong gia đình.

5. Thuyết can thiệp khủng hoảng
5.1 Nội dung chính của lý thuyết
Khủng hỏang: một tình trạng nguy khốn xảy ra, thường vượt quá khả năng đối
phó của nạn nhân. Nếu không được giúp đỡ, khủng hoảng có thể gây ra những hậu
quả trầm trọng về tâm lý, tư tưởng, khả năng ứng xử và cuộc sống của con người.
Có thể chia khủng hoảng ra làm ba loại khác nhau: khủng hoảng phát triển, xảy
ra trong cuộc đời bình thường, trong các biến cố thường nhật của cuộc sống khi
người ta gặp phải những thay đổi sâu sắc (tốt nghiệp trung học, sinh con, đổi nghề,
về hưu) của mọi người, thí dụ thi cử, lập gia đình, sinh con, về hưu… ; Khủng
hoảng hoàn cảnh: xuất hiện trong các biến cố bất thường, không được sự báo
trước, ngoài tầm kiểm sóat (bệnh tật, thương tích, bị xâm hại tình dục, mất việc,
mất người thân). Khủng hỏang sinh tồn thường xảy ra khi có mâu thuẫn nội tâm
liên quan đến những vấn đề thuộc về mục đích sống, trách nhiệm, tính độc lập, tự
do, cam kết (chọn lựa trong quá khứ, cảm thấy đời vô nghĩa, vấn đề về bậc thang
giá trị và niềm tin)

Khủng hoảng là mối nguy hiểm có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng kể
cả tự tử, nhưng đồng thời cũng là cơ hội vì nó buộc con người phải cố gắng nỗ lực
giải quyết hay tìm sự giúp đỡ để sống còn. Thí dụ thường thấy về đặc tính này của
khủng hoảng là khi những người nghiện cờ bạc đã thua hết tài sản, đã táng gia bại
sản, mới thành tâm từ bỏ tật xấu đó. Dù tự mình giải quyết được khủng hoảng hay
nhờ sự giúp đỡ của gia đình, cộng đồng hay xã hội, cá nhân có thể trở nên già dặn,
trường trải hơn (thay đổi theo chiều hướng phát triển); hoặc giữ nguyên khả năng
ứng xử cũ (không thay đổi); hoặc bị ám ảnh lâu dài, có khi suốt đời, và có thể
dùng những cách đối phó tiêu cực để sống còn, thí dụ rượu chè hay ma túy, vì kinh
nghiệm đã trải qua trong khủng hoảng (thay đổi theo chiều hướng xấu).
Khủng hoảng là một hiện tượng phức tạp và đa dạng. Nó có thể xảy ra đột
ngột, thí dụ tai nạn xe cộ, hay bùng nổ sau một thời kỳ âm ỷ kéo dài, thí dụ khủng
hoảng giữa những người trong gia đình. Khủng hoảng có thể liên quan đến một cá
nhân, một gia đình, hay cả cộng đồng, xã hội, hay quốc gia, và cả thế giới. Thí dụ
bão lụt, động đất, chiến tranh, bệnh dịch… Khủng hoảng xảy ra cho tất cả mọi
người nhưng mỗi người có khả năng ứng phó riêng đối với cùng một khủng
hoảng.
Khủng hoảng xảy ra trong một thời gian có giới hạn, thường không quá sáu
đến tám tuần lễ, sau thời gian này các hậu quả tiêu cực của nó giảm dần. Mặc dù
vậy, tùy theo cường độ lúc xảy ra, khủng hoảng có thể để lại những di chứng lâu
dài (có khi suốt đời) cho nạn nhân, thí dụ những nạn nhân của hội chứng hậu chấn
tâm lý/PTSD, post-traumatic stress disorder. Theo Caplan (1990), kinh nghiệm
khủng hỏang có 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất xuất hiện sự căng thẳng mạnh mẽ
và bất ngờ gia tăng. Trong giai đoạn thứ hai, người ta cố gắng đối phó với căng
thẳng nhưng không thành công, và điều này làm cho đương sự thêm phần căng
thẳng. Lúc này, người ta cần tìm sự trợ giúp. Ở giai đoạn thứ ba, trong vòng
khoảng 4 tuần, khủng hỏang được giải quyết theo chiều hướng tiêu cực (giải pháp
đối phó không lành mạnh) hay tích cực (quản lý thành công khủng hỏang và gia
tăng khả năng của cá nhân). Cảm xúc trỗi lên trong giai đoạn khủng hỏang bao
gồm lo lắng, cảm giác tội lỗi, xấu hổ, buồn rầu, ganh tị, ghê tởm (Lazarus, 1993)

Một thân chủ bị khủng hỏang có thể phản ứng theo 3 loại sau. Loại Phát triển:
thân chủ vực dậy từ biến cố và sau đó, với sự trợ giúp của chuyên gia, học những
kỹ năng mới và phát triển các điểm mạnh. Loại Quân bình: thân chủ trở lại mức độ
tiền/trước khủng hỏang nhưng không phát triển thêm các chức năng xã hội. Loại
Đóng băng khủng hỏang: thân chủ không cải thiện nhưng tập thích nghi bằng cách
dính vào các thứ độc hại như sử dụng chất gây nghiện. Điều này làm cho thân chủ
ở trong tình trạng có vấn đề kinh niên.

5.2 Đánh giá và can thiệp CTXH
5.2.1 Đánh giá
Mục đích của đánh giá là thu thập thong tin từ thân chủ và những người
khác để hiểu rõ khủng hoảng thân chủ đang gặp phải và để giúp thân chủ vận
động tài nguyên nhanh chóng. Các câu hỏi có thể hỏi gồm:
 những yếu tố nào thân chủ cho là có lien quan đến khủng hoảng?
 Hiện tại, chức năng nhận thức và hành vi của thân chủ ra sao? Bị
ảnh hưởng thế nào?
 Thân chủ có tự hủy hoại mình không?
 Lúc này Thân chủ có cần bác sĩ hay nhà tư vấn tâm lý không?
 Tình trạng của thân chủ hiện tại so với giai đoạn tiền khủng
hoảng thế nào?
 Trong quá khứ, thân chủ có từng sử dụng các chất gây nghiện,
từng bệnh tật nặng, hay khủng hoảng nặng chưa?
 Đâu là điểm mạnh của thân chủ? Các lãnh vực ưu điểm của thân
chủ?
 Thân chủ đã sử dụng những biện pháp gì để đối phó với khủng
hoảng?
 Các mạng lưới hỗ trợ thân chủ?
 Có những trở ngại về tài chánh, xã hội hay của cá nhân thân chủ
không?


5.2.2 Can thiệp
Như đã phân tích ở trên, một kinh nghiệm căng thẳng có thể trở nên khủng
hỏang hay không là do khả năng đương đầu của mỗi người. Tuy nhiên, xã hội có
thể giúp con người tránh né khủng hoảng hoặc hồi phục sau khi bị khủng hỏang
bằng những cách thức sau đây:
 Nuôi dưỡng và gia tăng một thế giới quan phù hợp
 Gia tăng niềm hy vọng
 Tăng cường khả năng rút lui đúng lúc và tạo sáng kiến kịp thời
 Hướng dẫn
 Tạo kênh giao tiếp xã hội
 Xác nhận giá trị bản thân
 Trợ giúp vật chất
 Tạo môi trường thư giãn, nghỉ ngơi
 Vận động sự hỗ trợ của những cá nhân khác (yêu cầu thân chủ a)
liệt kê tất cả những người họ có tương quan trong vòng 1,2 tuần
trước đó, b) chọn ra từ danh sách những người có thể giúp và mô
tả những gì những người này có thể giúp, c) đánh giá các nguồn
trợ giúp khác)

Can thiệp khủng hỏang của nhân viên xã hội
Corwin (2002) và Dixon (1987) đưa ra những bước cần làm sau đây:
 Nhanh chóng thiết lập mối quan hệ tích cực: nhân viên xã hội phải
mau chóng tạo ra tương quan tốt với thân chủ bằng cách tỏ ra
chấp nhận, thấu cảm với thân chủ và phải xác nhận điều này bằng
ngôn từ rõ ràng. Nhân viên xã hội phải truyền cho thân chủ tính
lạc quan và niềm hy vọng, đồng thời khơi gợi khả năng giải quyết
khủng hoảng của thân chủ
 Gợi lên và khuyến khích thân chủ diễn tả những tình cảm, cảm
xúc tổn thương và hướng đến mục tiêu giúp thân chủ bình tĩnh
hơn, quản lý cảm xúc và tập trung những thách đố trước mắt

 Đánh giá: phải nhanh chóng nhưng đầy đủ để có thể lên kế hoạch
can thiệp. nhân viên xã hội điều tra các yếu tố lien quan đến biến
cố gây khủng hoảng, khả năng đương đầu của thân chủ và mạng
lưới hỗ trợ có thể có cũng như các nhu cầu khác của thân chủ
 Phục hồi chức năng nhận thức: sau khi đánh giá, nhân viên xã hội
chia sẻ những đúc kết, nhận định của mình cho thân chủ như
nguyên nhân gây nên khủng hoảng, phản ứng của thân chủ có ý
nghĩa gì. Điều này giúp thân chủ phần nào đó cảm thấy vấn đề của
mình là chuyện bình thường để từ đó thân chủ có thái độ tích cực
giải quyết vấn đề thay vì né tránh nó.
 Lên kế hoạch và thực hiện can thiệp: kế hoạch can thiệp phải xác
định thời gian, phải có cấu trúc hợp lý, có định hướng rõ ràng và
chuyên nghiệp bảo đảm cho thân chủ được khuyến khích để thực
hiện các phương pháp đối phó với khủng hoảng với sự hỗ trợ của
mạng lưới xã hội sẵn có
 Chấm dứt và theo dõi: nhân viên xã hội so sánh giữa giai đoạn
thân chủ bị khủng hoảng với giai đoạn sau khi được trị liệu để
xem chiến lược can thiệp có hiệu quả không và liệu thân chủ có
thể tự thân đối phó với các khủng hoảng khác trong tương lai
không. Thân chủ cũng có thể đề nghị kế hoạch theo dõi sau khi
quá trình trị liệu chấm dứt
Các chiến lược can thiệp khủng hoảng phải dựa vào các thuyết thực hành khác
vì khủng hoảng thường đa dạng và thuyết khủng hoảng không đưa ra một biện
pháp can thiệp độc nhất nào. Thong thường nhân viên xã hội thường làm quản lý
ca với các trường hợp thân chủ gặp khủng hoảng. Theo Kanter (1996), việc quản
lý ca này được thực hiện trên 4 lãnh vực với 13 hoạt động như sau:
- giai đoạn khởi đầu: hẹn gặp, đánh giá, và lên kế hoạch
- tập trung vào môi trường: nối kết thân chủ với các tài nguyên trong cộng
đồng, hỏi ý kiến của gia đình, người chăm sóc, duy trì và mở rộng các mạng lưới
xã hội, cộng tác với bác sĩ và bệnh viện, và làm công tác biện hộ

- tập trung vào thân chủ: thỉnh thoảng trị liệu tâm lý, giúp thân chủ phát triển
các kỹ năng sống, và giáo dục tâm lý
- tập trung vào môi trường thân chủ: giám sát
Như vậy, việc quản lý ca phải là thiết lập tương quan tích cực với thân chủ
bằng mọi cách, nêu gương các hành vi lành mạnh để thân chủ có thể chuyển từ thế
phụ thuộc sang thế tự chủ động và biến đổi môi trường thể lý của thân chủ để tạo
điều kiện cho thân chủ thích nghi dễ dàng. Muốn vậy, nhân viên xã hội làm công
tác quản lý ca phải có các khả năng:
 nhận ra những khả năng lúc ẩn lúc hiện và những nhu cầu đa
dạng của thân chủ
 có cái nhìn thực tế về điểm mạnh, giới hạn và các triệu chứng của
thân chủ
 không ngừng phán đoán tốt về mức độ tương tác cần thiết của
mình đối với thân chủ
 xác định đúng mức độ trợ giúp cần thiết sao cho có thể tận dụng
hết khả năng tự định hướng hành vi của thân chủ
 phân biệt rõ đâu là khía cạnh sinh học đâu là khía cạnh tâm lý
trong các phản ứng của thân chủ đối phó với khủng hoảng
 đánh giá đúng các tác động của những yếu tố xã hội lên khuynh
hướng năng lực của thân chủ
 đánh giá đúng các động cơ hành động vô thức và ý thức của thân
chủ
 duy trì tương quan phù hợp với thân chủ trong suốt quá trình can
thiệp
Sau đây là sáu chiến lược can thiệp khủng hoảng tương ứng với sáu thuyết

* Theo tâm lý bản ngã
Kỹ thuật gia cố bản ngã có thể giúp thân chủ nên mạnh mẽ để giải quyết
khủng hoảng của họ và hiểu các động cơ và hành vi của họ rõ rang hơn. Kỹ thuật
này đặc biệt hữu ích đối với các thân chủ cần tương quan trợ giúp ở mức độ cao và

cần có cơ hội để giải tỏa và nhìn thấu vấn đề. Một cách cụ thể, nhân viên xã hội sẽ
thực hiện việc gia cố (phát triển và duy trì một tương quan tích cực với thân chủ),
khám phá/ bày tỏ/giải tỏa (khuyến khích thân chủ bày tỏ cảm xúc để giải tỏa stress
và có cái nhìn khách quan về các vấn đề), và phản ánh/xét lại thế thái nhân tình để
đạt đến những giải pháp cho vấn đề hiện tại. nhân viên xã hội cũng có thể dạy cho
thân chủ tìm kiếm các tài nguyên môi trường hay can thiệp trực tiếp nếu thân chủ
tạm thời không có khả năng phán đoán đúng không thể tự chăm sóc bản thân.
Trong nhiều trường hợp, Nhân viên xã hội sử dụng phương pháp kiến tạo để phá
vỡ những bận tâm của thân chủ và đưa vào những đơn vị có thể kiểm soát được

* Theo thuyết hành vi
Can thiệp theo thuyết hành vi phù hợp với những ai gặp khủng hoảng lien
quan đến vấn đề thưởng phạt. kỹ thuật này hữu dụng khi hành vi của thân chủ hay
hành vi của những người tương quan gần gũi với thân chủ góp phần tạo ra khủng
hoảng và cì thế cần phải điều chỉnh để giải quyết vấn đề. Nhân viên xã hội có thể
đào tạo kỹ năng sống, kỹ năng thư giãn, kỹ năng đối phó, kỹ năng kiên định

* Theo thuyết nhận thức
Khủng hoảng có thể đến từ những phản ứng giàu cảm xúc bắt nguồn từ
những nhận định các vấn đề cuộc sống hết sức tiêu cực và chủ quan của thân chủ.
Các khủng hoảng phát triển như bỏ nhà ra đi, mất bạn thân thuộc dạng này. Trong
trường hợp này, niềm tin cốt lõi của thân chủ về bản thân mình và về thế giới sẽ
ảnh hưởng đến khả năng đối phó khủng hoảng của thân chủ. Can thiệp khủng
hoảng theo trường phái nhận thức bao gồm các bước sau đây:
 đánh giá những giả định nhận thức của thân chủ và xác định
những nhận thức lệch lạc góp tạo nên khủng hoảng
 nếu thân chủ không nhận ra những nhận thức lệch lạc, dạy cho
thân chủ cách quản lý khủng hoảng và thực hiện tiến trình giải
quyết vấn đề
 nếu thân chủ nhận ra những nhận thức lệch lạc, xác định các tình

huống tạo ra những lệch lạc đó rồi đưa ra những biện pháp để
thay thế những tư tưởng lệch lạc bằng những tư tưởng mới khác,
thực hiện các công việc sửa trị
Ba chiến lược có thể sử dụng ở đây là 1) tái tạo nhận thức bằng cách giáo
dục bằng phương pháp ABC, phương pháp đảo nghịch 2) giải quyết vấn đề và 3)
đối phó nhận thức (nhân viên xã hội giúp thân chủ các cách quản lý stress và các
cảm xúc tiêu cực bằng cách dạy cho thân chủ các kỹ năng giao tiếp và tự kỷ ám
thị)
* Theo thuyết cấu trúc gia đình
Cũng như mọi cá nhân, gia đình cũng có khi gặp khủng hoảng ví dụ như
khủng hoảng nhà ở, thu nhập, sức khỏe, bạo hành… Can thiệp khủng hoảng theo
thuyết cấu trúc gia đình thích hợp cho những trường hợp như vậy. thuyết cấu trúc
cho rằng thiết lập và duy trì vác nguyên tắcm luật lêm vai trò, quyền hành phù hợp
trong gia đình sẽ tạo điều kiện thuân lợi cho các hành vi tốt của các thành viên
trong gia đình. Nhân viên xã hội làm sao để gia tăng cơ cấu tổ chức gia đình sao
cho các thành viên có thể diễn tả những bận tâm của mình.
Trong quá trình đánh giá, nhân viên xã hội phải xác định các vấn đề trục
trắc trong hệ thống gia đình, tìm ra những mối dây liên lạc hời hợt hay xung khắc
giữa vợi chồng con cái, các mâu thuẫn giữa các tiểu hệ thống, sự ganh ghét, lúng
túng giữa các thành viên và các mối tương quan liên kết bên ngoài gia đình góp
phần làm nên khủng hoảng. Các biện pháp can thiệp bao gồm:
 bình thường hóa một số khía cạnh của khủng hoảng để các thành
viên trong gia đình có thể có thái độ tự tin bơn trong các hoàn
cảnh
 huấn luyện kỹ năng giao tiếp trong đó nhvxh hướng dẫn các
thành viên trong gia đình các phương pháp phát biểu ý kiến rõ
ràng, lắng nghe tích cực để có thể bày tỏ nhu cầu, ý kiến, ý muốn
và cảm xúc
 nâng đỡ những điểm mạnh của hệ thống gia đình bằng cách khen
ngọi các khia cạnh tích cực của gia đình

×