Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

giải pháp phát triển hệ thống lưới điện đến các xã nghèo tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.83 KB, 62 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế của Việt Nam cũng như
của các nước khác trên toàn thế là một sự đối nghịch không thể che giấu, sự
bất bình đẳng giữa các vùng miền , giữa người với người ngày càng được nới
rộng. Người giàu thì ngày càng giàu hơn mà người nghèo thì ngày càng nghèo
đi, trong khi có nơi được sử dụng những ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại, cuộc sống sung túc các nhu cầu được đáp ứng liên tục và kịp thời thì một
bộ phận dân cư tập trung ở các vùng nông thôn, miền núi thì đang phải tiếp
tục sống với cảnh thiếu nước thiếu điện,... những yêu cầu căn bản của cuộc
sống, họ sống lạc hậu với đất nước hơn năm mươi năm thì với thế giới hơn cả
trăm năm. Vì vậy cần thiết phải có sự tham gia hỗ trợ tác động từ phía nhà
nước để điều tiết, giảm thiểu tối đa sự bất bình đẳng này để có thể đảm bảo an
ninh chính trị cũng như phát triển kinh tế của đất nước một cách toàn diện và
bền vững.
Điện là một trong những yêu cầu căn bản đó của cuộc sống hiện nay,
điện là động lực là điều kiện không thể thiếu cho tất cả mọi hoạt động và sự
phát triển của một xã, huyện, tỉnh hay một dân tộc. Thế nhưng còn rất nhiều
xã vùng sâu vùng xa của đất nước vẫn chưa thể được sử dụng điện, vì vậy em
đã quyết định tìm hiểu nghiên cứu thực trạng lưới điện ở các vùng này, mà cụ
thể ở đây là “giải pháp phát triển hệ thống lưới điện đến các xã nghèo tỉnh
Cao Bằng”, một tỉnh miền núi phía bắc nước ta có địa hình phức tạp và có
đặc điểm chính trị an ninh quốc phòng rất đáng được quan tâm.
Là một sinh viên Khoa Kế hoạch và Phát triển em không mong muốn
gì hơn là được tìm hiểu về đất nước, con người Việt Nam từng bước đưa đất
nước phát triển về mọi mặt từ kinh tế đến xã hội, đảm bảo bước đi vững chắc
vươn tầm tới các nước trên thế giới theo như lời Bác Hồ đã dạy.
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Báo cáo chuyên đề thực tập này là sự vận dụng đầu tiên giữa kiến thức
đã học trong nhà trường, tác phong làm việc của một doanh nghiệp và tư duy


logic của bản thân vào một vấn đề thực tế. Do kinh nghiệm chưa có nhiều nên
trong quá trình phân tích vấn đề và giải quyết vấn đề còn nhiều sai sót, vì vậy
em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các anh chị trong
Tổng công ty điện lực miền Bắc để sự hiểu biết của em về vấn đề được hoàn
chỉnh và trọn vẹn, từ đó có thể giúp ích được sự phát triển của nước nhà nhiều
hơn nữa.
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG MỘT
SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN LƯỚI ĐIỆN ĐẾN
CÁC XÃ NGHÈO TỈNH CAO BẰNG
1.Vai trò của năng lượng điện đối với phát triển kinh tế.
Trong xã hội hiện đại sự ứng dụng sức điện đã trở thành cơ sở vật chất
không thể thiếu trong các ngành kinh tế quốc dân và trong đời sống con
người. Nhưng khoảng thời gian loài người nắm được sức mạnh điện thì chưa
lâu lăm:
Thời xưa tất cả các công việc của con người trong sản xuất, cuộc sống
đều được làm bằng sức người, sức của súc vật như trâu bò, ngựa… rồi tiến lên
là nhờ vào sức gió, guồng nước với quy mô nhỏ. Theo nhịp độ phát triển của
xã hội các công việc này dần được thay thế bởi các công cụ bằng máy hơi
nước, máy móc thiết bị chạy bằng điện lúc này mới bắt đầu xuất hiện những
khu sản xuất có quy mô lớn trong nền kinh tế, phục vụ cho nền công nghiệp
cận đại. Ứng dụng của điện trong 100 năm trở lại đây thực sự là động lực
không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học, xây dựng quốc phòng, trong đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Nó quan trọng như vậy là vì nó có những đặc điểm mà các động lực
khác không thể có được, nó vừa có thể tập trung vừa có thể phân tán, do vậy
mà có thể cung cấp đủ cho từ những máy vài mã lực cho đến những máy vài
nghìn mã lực, có thể cung cấp cho mọi máy móc không kể xa hay gần nơi
phát điện từ đó giúp các nhà máy không bị hạn chế bởi điều kiện của địa

phương, nơi sản xuất không nhất thiết phải đặt cạnh nơi cung cấp nguyên liệu.
Mặt khác điện lực còn có đặc điểm ưu việt đó là dễ dàng thuận tiện chuyển
thành các dạng năng lượng khác như cơ năng, nhiệt năng, quang năng… thỏa
mãn mọi đòi hỏi của nơi dùng, dễ quản lý và điều hành.
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngày nay công nghiệp điện đang ngày càng phát triển nhanh từ quy mô
nhỏ đến quy mô lớn, sản xuất điện bắt đầu sử dụng năng lượng hạt nhân, năng
lượng mặt trời những nguồn năng lượng vô hạn, điều này sẽ càng thúc đẩy
sản xuất và tạo phúc lợi cho nhân loại.
1.1.Điện là cơ sở kỹ thuật của ngành công nghiệp
“Để tiến hành công cuộc xây dựng kinh tế mới chúng ta cần có cơ sở
kỹ thuật mới, cơ sở kỹ thuật đó chính là điện, chúng ta nên đứng trên cơ sở đó
mà xây dựng tất cả”. Lê Nin đã nói như thế khi người giải thích tác dụng của
công nghiệp điện trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Từ lời của Lê
Nin ta có thể thấy được tính chất quan trọng của điện trong việc phát triển nền
kinh tế quốc dân. Để có thể làm sáng tỏ hơn nữa vấn đề này, trước hết chúng
ta nói về máy móc.
Mọi người đều biết rằng dùng máy móc để sản xuất không những
nhanh hơn sản xuất thủ công nghiệp, mà còn sản xuất được các sản phẩm đẹp
đẽ và chắc chắn hơn. Lấy việc kéo sợi và dệt vải làm mà xét, nông thôn chúng
ta đều dùng các guồng tay và máy dệt đạp chân để làm các việc đó, chị em
phụ nữ phải ngồi liền từ sớm đến tối, không rời một bước một ngày một
người nhiều lắm chỉ kéo được từ 7-8 lạng sợi hoặc dệt được 2m vải khổ hẹp,
hơn nữa khi kéo ra to nhỏ không đều, cuộn sợi chặt lỏng khác nhau dẫn đến
mặt vải thô nhiều nốt sần. Nếu làm bằng máy thì khác hẳn một công nhân loại
thông thường có thể trông 600-800 con suốt hoặc 24-32 máy dệt tự động sản
xuất cùng một lúc. Một ngày 8h trung bình kéo được 226kg bông hoặc 226m
vải. Sợi vải vừa mịn vừa bền, giá cả cũng vừa phải, đem so sánh 2 cách làm
thủ công và máy móc thì thực là một trời một vực. Còn rất nhiều ví dụ khác

có thể nói lên rằng lợi ích to lớn của máy móc trong sản xuất công nghiệp, tuy
nhiên nếu không có động lực thì máy móc cũng trở thành vật chết. Một trong
những động lực chủ yếu và cơ bản nhất của máy móc là điện lực. Điện lực
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngoài việc dùng làm động lực ra còn có thể xúc tiến tiến tự động hóa sản xuất,
nâng cao kỹ thuật chế tạo, tăng thêm các loại sản phẩm cải thiện chất lương
sản phẩm.
Thông thường các nhà máy liên hợp gang thép cỡ lớn từ bước lấy
quặng đến thép cần mười mấy vạn kw, nhà máy phân đạm sản lượng hàng
năm khoảng 50000 tấn cần 40000kW, dệt 100.000 con suốt cần 6000kW. Tất
cả các ngành công nghiệp hiện đại đều sử dụng đến điện rất rộng rãi, vả lại
trình độ cơ giới hóa càng cao, tự động hóa càng cao thì nhu cầu về điện lại
càng nhiều, cho nên điện được goi là động lực của Công nghiệp, chỉ có cung
cấp thật dồi dào điện thì sản xuất công nghiệp mới có thể phát triển nhanh.
1.2.Điện lực là điều kiện kỹ thuật quan trọng không thể thiếu được
trong phát triển nông nghiệp.
Cải tạo kỹ thuật công nghiệp tức là đưa nền sản xuất nông nghiệp tiến
dần tới cơ khí hóa, điện khí hóa và hóa học hóa. Điều này tương đương với
việc chúng ta cần đưa máy móc thiết bị thay thế sức lao động nhằm nâng cao
hiệu quả chất lượng. Quá trình này sẽ giúp cho tăng năng suất lao động, giảm
hao hụt khi làm bằng tay.
Theo đó một loạt những thay đổi trong bộ mặt nông nghiệp, nào là máy
bơm nước, máy xay sát, hàng rào điện…những ứng dụng của điện trong sản
xuất sẽ đáp ứng được yêu cầu của người nông dân, đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp đặc biệt trong việc nâng cao năng suất cây trồng.
Trong chăn nuôi gia súc giúp giảm nhiều sức lao động, hơn nữa gia súc
nuôi béo, lại có thể nâng cao chất lượng lông, da, sữa. Không những thế nó
giúp người nông dân chuyển đổi ngành nghề khi rỗi băng cách sản xuất phụ ví
dụ như mở các xưởng sửa chữa cơ khí, xưởng cưa điện, chế biến thực

phẩm….
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Do đó điện khí hóa, cơ khí hóa càng được đẩy mạnh thì trình độ văn
hóa, tri thức khoa học của nông dân cũng theo đó mà tăng không ngừng,
khiến cho lao động có tính chất nông nghiệp chuyển dần sang công nghiệp,
tiêu diệt sự phân biệt công nhân – nông dân, thành thị - nông thôn. Từ đó thay
đổi bộ mặt nông thôn, cổ vũ lòng tin cho nông dân vào Đảng, chính quyền
xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh và phát triển.
2.Hệ thống lưới điện.
2.1.Định nghĩa và phân loại.
Điện là một khái niệm tổng quát dùng để chỉ các hiện tượng mà nguyên
nhân là do các điện tích đứng yên hay chuyển động cũng như điện trường và
từ trường do chúng ta tạo nên. Các điện tích có điện tích âm( như là electron
hay còn gọi là điện tử) và dương( như là proton và các ion dương). Các hạt
tích điện cùng dấu thì đẩy nhau và khác dấu thì hút nhau, các lực tương úng là
lực đẩy và lực hút.
Điện thường được truyền tải thông qua sự chuyển động của dòng
electron trong các vật cứng. Dây dẫn từ chất có điện trở nhỏ(độ dẫn điện cao)
thường được sử dụng, điển hình là bạc, đồng và nhôm. Hao hụt trong quá
trình truyền tải là không thể tránh khỏi, điển hình là hiện tượng nóng lên của
dây dẫn. Sự hao hụt này trong truyền tải điện năng khoảng cách xa có thể
giảm khi tăng hiệu điện thế của dòng điện.
Vì vậy hệ thống lưới điện được hiểu là hệ thống các đường dây dẫn độ
dẫn điện cao có nhiệm vụ truyền tải điện từ các máy phát điện ở các nhà máy
điện tới những nơi tiêu thụ điện.
Người ta phân chia hệ thống lưới điện ra làm 3 hệ thống lưới điện phân
theo cấp điện áp, bao gồm:
Lưới điện cao áp: cấp điện áp 110kv trở lên
Lưới điện trung áp: cấp điện áp từ 0.4kv đến 110kv

SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lưới điện hạ áp: cấp điện áp dưới 0.4kv
Thông thường đường dây điện hạ áp được dùng để truyền tải điện
đến các hộ gia đình, dùng để sản xuất và dùng trong sinh hoạt hàng
ngày. Lưới điện trung áp dùng để truyền tải điện đến các khu công
nghiệp nhằm đảm bảo đủ điện để cung cấp cho máy móc thiết bị có
công suất lớn trong các nhà máy, còn đường dây cao áp dùng để truyền
tải điện từ nơi cung cấp điện tức là các nhà máy phát điện tới các trạm
biến áp của các tỉnh, đường dây này có tác dụng truyền tải điện đi xa là
chủ yếu.
2.2.Nhân tố ảnh hưởng
2.2.1.Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình quản lý hệ thống lưới điện.
Ngành điện:
Hệ thống lưới điện hoạt động dưới sự quản lý của tập đoàn điện
lực Việt Nam EVN(Viet Nam Electricity), dưới sự kiểm soát của Bộ
Công thương và định hướng của chính phủ. Trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội chính phủ sẽ đưa ra chiến lược và tầm nhìn cho cả đất
nước, theo đó các ngành các cấp sẽ tiến hành xây dựng và phát triển
lĩnh vực mình đảm nhiệm để phấn đấu đạt mục tiêu trên. Ngành điện
lực với vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của cả đất
nước có nhiệm vụ đi tắt đón đầu tạo nền tảng tương lai cho các ngành
sản xuất vật chất khác bước theo thì càng phải có những bước chuẩn bị
kỹ càng. Cứ 5 năm một lần các cơ quan ngành điện cùng với chính phủ
xây dựng quy hoạch tổng thể ngành điện, dựa trên tầm nhìn chiến lược
của cả đất nước trong thời gian tiếp theo. Như vậy ngành điện đóng vai
trò quyết định sự sắp xếp phân bố của hệ thống lưới điện trên toàn
quốc, việc phát hiện các khu vực phát triển tiềm năng, các vùng dân cư
có đặc điểm kinh tế chính trị đặc biệt và xu hướng phát triển của đất
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nước sẽ quyết định cách sắp xếp này và quyết định sự tăng hay giảm tốc
độ phát triển của nước ta trong những giai đoạn tiếp theo.
Ngành điện mà cụ thể là Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN)
ngoài việc quyết định cách bố trí hệ thống lưới điện còn là chủ thể quản
lý trực tiếp hệ thống lưới điện này, việc phân bổ nguồn lực cho đầu tư
xây dựng mới lưới điện ở các vùng kinh tế mới, kinh tế trọng điểm của
các tỉnh và ở các vùng sâu vùng xa được thực hiện hàng năm, lợi nhuận
hàng năm của tập đoàn sẽ được giữ lại một phần để thực hiện đầu tư
mới và nâng cấp sửa chữa hệ thống lưới điện xuống cấp. Việc đầu tư
nâng cấp và sửa chữa này sẽ được thực hiện thông qua các dự án hàng
năm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các tổng công ty ở ba miền Bắc -
Trung - Nam, các dự án này sẽ góp phần mở rộng hệ thống lưới điện,
đưa điện đến từng xã, thôn bản.
Chính quyền địa phương:
Với vai trò là cơ quan quản lý toàn bộ mọi hoạt động trên địa bàn
vì vậy mà chính quyền địa phương cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc tham gia xây dựng và phát triển hệ thống lưới điện. Nếu như quy
hoạch tổng thể ngành điện được chính phủ duyệt chủ yếu bao gồm các
đường dây lưới điện cao áp và một phần trung áp thì chính quyền địa
phương lại có quyền quyết định hệ thống đường dây trung áp và hạ áp
trên địa bàn dựa trên quy hoạch tổng thể đó. Trên cơ sở quy hoạch tổng
thể ủy ban nhân dân tỉnh thành phố sẽ xây dựng sơ đồ hệ thống đường
dây trung áp và hạ áp phù hợp với quy hoạch và kế hoạch phát triển của
tỉnh trong những năm tiếp theo. Từ đó chính quyền địa phương sẽ có kế
hoạch kịp thời hỗ trợ ngành điện trong quá trình triển khai các dự án
điện trên địa bàn, cụ thể là dành quỹ đất cho ngành điện để xây dựng
các trạm biến áp , cột điện…đồng thời triển khai kế hoạch di dân về các
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

vùng kinh tế mới, nơi các dự án sẽ đưa điện tới, mặt khác còn cần phối
hợp công tác đầu tư xây dựng đường liên huyện liên xã phù hợp với kế
hoạch phát triển tỉnh phù hợp với quy hoạch hệ thống lưới điện.
Mặt khác do sự thay đổi liên tục của mọi mặt của cuộc sống mà
các cơ quan chính quyền địa phương khó lòng dự báo được chính xác
mà hệ thống đường dây trung áp và hạ áp đã được xây dựng không phù
hợp với sự phát triển của địa phương, lúc này chính quyền địa phương
sẽ yêu cầu sự hỗ trợ của ngành điện, hai bên sẽ đưa ra nhưng phương án
cụ thể để hỗ trợ địa phương và sửa đổi sơ đồ phát triển cho phù hợp sự
phát triển của địa phương cũng như sự phát triển chung của toàn đất
nước.
Rõ ràng là rất nhiều công việc cần phải giải quyết của chính
quyền địa phương, nhưng chính nó cũng sẽ là mấu chốt quan trọng
trong quá trình phát triển hệ thống lưới điện, đảm bảo kịp thời gian,
nhanh chóng đưa điện đến người dân đến nơi sản xuất, góp phần thực
hiện mục tiêu của cả đất nước trên con đường phát triển.
2.2.2.Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và bảo dưỡng hệ
thống lưới điện.
Khi người ta nói đến sự phát triển thì không thể không đề cập ba
nhân tố quan trọng là nguồn nhân lực, vốn và công nghệ. Hệ thống lưới
điện cũng bị ảnh hưởng bởi ba nhân tố này trong quá trình xây dựng.
Nhân lực:
Hệ thống lưới điện được xây dựng và phát triển thông qua các dự
án, các dự án lại thường được thực hiện ở vùng sâu vùng xa hoặc các
vùng kinh tế mới, các khu công nghiệp trọng điểm của tỉnh, do vậy mà
yêu cầu nguồn nhân lực cho quá trình xây dựng đòi hỏi cả về chất và
lượng. Đối với các dự án triển khai tại các vùng sâu vùng xa đường dây
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lưới điện cần lắp đặt kéo dài đến vài trăm km cần một lượng công nhân

điện không hề ít, không những thế dự án thường được diễn ra đồng thời
trên nhiều tỉnh thành phố do vậy mà số lượng công nhân hạn chế sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến độ thi công thậm chí gây lãng phí thất thoát
do các giai đoạn dự án bị chậm trễ, máy móc làm việc không hết công
suất.
Ngược lại đối với các dự án được tiến hành tại các khu công
nghiệp, khu kinh tế trọng điểm, nơi có mật độ kinh tế cao, phạm vi nhỏ
nhưng hệ thống lưới điện rất phức tạp cần đội ngũ công nhân có tay
nghề cao, tìm ra đường dây nào là phù hợp với công suất của các máy
móc trong khu vực đó, cách kết nối nào là thuận tiện cho quá trình sửa
chữa bảo dưỡng. Chính đội ngũ công nhân này là một phần quan trọng
trong quá trình xây dựng và lắp đặt đường dây lưới điện, là nhân tố
quan trọng quyết định chất lượng và sự an toàn của hệ thống lưới điện
đối với nơi mà nó được sử dụng.
Trong quá trình sử dụng hệ thống đường dây điện này khó lòng
tránh khỏi hư hỏng cần thiết phải có đội ngũ sửa chữa và bảo dưỡng tuy
nhiên ở các vùng núi hệ thống đường dây rất dài vì thế mà càng cần
phải tăng cường đội ngũ sửa chữa điện ở cơ sở để kịp thời sửa chữa
phục vụ nhân dân, thiếu những thợ điện cấp cơ sở sẽ ảnh hưởng không
nhỏ đến cuộc sống của nhân dân và sự tồn tại của hệ thống điện nơi
đây.
Vốn và khoa học công nghệ
Vốn là một yếu tố quan trọng khi đẩy nhanh tiến độ thi công của
các dự án hay sự phát triển của hệ thống lưới điện, hệ thống máy móc
kịp thời và phù hợp với địa hình nơi lắp đặt và xây dựng hệ thống điện
sẽ là cơ sở để tạo ra hệ thống điện an toàn, bền vững, chất lượng. Chính
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vì vậy mà hàng năm các công ty điện lực vẫn thường xuyên đầu tư trang
thiết bị mới hiện đại phục vụ cho quá trình xây lắp hệ thống điện.

Bên cạnh vốn là khoa học công nghệ, khoa học công nghệ luôn
luôn chiếm hàng đầu trong việc thúc đẩy quá trình triển khai hệ thống
lưới điện, do vậy mà khi công nghệ càng cao thì các công trình ngày
càng được xây dựng với kỹ thuật cao hơn trước và thời gian hoàn thành
cũng sớm hơn, các công trình xây dựng ngày càng phù hợp với sự phát
triển của đất nước. Đi kèm với nó là chất lượng điện được truyền tải
tốt, dịch vụ điện được cải thiện, các vùng hạ nguồn được sử dụng điện
thường xuyên hơn thời gian điện bị ngắt đội ngột cũng giảm xuống.
Khoa học công nghệ tác động đến mọi mặt của quá trình xây dựng hệ
thống lưới điện, sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ kéo theo sự
phát triển hệ thống lưới điện, tạo ra nền tảng tương lai của nền kinh tế
trong các giai đoạn tiếp theo.
2.3.Đặc điểm của hệ thống lưới điện.
2.3.1.Thống nhất trên phạm vi quốc gia.
Hệ thống lưới điện quốc gia hiện nay nằm dưới sự quản lý của Tập
đoàn điện lực Việt Nam EVN, toàn bộ các nhà máy phát điện trước đây đều
thuộc sở hữu nhà nước do vậy mà tất cả điện đều được hòa vào lưới điện quốc
gia. Hệ thống lưới điện không những đưa điện từ các nhà máy điện đến nhân
dân trong vùng và các khu công nghiệp gần đó mà còn đưa điện tới các tỉnh
khác, tới các vùng sâu vùng xa, tới các khu kinh tế lớn tiêu tốn nhiều năng
lượng do vậy mà hệ thống lưới điện quốc gia được kết nối liền mạch với nhau
từ tất cả cả các tỉnh thành phố trong cả nước thành một thể thống nhất dưới sự
quản lý của EVN, trong giai đoạn gần đây thực hiện chủ trương phát triển
ngành điện đa dạng hóa trong công tác cung cấp điện nên nhiều nhà máy sản
xuất điện tư nhân cũng đã xuất hiện, các nhà máy này xuất hiện chủ yếu ở các
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tỉnh miền núi nơi có nhiều sông để xây dựng nhà máy thủy điện mini phục vụ
cho nhu cầu sử dụng điện trực tiếp của người dân những vùng này, tuy nhiên
lượng điện sản xuất ra lớn hơn nhiều so với lượng điện tiêu thụ tại địa bàn nhà

máy mà chi phí xây dựng vốn đã lớn do vậy mà tất cả các nhà máy này điện
này cũng đã chủ động bán điện cho tập đoàn EVN, vì vậy mà hệ thống đường
dây truyền tải điện của các nhà máy này cũng đã nối vào lưới điện quốc gia.
Chính vì vậy một lần nữa ta chắc chắn rằng hệ thống lưới điện là một
thể thống nhất, một mặt thực hiện phục vụ nhu cầu tại địa bàn, một mặt sẵn
sàng cung cấp cho các địa phương khác trên toàn quốc đảm bảo sản xuất ổn
định, góp phần phát triển nền kinh tế.
2.3.2.Hệ thống lưới điện được sắp xếp bố trí trên cơ sở khoa học.
Hệ thống điện lưới hiện nay của nước ta được xây dựng trên cơ sở tổng
sơ đồ quy hoạch ngành điện, dựa trên định hướng của chính phủ trong những
năm tiếp theo về phát triển kinh tế xã hội mà tập đoàn điện lực sẽ xây dựng
tổng sơ đồ này nhằm mục tiêu là một trong những cơ sở vật chất quan trọng đi
trước một bước để phục vụ nền kinh tế. Trong tổng sơ đồ này sẽ ghi rõ cụ thể
đường dây cao áp trên toàn quốc và định hướng sơ bộ hệ thống lưới điện
trung áp. Sau đó các tỉnh sẽ dựa vào sơ đồ này để xây dựng hệ thống lưới điện
trung áp và hạ áp của tỉnh dựa trên quy hoạch phát triển của tỉnh trong những
năm tiếp theo.
Quy hoạch sơ đồ bố trí hệ thống lưới điện là tập hợp tư duy của những
tập thể các nhà lãnh đạo được xây dựng kỹ càng từ trên xuống dưới với sự hỗ
trợ và phối hợp của nhiều cơ quan chức năng cũng như cơ quan có liên quan
để tạo ra bộ khung hoàn chỉnh cho sự phát triển của nền kinh tế, quy hoạch
này được xác định dưới nhiều tác động của nội tại đất nước cùng với xu
hướng vận động của thế giới do vậy mà nó được nghiên cứu và xem xét rất kỹ
trước khi được thủ tướng phê duyệt.
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chính vì vậy mà hệ thống lưới điện không bị phát triển theo tự do thiếu
sự quản lý, tất cả các hệ thống đường dây điện được xây dựng đã được lên kế
hoạch từ trước đến từng xã, thôn, bản trên cả nước, đảm bảo đất nước phát
triển nhanh, mạnh, đúng trọng tâm phù hợp với xu hướng của thế giới.

2.3.3.Quy mô và tốc độ phát triển hệ thống lưới điện phụ thuộc vào lượng
vốn huy động.
Như trên đã phân tích toàn bộ đường dây cao áp và trung áp, hạ áp đã
được quy hoạch cụ thể đến từng xã, tuy nhiên để đưa được điện tới từng xã lại
là vấn đề khác. Không phải tự nhiên mà ngành điện lại là một ngành độc
quyền, nó có thể độc quyền trong truyền tải điện là do chi phí xây dựng, lắp
đặt và triển khai đường dây điện tới các hộ gia đình và các khu công nghiệp là
rất lớn, chi phí này còn lớn hơn rất nhiều khi muốn đưa điện đến các xã vùng
sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo. Nếu như đầu tư xây dựng hệ thống
đường dây tại các khu công nghiệp, khu dân cư có mật độ kinh tế cao thì tập
đoàn điện lực hoàn toàn có khả năng thu hồi vốn nhưng nếu đầu tư cho vùng
đặc biệt khó khăn thì sẽ khó mà đạt được hiệu quả kinh tế. Tuy vậy với sự
định hướng của chính phủ hàng năm tập đoàn vẫn trích lại một phần thu nhập
để đầu tư cho các xã vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo để đảm bảo an
ninh chính trị, tăng hiệu quả về kinh tế và xã hội của đất nước. Mặc dù vậy
với địa hình ở các khu vực đặc biệt đó và với số vốn không phải là quá lớn
nên chỉ có thể đầu tư dần dần vào các xã khó khăn nhưng có khả năng thu hồi
vốn tốt nhất, vì thế mà tốc độ phát triển hệ thống lưới điện ở các vùng này còn
rất chậm. Điều này chỉ được khắc phục trong những năm gần đây sau khi có
sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước
dành cho phát triển cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển. Nguồn vốn này
khá lớn trung bình mỗi đợt lên tới vài trăm triệu USD, mặt khác nguồn vốn có
lãi suất ưu đãi, thời gian ân hạn dài là điều kiện thuận lợi để tập đoàn điện lực
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từng bước đẩy nhanh tốc độ phát triển mạng lưới điện, góp phần kích thích
quá trình cơ giới hóa nông thôn, điện khí hóa nông thôn, thay đổi bộ mặt của
người dân nơi đây. Do vậy có thể nói rằng tốc độ phát triển của hệ thống điện
phụ thuộc lớn vào nguồn vốn mà ngành điện có thể huy động từ bên ngoài,
đồng thời phụ thuộc một phần vào kết quả kinh doanh của ngành điện, cả hai

công tác này làm tốt sẽ là điều kiện thuận lợi để hoàn thành hệ thống lưới điện
trên toàn quốc.
Ngoài ra các hệ thống lưới điện còn có thể được đầu tư nhờ vào nguồn
vốn của chính quyền địa phương, một số địa phương có nguồn thu lớn có khả
năng sẽ sử dụng một phần nguồn vốn của mình để đầu tư xây dựng trực tiếp
hệ thống lưới điện tại các xã trong địa bàn, thông qua sự đồng ý và tư vấn của
ngành điện, tuy vậy số vốn này thường nhỏ, không thường xuyên.
Rõ ràng là để đạt được chỉ tiêu 100% hộ có điện vào năm 2020 thì
ngành điện, chính phủ và chính quyền địa phương cần phải cố gắng hơn nữa
trong việc tăng nguồn thu, tăng nguồn vốn huy động từ quốc tế để dành cho
phát triển hệ thống lưới điện trên toàn quốc.
3. S c n thi t phát tri n m ng l i đi n đ n các xã nghèoự ầ ế ể ạ ướ ệ ế
t nh Cao B ng.ỉ ằ
3.1. Giới thiếu tổng quan chung về tỉnh Cao Bằng.
Cao Bằng là tỉnh miền núi biên cương phía bắc tổ quốc, có địa hình
tương đối hiểm trở lại nằm cách xa các trung tâm lớn của miền Bắc. Cao
Bằng có diện tích tự nhiên 6.690,72km2, phía Bắc và Đông giáp Trung Quốc
với đường biên giới dài 332km, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang,
phía nam giáp tỉnh Bắc Cạn và Lạng Sơn. Trung tâm tỉnh lỵ là thị xã Cao
Bằng cách thủ đô Hà Nội 286km về phía Bắc theo quốc lộ 3.
Nhưng đổi lại, Cao bằng được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều phong
cảnh trữ tình nên thơ như: thác Bản Dốc, động Ngườm Ngao, hồ Thăng Hen ..
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong lòng đất lại có nhiều khoáng sản quý hiếm như : sắt , mangan, thiếc ,
boxit, vàng… có nguồn nước dồi dào thuận tiện cho phát triển thủy điện cùng
tài nguyên đất, tài nguyên rừng đa dạng phong phú… Những yếu tố đó đã và
đang tạo nên những tiền đề cơ bản để Cao Bằng đẩy mạnh phát triển kinh tế
xã hội sớm đua Cao Bằng trở thành tỉnh khá, năng động trong khu vực trong
tương lai không xa.

Trong những năm vừa qua tỉnh Cao Bằng với nỗ lực của mình đã có
những bước tiến rõ rệt cả về chất và lượng đưa nền kinh tế tỉnh từng bước
vươn lên. Cụ thể trong giai đoạn 2001-2005 kinh tế xã hội Cao Bằng đã có
bước phát triển đáng mừng: cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân đạt 10.95%, thu nhập bình quân đạt gần
300USD/ng/năm. Kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư xây dựng, 100% xã
có đường ôtô đến trung tâm, 168 xã có lưới điện tới trung tâm xã.
Tuy nhiên những kết quả trên vẫn chưa đủ để phản ánh được hết những
tiềm năng mà tỉnh Cao Bằng có được, nổi tiếng với tài nguyên rừng và tài
nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, quy tụ nhiều loài động vật quý
hiếm, cùng với 22 loại khoáng sản bởi lẽ do ở vị trí địa lý không thuận lợi nên
về mặt kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém.
Dưới sự quan tâm của Đảng và sự cố gắng của chính quyền địa phương
tỉnh Cao Bằng trong nhiều năm vừa qua tình hình xã hội của tỉnh được giữ ổn
định và ngày càng tăng cường về mọi mặt của đời sống nâng cao lòng tin của
nhân dân vào Đảng, nhà nước Việt Nam đặc biệt là các dân tộc thiểu số, gia
đình có công với cách mạng. Ngành giáo dục và y tế tại tỉnh cũng dần được
nâng cao và tăng cường nhằm phục vụ tốt nhất cho người dân kể cả những hộ
nghèo xa trung tâm thị xã.
Trước hết phải kể đến sự tiến bộ vượt bậc của ngành giáo dục trong
việc vận động người dân đi học đồng thời tăng cường đội ngũ giảng dạy cho
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tất cả các xã góp phần cùng cả nước đạt thành tích phổ cập bậc tiểu học và
trung học cơ sở.
Đến năm 2005 toàn tỉnh có 285.310 người trong độ tuổi lao động, trong
đó lao động tham gia vào nền kinh tế quốc dân là 277.110 người, riêng lao
động khu vực nông thông chiếm 88%. Cơ cấu lao động của tỉnh phân bố
không đều số lượng làm việc thường xuyên ở nhóm ngành nông- lâm nghiệp
chiếm 76.62%. Tiến độ chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp nông thôn sang

công nghiệp còn chậm. Vì vậy vấn đề giả quyết việc làm tăng thu nhập cho
người lao động ở Cao Bằng được hết sức quan tâm.
3.2.Sự cần thiết phải phát triển hệ thống lưới điện đến các xã nghèo tỉnh
Cao Bằng.
Một xã, huyện, tỉnh hay lớn hơn là một quốc gia muốn phát triển kinh
tế, xã hội và môi trường thì cần phải có sự đầu tư lớn về kết cấu hạ tầng, nó là
toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật nền tảng để đảm bảo sự phát triển
một cách bền vững.
Theo cách tiếp cận dựa vào công dụng trực tiếp người ta chia kết cấu hạ
tầng thành 2 loại là kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội. Kết cấu
hạ tầng kinh tế là toàn bộ cơ sở hạ tầng bảo đảm trực tiếp cho phát triển kinh
tế, quốc phòng, an ninh, gồm mạng lưới giao thông vận tải, mạng lưới cấp
thoát nước, điện, khí, mạng lưới bưu chính – viễn thông, thông tin liên lạc, hệ
thống thủy lợi… Kết cấu hạ tầng xã hội là toàn bộ cơ sở hạ tầng bảo đảm trực
tiếp cho phát triển xã hội gồm: nhà ở, các cơ sở trường học, y tế, văn hóa, cơ
sở nghiên cứu khoa học, công trình công cộng, cơ sở và công trình bảo vệ môi
trường…
Ở đây kết cấu hạ tầng kinh tế sẽ là điều kiện để nâng cao và phát triển
kết cấu hạ tầng xã hội, do vậy mà khi lập kế hoạch phát triển một vùng kết
cấu hạ tầng kinh tế sẽ được tính toán và xây dựng trước tiên. Trong kết cấu hạ
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tầng kinh tế các nhân tố trong kết cấu đều có vai trò quan trọng và có ảnh
hưởng khác nhau đến sự phát triển kinh tế, quốc phòng và an ninh, các yếu tố
này một mặt tạo điều kiện phát triển các mặt khác nhau của đời sống nhân
dân, một mặt tương tác hỗ trợ nhau để phát huy hết khả năng của mỗi yếu tố,
ví dụ hệ thống giao thông được xây dựng là điều kiện tốt để xây dựng hệ
thống mạng lưới điện, điện được xây dựng sẽ là điều kiện để phát triển thông
tin liên lạc, thủy lợi … do vậy mà các yếu tố này thường được tổ chức xây
dựng đồng bộ hợp lý tùy thuộc vào địa điểm được đầu tư phát triển. Tuy

nhiên ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu phát triển hệ thống giao thông vận
tải, mạng lưới điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông và thông tin liên
lạc. Trong chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo của nước ta cũng đã
chỉ rõ rằng cần phải đầu tư xây dựng đồng bộ và chú trọng đến đầu tư kết cấu
hạ tầng tạo nền tảng phát triển kinh tế xã hội giúp các xã nghèo phát triển,
nâng cao mức sống và thay đổi nhận thức. Do vậy mà điện với tư cách mà nền
tảng của sự phát triển cần phải được đầu tư ở các xã nghèo các xã thuộc vùng
đặc biệt khó khăn những nơi mà người dân vẫn chưa được sử dụng điện hay
nói cách khác là họ đã thiếu hụt cơ hội phát triển so với những người khác.
Các xã nghèo tỉnh Cao Bằng là các xã có thu nhập trung bình của người
dân ở mức thấp, có điều kiện tự nhiên không tốt ảnh hưởng đến quá trình phát
triển kinh tế của các xã này. Đặc biệt các xã này thường là các xã ở vùng sâu
vùng xa, các xã nằm tại vùng biên giới tách biệt với các trung tâm lớn, do vậy
mà việc đưa điện đến các xã này gặp nhiều khó khăn, chi phí xây dựng đường
dây truyền tải điện vốn đã cao nay càng tăng cao hơn. Chiều dài từ trạm biến
áp tới các hộ dân ở vùng sâu vùng xa các xã nghèo thường dài từ 2-3km thậm
chí nhiều hộ còn cách trạm biến áp gần 10km do vậy mà đầu tư hệ thống lưới
điện vào đây chi phí sẽ rất cao mà số hộ dân được sử dụng lại không nhiều
dao động khoảng vài trăm hộ, trong khi đó ở các khu vực thành thị trạm biến
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
áp ngay sát các hộ dân, với một trạm biến áp bán kính cấp điện 3km là có thể
cấp điện cho vài nghìn thậm chí vài chục nghìn hộ. Bên cạnh đó các hộ ở đây
có thu nhập thấp, lượng điện sử dụng không lớn khiến cho tổng điện thành
phẩm bán được các xã nghèo không đủ chi trả cho chi phí bảo dưỡng và đầu
tư ban đầu.
Tuy nhiên hàng năm ngành điện hay tỉnh Cao Bằng vẫn cố gắng trích
một khoản vốn để đầu tư cho các xã này tiến tới 100% các xã trên toàn quốc
có điện vào năm 2020 và giảm số hộ không có điện xuống mức dưới 5% theo
chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta.

Rõ ràng là hiệu quả tài chính đã không thể đạt được ở đây nhưng lý do
nào mà chính phủ, ngành điện cũng như chính quyền địa phương phải làm
như vậy, lý do chỉ có thể ở đây là đặc điểm chính trị của các xã này và mục
tiêu phát triển bền vững toàn diện của tỉnh cũng như của cả nước.
Thứ nhất, Cao Bằng là một tỉnh nằm ở vị trí phía bắc của tổ quốc liền
kề với đất nước Trung Quốc, trên địa bàn của tỉnh cũng như ở các xã có rất
nhiều thành phần dân tộc sinh sống, tỉnh có vị trí quan trọng trong việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của vùng. Đồng thời còn có vai trò quan trọng trong
vấn đề an ninh quốc phòng và ổn định chính trị của các dân tộc anh em khu
vực phía Bắc. Chính vì vậy mà việc phát triển mạng lưới điện nông thôn của
tỉnh Cao Bằng đặc biệt là các xã nghèo không chỉ nhằm phát triển lợi ích về
mặt kinh tế mà còn bao hàm cả các lý do về chính trị và an ninh quốc phòng.
Cho nên không thể chậm trễ trong vấn đề này mà phải tích cực đẩy nhanh
công việc phát triển điện ở các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng nhằm thúc đẩy
việc hoàn thành công việc điện khí hóa cho các xã nghèo.
Thứ hai, các xã nghèo tỉnh Cao Bằng tập trung ở khu vực nông thôn, và
trong những năm gần đây ngành nông nghiệp Cao Bằng đã có bước phát triển
nhanh đạt được tốc độ tặng trưởng tốt và khá ổn định dẫn đến đời sống nông
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dân ngày càng được nâng cao và nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng đòi hỏi
ngày càng cao. Với mạng lưới điện như hiện nay thì không đủ để cung cấp
điện sinh hoạt và sản xuất cho những người dân đạt được hiệu quả cao.
Thứ ba, muốn chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng công nghiệp
hóa và hiện đại hóa, để khai thác tối đa tiềm năng, tăng hiệu quả sản xuất của
sản phẩm thì các mặt hàng nông lâm hải sản phả được qua chế biến. Nhưng
hiện nay ở các xã nghèo các mặt hàng nông sản hầu hết ở dạng thô, do chưa
áp dụng trình độ kỹ thuật và máy móc vào việc sản xuất chưa tiến hành cải
tạo giống để nâng cao hiệu quả kinh tế, tập quán canh tác còn lạc hậu. Chính
vì vậy mà điện về các xã nghèo tỉnh Cao Bằng sẽ giúp cho công nghiệp hóa

hiện đại hóa các sản phẩm cây trồng vật nuôi cũng như đưa kỹ thuật và máy
móc vào sản xuất để nâng cao hiệu quả của các sản phẩm nông nghiệp.
Thứ tư, phát triển kinh tế nhiều thành phần của đất nước ta cũng như
của tỉnh Cao Bằng là một giải pháp chiến lược chứ không phải là giải pháp
tình thế. Phải thấy rằng sự tăng trưởng của bất kỳ thành phần kinh tế nào,
nông thôn hay thành thị cũng đều góp phần làm phát triển nền kinh tế tỉnh. Do
vậy, cần phải bình đẳng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh
tế, đảm bảo tính cạnh tranh và thức đẩy. Tuy nhiên hiện nay giá thành điện
của khu vực nông thôn đặc biệt là các xã nghèo thuộc vùng sâu vùng xa của
tỉnh là rất cao so với thành thị có nơi giá điện gấp hơn 3 lần, đây là điều kiện
bất lợi đối với sản xuất ở khu vực nông thôn. Do vậy mà việc phát triển mạng
lưới điện là vấn đề cần thiết để giảm bớt thiệt thòi về giá điện hiện nay đối với
các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng.
Thứ năm, hiện nay vấn đề ô nhiễm về môi trường của tỉnh Cao Bằng
đang là vấn đề khá nan giải, trong những năm gần đây thì tình hình thời tiết
cũng như khí hậu ở nước ta diễn ra hết sức phức tạp, các trận lũ lụt thường
xuyên xảy ra. Nguyên nhân này một phần là do biến đổi khí hậu toàn cầu mặt
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác là do đồng bào tại các xã nghèo tỉnh Cao Bằng vẫn đốt nương làm rẫy,
sử dụng nguồn năng lượng truyền thống như than củi làm chất đốt cho mục
đích sinh hoạt và sản xuất. Vì vậy đã gây ảnh hưởng xấu đến môi trường tự
nhiên của tỉnh, cho nên việc phát triển hệ thống mạng lưới điện về đây sẽ giúp
cho người dân nơi đây chuyển sang việc sử dụng năng lượng truyền thống
sang năng lượng điện để có lợi hơn đối với môi trường.
Thứ sáu, hiện nay nền kinh tế đang phát triển theo hướng thị trường
duới sự điều tiết của nhà nước, tính hiệu quả vẫn đặt ở vị trí quan trọng trong
phát triển nền kinh tế, do vậy mà sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng
được giãn cách giữa các vùng, những vùng có lợi thế sẽ có cơ hội phát triển
ngày càng mạnh, trong khi các vùng khó khăn thì ngày càng nghèo đi tương

đối. Sự bất bình đẳng này cũng sẽ là một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến bất bình đẳng xã hội giữa vùng giàu vùng nghèo, người kinh và người
dân tộc thiểu số, những người dễ bị tổn thương nhất. Do vậy mà chính phủ
với cương vị là cơ quan có nhiệm vụ điều tiết thị trường càng cần phải có điều
chỉnh cần thiết, tác động đến các cơ quan có thẩm quyền để hỗ trợ quan tâm
tới các xã nghèo, vùng đặc biệt khó khăn như trên, thậm chí là quan tâm hơn
cả các xã bình thường để hạn chế tối đa bất bình đẳng xã hội, đảm bảo đất
nước phát triển toàn diện bền vững .Đặc biệt hơn nữa là đầu tư vào cơ sở hạ
tầng cụ thể điện, đây là những cơ sở cần thiết để thay đổi bộ mặt của các xã
nghèo, cho phép họ có cơ hội để phát triển kinh tế, sử dụng công cụ tiên tiến
hơn, cập nhật thông tin bên ngoài thay đổi nhận thức từ đó có niềm tin vào
Đảng chung tay xây dựng quê hương góp phần làm đẹp giàu tổ quốc.
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG LƯỚI ĐIỆN
Ở CÁC XÃ NGHÈO TỈNH CAO BẰNG
1. Đánh giá chung về mạng lưới điện của tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn
trước đây.
Tỉnh Cao Bằng trong những năm vừa qua được sự hỗ trợ của chính phủ
cũng như nhiều tổ chức khác nhau thông qua các chương trình như năng
lượng nông thôn, chương trình 135 nhờ đó mà hệ thống điện và chất lượng
điện ở nhiều xã nghèo trong toàn tỉnh đã thay đổi diện mạo. Trong năm 2005
ngành điện đã nâng cấp và đưa vào sử dụng hơn 60km đường dây 35kv,
0,44km đường dây 10kv, 37 trạm biến áp 35/0.4kv với tổng dung lượng
4.391,5kva, 2 trạm biến áp 10/0.4kv tổng dung lượng 475kva.
Điện lực Cao Bằng đã tập trung đầu tư cải tạo hệ thống đường dây và
trạm biến áp, thực hiện cải tạo và chống quá tải với các phụ tải. Điểm nổi bật
là bên cạnh nguồn vốn đầu tư của công ty điện lực 1 và tổng công ty điện lực
Việt Nam, ngành đã chủ động đề xuất tranh thủ nguồn vốn của địa phương và

sử dụng hiệu quả nguồn vốn của ngân hàng thế giới để xây dựng lưới điện hạ
thế tại các xã nghèo vùng sâu vùng xa đặc biệt khó khăn. Riêng năm 2005
ngành đã đầu tư lắp đặt và đưa vào vận hành thêm một máy biến áp 110kv với
dung lượng 16000kva để chống quá tải trạm 110kv và các khu vực điện lưới
có phụ tải tăng nhanh bằng cách cải tạo các đường dây, trạm biến áp. Hệ
thống lưới điện ở vùng sâu vùng xa biên giới nhờ đó cũng dần được cải tạo,
một số được xây mới dần đáp ứng nhu cầu của đồng bào nơi đây.
Cùng với việc xây dựng lưới điện, ngành đã đầu tư nâng cấp và quản lý
khai thác các nguồn phát điện như xây dựng nhà máy thủy điện Suối Củn (thị
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xã Cao băng) công suất 800kw, thủy điện Nà Tâư huyện Quảng Uyên công
suất 500kw … Đặc biệt nhà máy thủy điện Nà Lòa ở huyện Phục Hòa công
suất 6000kw đi vào vận hành 4-2006 đã bổ sung nguồn năng lượng tại chỗ,
chủ động phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương.
Hướng tới mục tiêu đảm bảo cấp điện ổn định cho tỉnh khi mất điện
lưới 110kv Thái Nguyên – Cao Bằng, ngành điện cao bằng đã triển khai thi
công một số công trình để cấp điện theo lưới 35kv từ Bắc Mê (Hà Giang) sang
Bảo Lâm( Cao bằng) và Thất Khê(Lạng sơn) đến Đông Khê (Cao Bằng). Đồng
thời ngành cũng đang thi công đường dây 110kv Lạng Sơn – Cao Bằng có
chiều dài 141.83km nhằm cấp điện ổn định cho các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng,
Bắc Kạn. Khi những công trình này được đưa vào sử dụng, điện lực Cao Bằng
sẽ đảm bảo cung cấp đủ an toàn và liên tục cho khách hàng, phục vụ tốt nhu
cầu sản xuất – kinh doanh và sinh hoạt của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn
tỉnh, hoàn thành tốt hơn nữa kế hoạch sản xuất kinh doanh đã đề ra.
Điện lực Cao Bằng thường xuyên triển khai công tác quản lý kỹ thuật,
giảm thiểu và khắc phục sự cố nhanh, đảm bảo duy trì vận hành điện lưới ổn
định, liên tục, chú trọng công tác phát triển khách hàng mới, cung cấp điện
kịp thời. Đặc biệt đơn vị rất quan tâm đến khách hàng trong lĩnh vực công
nghiệp – xây dựng, kinh doanh phục vụ nhằm tăng sản lượng điện công

nghiệp, thương mại dịch vụ. Ngoài ra ngành còn chỉ đạo các chi nhánh
thường xuyên kiểm tra áp giá điện theo đúng quy định của nhà nước, nhờ đó
sản lượng điện của các nhà máy sản xuất điện không ngừng tăng. Năm 2000
sản xuất được 12,6 triệu kwh thì đến năm 2006 đạt 14tr kwh, góp phần cải
thiện chất lượng điện lưới cho nhiều xã trong toàn tỉnh. Đến năm 2006 13/13
huyện, thị xã trong tỉnh có lưới điện quốc gia, nếu năm 2000 Cao Bằng chỉ có
78 xã, phường, thị trấn có điện lưới thì đến đầu năm 2006 đã tăng lên 168 xã.
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 1:Báo cáo tổng kết tình hình điện tại tỉnh Cao Bằng năm 2005.
Stt Chỉ tiêu Đơn vị 2005
1 Số huyện có điện lưới số huyện 12
Tỷ lệ % % 92.3
2 Số xã có điện lưới số xã 165
Tỷ lệ % % 95.3
3 Số hộ dân tiếp cận với dịch vụ điện số hộ 83.578
Tỷ lệ % % 83.5
4 Điện tiêu thụ bình quân kwh/hộ/năm 681
5 Giá điện bình quân Đ/kwh 800
Tính tới thời điểm năm 2005 hệ thống mạng lưới điện tỉnh Cao Bằng đã
phát triển khá tốt tỷ lệ số hộ huyện và số xã có lưới điện đã tăng lên trên 90%,
tuy rằng số hộ có điện mới chỉ đạt được 75%, sản lượng điện tiêu thụ bình
quân của tỉnh là khá thấp và giá điện bình quân vẫn còn cao điều này chứng
tỏ hệ thống mạng lưới điện của tỉnh mới đạt được hiệu quả về mặt số lượng
chứ chưa thực sự đạt được về mặt chất lượng.
Có thể nói rằng với sự hỗ trợ tích cực của nhà nước, năng động của
ngành điện và trách nhiệm của chính quyền tỉnh Cao Bằng, hệ thống điện lưới
của toàn tỉnh Cao Bằng đã đạt được những thay đổi nhất định, đời sống của
một bộ phận người dân đã được cải thiện, nhân dân dần được tiếp cận với
điện, đời sống văn hóa tinh thần của người dân được nâng cao.

Tuy nhiên những thành tựu trên của điện lực tỉnh có được là do tập
trung đầu tư vào khu vực thị xã và thị trấn hay những nơi có các ngành công
nghiệp phát triển, còn khu vực nông thôn thì chưa được quan tâm, ở đấy chỉ
có lưới điện hạ thế và các trạm biến áp nhỏ được kéo đến trung tâm xã để
phục vụ nhu cầu thông tin, văn hóa và sinh hoạt của các xã.
Đặc biệt đối với các xã nghèo thuộc vùng sâu và quá xa so với các
trung tâm mà nguồn lưới điện không thể kéo đến được do vậy mà phải sử
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dụng các nguồn điện ngoài lưới như máy nổ hay các trạm thủy điện nhỏ để
phục vụ nhu cầu tối thiểu của xã và các hộ gia đình nơi đây.
Tóm lại về mạng lưới điện tại các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng còn rất
kém phát triển và nghèo nàn đã gây cản trở không ít đến sự phát triển kinh tế
của tỉnh Cao Bằng. Do vậy vẫn cần những cố gắng nỗ lực hơn nữa trong thời
gian tới nếu như Tỉnh Cao Bằng muốn đẩy nhanh kinh tế tỉnh, hòa cùng với
nhịp độ phát triển của cả đất nước và hoàn thành mục tiêu mà Đảng Nhà nước
đã giao phó.
2.Thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng hiện nay.
2.1.Thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
Các hộ gia đình ở xã nghèo tỉnh Cao Bằng có mức sống dân cư thấp,
nhận thức chưa cao đi cùng với đó là sinh sống nhỏ lẻ khiến cho đồng bào dân
tộc nơi đây chưa có cơ hội được tiếp cận với nguồn điện tuy rằng một số xã
điện đã về tới trung tâm xã. Một số xã có điện tới trung tâm nhưng không có
đường dây dẫn tới các hộ gia đình trong xã hoặc có nhưng đường dây đã cũ
lâu không được sửa chữa cải tạo, khiến cho cuộc sống của bà con nơi đây vẫn
chưa thể thoát khỏi cảnh nửa năm được ăn nửa năm nhịn đói. Nhân dân nơi
đây không gì khác ngoài mong muốn có điều kiện để phát triển và nâng cao
chất lượng cuộc sống mặt khác các xã này là các xã nghèo nằm sát biên giới
Việt Trung nơi có đặc điểm chính trị an ninh quốc phòng vô cùng quan trọng
đối với đất nước, là nơi cần thiết có sự quan tâm đặc biệt của Đảng nhà nước

và chính quyền địa phương cũng như các ngành các cấp.
2.1.1.Hệ thống đường dây điện
2.1.1.1.Lưới điện cao áp
Đây là mạng lưới điện 220kv và 110kv, đối với hệ thống điện lưới cao
áp của tỉnh Cao Bằng phát triển chậm và hầu hết chỉ được tập trung ở thị xã
Cao Bằng và các huyện lân cận những nơi có các khu công nghiệp đặc biệt là
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
công nghiệp khai khoáng còn không phát triển vào các khu vực nghèo của
tỉnh. Trong những năm trước nhu cầu điện của nhân dân ở các xã nghèo ở
vùng nông thôn chưa cần tới sự phát triển của đường dây cao thế đặc biệt là
lưới 220kv, vì vậy mà xây dựng đường dây này đến các xã là lãng phí bên
cạnh đó việc đầu tư cho các đường dây cao áp và các trạm biến áp là rất tốn
kém. Do vậy mà cho đến hiện giờ thì các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng vẫn
chưa có đường dây 220kv và các trạm cao thế nào. Tương tự như vậy đường
dây 110kv cho đến nay vẫn chưa được kéo đến các xã nghèo tuy nhiên lưới
điện 110kv có vai trò quan trọng đối với việc cung cấp điện cho các xã nghèo
trong tương lai vì vậy mà lưới điện này đang được điện lực Cao Bằng xem xét
trong các kế hoạch và dự án đưa điện về nông thôn đặc biệt là các xã nghèo
vùng sâu vùng xa của tỉnh.
2.1.1.2.Lưới điện trung áp
Lưới điện trung áp (35kv và 10kv ) đây là lưới điện được quan tâm
trong vấn đề nâng cao chất lượng của mạng lưới điện hiện nay và được đề cập
nhiều trên các diễn đàn cũng như đề cập tới trong các kế hoạch phát triển và quy
hoạch điện của các tỉnh. Việc phát triển mạng lưới điện trung thế trong giai đoạn
trước nhằm tăng số lượng đường dây trung thế đến các trung tâm huyện và thị
trấn sao cho đến năm 2005 không còn trung tâm huyện và thị trấn nào không có
điện lưới và đảm bảo được 70% số xã có đường dây trung thế, ngoài ra nâng cấp
thêm đường dây trung thế ở nông thôn bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng
của đường truyền, giảm tổn thất điện cho khu vực này.

Do vậy mà trước đây hệ thống mạng lưới điện trung áp đã được đầu tư
tương đối ở tỉnh Cao Bằng tuy nhiên hầu hết đường dây trung áp này lại là
đường dây 15kv không phù hợp với sự phát triển của tỉnh cũng như các trạm
biến áp được xây dựng gần đây (trạm biến áp 110/35/4). Hệ thống mạng lưới
điện trung áp 35 và 10kv đang được sử dụng khá phổ biến và được coi là hợp
SV: Đào Duy Long Lớp: KTPT 48A

×