Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 88 trang )

1



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM




NHÂM THỊ TUYẾT HẠNH

TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ
ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ








TP. HCM - Năm 2011
2



Bộ Giáo Dục và Đào Tạo


Trường Đại học Kinh tế Tp. HCM




NHÂM THỊ TUYẾT HẠNH

TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ
ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Ngành : Kinh tế Tài chính – Ngân Hàng
Mã số : 60.31.12

Người Hướng Dẫn Khoa Học
TS. LÊ THỊ KHOA NGUYÊN





TP. HCM - Năm 2011
3



PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong một nền kinh tế mở, tỷ giá hối đoái là một biến số có vai trò quan

trọng và việc hoạch định chính sách tỷ giá là một trong những trọng tâm của nhiệm
vụ điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ các nước nhằm giảm thiểu tác động của
những cú sốc do biến động kinh tế khách quan từ nền kinh tế thế giới trong quá
trình hội nhập.
Nền kinh tế Việt Nam từ khi gia nhập WTO cuối năm 2006 đến nay đang
dần gỡ bỏ những rào cản thương mại cho phù hợp với điều kiện gia nhập WTO, cơ
chế điều hành tỷ giá cũng phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế nhưng vẫn
đảm bảo được các mục tiêu vĩ mô của Chính Phủ. Cơ chế và những chính sách điều
hành tỷ giá là một nhân tố quan trọng tác động trực tiếp lên cán cân thương mại của
Việt Nam. Phải công nhận rằng cơ chế điều hành và chính sách tỷ giá thời gian gần
đây càng linh hoạt và theo sát với tình hình kinh tế trong và ngoài nước và đã đạt
được nhiều thành công rất đáng khích lệ, đăc biệt những tác động tích cực của tỷ giá
lên cán cân thương mại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, Việt Nam vẫn còn gặp
nhiều khó khăn trong cạnh tranh thương mại cũng như luôn phải đối diện với căn
bệnh “nhập siêu”. Đã có nhiều tranh luận đề cập về nguyên nhân trong đó có đề cập
đến nguyên nhân là do chính sách tỷ giá chưa thật sự hợp lý. Chính vì vậy, với đề
tài “Tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại Việt Nam” sẽ phản
ánh rõ hơn tác động của tỷ giá hối đoái và mối tương quan giữa tỷ giá hối đoái vá
cán cân thương mại như thế nào, từ đó đề xuất về chính sách tỷ giá nhằm cải thiện
cán cân thương mại.
2. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN:
a. Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu tác động của tỷ giá lên cán
cân thương mại, từ đó nghiên cứu khả năng có thể vận dụng chính sách tỷ giá nhằm
4



gia tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong nước hay không? Kết

quả sau khi phân tích sẽ cho ta thấy tầm quan trọng của chính sách điều hành tỷ giá
ảnh hưởng như thế nào đến tình hình cán cân thương mại, ổn định kinh tế vĩ mô,
hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu những biến động của tỷ giá và thực trạng cán cân thương
mại trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010, trong đó phân tích sự biến động
của tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương, phản ánh cơ chế, chính sách
điều hành tỷ giá của Việt Nam trong quá khứ và hiện tại từ đó nêu lên một số gợi ý
có thể định hướng cho chính sách điều hành tỷ giá hối đoái và với hy vọng chính
sách điều hành tỷ giá hối đoái đúng đắn sẽ cải thiện được tình trạng thâm hụt cán
cân thương mại và là đòn bẩy giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững mạnh.
Ngoài ra đề tài còn nêu lên một số ý kiến của chuyên gia, những quan điểm
khác nhau về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế
hiện nay.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp thống kê, hồi qui, so sánh, đối
chiếu … với số liệu chủ yếu từ thống kê của IMF, tổng cục thống kê, Bộ thương
mạivà Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam; đồng thời kết hợp các học thuyết kinh tế
hiện đại, sử dụng mô hình nguyên bản của Rose and Yellen, được Bahmami
Oskooee và Brooks phát triển: TB
t
=f(RER
t
,DY
t
,FY
t
) và kiểm định trên phần mềm
Eview 6; vận dụng kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá ở các nước trên thế

giới (chủ yếu là các nước đang phát triển).
Kết hợp những kinh nghiệm này với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, lấy
mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn làm phương pháp chủ đạo để phân tích.

5





4. ĐỐI TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN:
a. Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là những biến động của tỷ giá và tình
hình xuất nhập khẩu, từ đó phân tích tác động giữa tỷ giá hối đoái đến cán cân
thương mại Việt Nam
b. Ý nghĩa thực tiễn:
Trên cơ sở phân tích tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại cho thấy
thách thức về điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn hiện nay ngày càng được
quan tâm hơn trong bối cảnh nền kinh tế đã thực sự hội nhập vào đời sống kinh tế
toàn cầu.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Luận văn gồm có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại
Chương 2: Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và cán cân thương
mại ở Việt Nam
Chương 3: Kiểm định mối quan hệ của tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại
ở Việt Nam.
Chương 4: Đề xuất các chính sách liên quan đến tỷ giá và cán cân thương mại
ở Việt Nam




6



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
1.1. Các quan điểm truyền thống về tỷ giá và cán cân thương mại:
1.1.1. Tỷ giá hối đoái và các loại tỷ giá:
Đã từ lâu việc trao đổi, mua bán không chỉ giới hạn trong phạm vi một nước
mà có sự tham gia của nhiều quốc gia khác nhau. Khi đó các quan hệ thanh toán, tín
dụng trong giao dịch ngoại thương giữa các bên đòi hỏi phải sử dụng đơn vị tiền tệ
của một trong hai nước nhưng cũng có thể là đồng tiền của một nước thứ ba. Muốn
thực hiện việc chuyển đổi đó phải dựa vào một mức qui đổi xác định, hay nói các
khác là phải dựa vào tỷ giá hối đoái. Theo quan điểm truyền thống, tỷ giá hối đoái
là tỷ lệ so sánh ngang giá sức mua (ngang giá vàng) giữa đồng tiền hai nước.
Theo quan điểm kinh tế hiện đại, “ tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương
quan giá trị giữa hai đồng tiền hay đó là giá chuyển đổi của đồng tiền nước này
trong quan hệ so sánh với đồng tiền nước khác”.
Ở Việt Nam, theo khoản 10 điều 3 của Pháp lệnh ngoại hối (nghị định
160/2006/NĐ-CP ngày 18/12/2006 của Chính Phủ) có định nghĩa: “ Tỷ giá hối
đoái của Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị
tiền tệ của Việt Nam”.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực:
Tỷ giá là một biến số kinh tế tác động đến hầu hết các mặt hoạt động của nền
kinh tế nhưng hiệu quả ảnh hưởng của tỷ giá lên các hoạt động lại rất khác nhau.
Trong đó tác động của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu và sức mạnh cạnh tranh
thương mại là rõ ràng và nhanh chóng. Đồng thời thặng dư hay thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai có ý nghĩa quan trọng vì tình trạng cán cân tài khoản vãng lai luôn là

một bộ phận không thể thiếu được trong phân tích kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế
mở. Vì vậy trong điều kiện hiện nay, các quốc gia luôn sử dụng tỷ giá như là một
công cụ hữu hiệu nhằm tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa
dịch vụ.
7



- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (Nominal Exchange Rate): là tương quan giữa
giá cả của hai đồng tiền. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là giá cả của một đồng tiền
được biểu thị qua một đồng tiền khác mà không đề cập đến tương quan sức mua
hàng hóa và dịch vụ giữa chúng.
Tùy theo phương pháp niêm yết giá của từng quốc gia, tỷ giá danh nghĩa được
tính như sau:
Cách yết giá gián tiếp Các yết giá trực tiếp
Một đơn vị nội tệ đổi lấy bao nhiêu
ngoại tệ
Một đơn vị ngoại tệ đổi lấy bao nhiêu
nội tệ

Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương: là giá cả của một đồng tiền so với
một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến chênh lệch lạm phát giữa hai nước.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương (NEER - Nominal Effective
Exchange Rate): NEER không phải là tỷ giá, nó chỉ là một chỉ số được tính bằng
cách chọn ra một số loại ngoại tệ đặc trưng (rổ tiền tệ) và tính giá trung bình các tỷ
giá danh nghĩa của các đồng tiền có tham gia rổ tiền tệ với tỷ trọng tương ứng. Tỷ
trọng của tỷ giá song phương có thể lấy tỷ trọng thương mại của các nước có đồng
nội tệ đem tính NEER so với các nước có đồng tiền trong rổ tiền tệ được chọn.
- Tỷ giá hối đoái thực (Real Exchange Rate)
Khi phân tích tác động của tỷ giá cần phải đề cập đến yếu tố tỷ giá thực vì đây

là biến số thực có tác động cực kỳ quan trọng đến nền kinh tế. Tỷ giá thực tăng hay
giảm đồng nghĩa với sự gia tăng hay suy giảm sức cạnh tranh thương mại, do đó tỷ
giá hối đoái thực là một phạm trù kinh tế đặc thù và rất cần thiết được phân tích
Tỷ giá hối đoái thực là tương quan giữa giá cả hàng hóa mậu dịch và giá cả
của hàng hóa phi mậu dịch, điều chỉnh bởi tương quan giá cả trong nước và giá cả
ngoài nước. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng hay giảm không có nghĩa là gia tăng hay sụt
giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế, nhưng tỷ giá hối đoái thực đại diện cho
khả năng cạnh tranh quốc tế của một quốc gia.
8



Theo IMF, tỷ giá thực được định nghĩa là tỷ giá hối đoái được xác định dựa
trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát trong nuớc và
nước ngoài, do đó nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ
Tỷ giá hối đoái thực có thể được xác lập trong mối quan hệ với một đối tác
thương mại hoặc dựa trên trung bình cho tất cả các đối tác thương mại. Trong
trường hợp so sánh giữa hai nước, tỷ giá hối đoái thực được gọi là tỷ giá hối đoái
thực song phương (BRER), là tỷ giá hối đoái danh nghĩa được điều chỉnh theo mức
chênh lệch lạm phát giữa hai nước. Trong trường hợp thứ hai gọi là tỷ giá hối đoái
thực đa phương (MEER) hay còn gọi là tỷ giá hối đoái thực hiệu lực (REER) và
được tính toán trên cơ sở trung bình có trọng số với các đối tác mà quốc gia chủ nhà
có quan hệ thương mại.
Tỷ giá thực đa phương là một chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của
quốc gia và là cơ sở đề đánh giá đồng tiền nội tệ bị đánh giá cao hay thấp. Chỉ số
này rất hữu ích cho việc đạt được mục tiêu thích hợp trong cơ chế tỷ giá hỗn hợp
giữa linh hoạt và cố định. Vì vậy, nó được nhìn nhận như là cơ sở dữ liệu cơ bản
trong quá trình thực thi chính sách. Tỷ giá thực đa phương được tính toán để định ra
giá trị thực của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ (rổ ngoại tệ). Bằng cách điều chỉnh
tỷ giá theo chênh lệch lạm phát quốc nội so với lạm phát các đối tác thương mại, ta

sẽ có tỷ giá thực song phương với từng đồng ngoại tệ. Sau đó xác định quyền số
(mức độ ảnh hưởng đối với tỷ giá thực thông qua tỷ trọng thương mại của từng đối
tác với quốc gia có đồng tiền tính REER).
Khi REER lớn hơn 100, đồng nội tệ bị định giá thấp, ngược lại REER nhỏ hơn
100 đồng nội tệ bị định giá cao. RERR bằng 100 đồng nội tệ ngang giá sức mua so
với “rổ tiền tệ”.
Các tính được tóm tắt trong bảng sau:
Tỷ giá thực Cách yết giá gián tiếp Các yết giá trực tiếp
BRER = NER1 x CIP/CIP* = NER2 x CIP*/CIP
MEER (REER) = ∑ BRER
i
x W
i
= ∑ BRER
i
x W
i


9



Trong đó:
NER1: tỷ giá hối đoái danh nghĩa, trong trường hợp yết giá gián tiếp
NER2: tỷ giá hối đoái danh nghĩa, trong trường hợp yết giá trực tiếp
CIP: giá trong nước
CIP*: giá nước ngoài
BRER
i:

tỷ giá hối đoái thực song phương với nước i với nước đang xét.
MEER : tỷ giá hối đoái thực đa phương (còn gọi là tỷ giá thực có hiệu lực
REER)
W
i
: tỷ trọng thương mại của nước i trong tổng giá trị thương mại của nước
đang xét
1.1.2. Cán cân thương mại và các nhân tố tác động đến cán cân thương
mại:
1.1.2.1. Khái niệm:
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh
toán. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức
chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch lớn hơn 0
thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0 thì
cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương
mại ở trạng thái cân bằng.
1.1.2.2. Các nhân tố tác động đến cán cân thương mại:
Cán cân thương mại cùng với cán cân dịch vu, cán cân thu nhập và chuyển
giao vãng lai một chiều là các bộ phận của cán cân tài khoản vãng lai, trong đó cán
cân thương mại là thành phần chủ yếu, do đó các yếu tố tác động động đến cán cân
tài khoản vãng lai cũng sẽ tác động trực tiếp lên cán cân thương mại.
Khi phân tích các yếu tố tác động đến cán cân thương mại, chúng ta dựa trên
nguyên tắc Cetaris parribus, nghĩa là khi nghiên cứu tác động của một nhân tố thì ta
cố định các nhân tố khác. Do cán cân thương mại của một quốc gia có thể ảnh
hưởng đáng kể đến nền kinh tế của quốc gia đó, nên việc xác định các yếu tố ảnh
10




hưởng đến cán cân thương mại mại là rất quan trọng. Các yếu tố tác động và ảnh
hưởng nhiều nhất là: lạm phát, thu nhập quốc dân, tỷ giá hối đoái và các biện pháp
hạn chế của chính phủ….
-
Ảnh hưởng của lạm phát
:
Nếu một quốc gia có lạm phát tăng so với quốc gia khác có quan hệ mậu dịch
thì cán cân thương mại của quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
Bởi vì người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước hầu như sẽ mua hàng nhiều
hơn từ nước ngoài (do lạm phát trong nước cao), trong khi xuất khẩu sang nước
khác sẽ sụt giảm.
- Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân:
Nếu mức thu nhập của một quốc gia (thu nhập quốc dân) tăng theo một tỷ lệ
cao hơn tỷ lệ tăng của các quốc gia khác, cán cân thương mại của quốc gia đó sẽ
giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Do mức thu nhập thực tế (đã điều chỉnh do
lạm phát) tăng, mức tiêu thụ hàng hóa cũng tăng. Một tỷ lệ gia tăng trong tiêu thụ
hầu như sẽ phản ánh một mức cầu gia tăng đối với hàng hóa nước ngoài.
- Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái:
Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền của các nước
khác, cán cân thương mại của nước đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
Hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên đắt hơn đối với các nước nhập khẩu nếu
đồng tiền của họ mạnh. Kết quả là nhu cầu các hàng hóa đó sẽ giảm.
- Ảnh hưởng của các biện pháp hạn chế của chính phủ:
Nếu chính phủ của một quốc gia đánh thuế trên hàng nhập khẩu, giá của hàng
nhập khẩu đối với người tiêu dùng tăng thêm trên thực tế. Thuế suất thuế nhập nhẩu
do các quốc gia ấn định. Các ngành được quốc gia bảo hộ sẽ được ấn định thuế
nhập khẩu cao hơn các ngành khác nhằm chống lại cạnh tranh của hàng hóa nước
ngoài. Việc gia tăng áp dụng thuế nhập khẩu làm gia tăng cán cân thương mại, trừ
các trường hợp các chính phủ khác trả đũa.


11



1.1.2.3. Các kiểu thương mại được ứng dụng để phân tích:
- Thương mại song phương:
Thương mại song phương là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ
giữa hai bên (phía), hai quốc gia trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận song phương.
- Thương mại đa phương:
Thương mại đa phương là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa
nhiều bên (phía), nhiều quốc gia. Việc trao đổi mua bán đa phương phải tuân thủ
những thỏa thuận chung của tổ chức (hiệp hội) đa phương đó. Hệ thống thương mại
đa phương trước hết được quy ước chung. Điều này đối lập với các mối quan hệ
song phương, trong đó chỉ có hai nước tự thỏa thuận những quy tắc điều chỉnh
thương mại giữa hai nước đó với nhau.
Trong WTO, từ “đa phương” có ý nghĩa phân định rõ rệt hơn. Hệ thống
thương mại đa phương dùng để chỉ hệ thống thương mại do WTO điều chỉnh. Do
không phải toàn bộ các nước trên thế giới là thành viên của WTO nên “đa phương”
sẽ chỉ phạm vi hẹp hơn “toàn cầu”. Mặt khác, “đa phương” cũng không đồng nghĩa
với những thỏa thuận của từng nhóm nước tại một khu vực nhất định trên thế giới,
như EU, ASEAN, NAFTA… Như vậy, “đa phương” là khái niệm đứng giữa “toàn
cầu” và “khu vực”. Cần lưu ý rằng trong quan hệ quốc tế nói chung, “đa phương”
có thể chỉ bất kỳ mối quan hệ nào có hơn hai quốc gia trở lên.
1.1.3. Các lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá vá cán cân thương mại:
1.1.3.1. Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thương mại (Lý thuyết
đường cong J):
Phá giá tiền tệ là làm giảm giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác. Phá giá
sẽ làm tăng tỷ giá danh nghĩa kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và
hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại.
- Khi tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập

khẩu tính theo đồng nội tệ tăng được gọi là hiệu ứng giá cả.
12



- Khi tỷ giá làm giảm giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã làm tăng khối lượng xuất
khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối
lượng.
Cán cân thương mại xấu đi hay cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu
ứng khối lượng cái nào trội hơn. Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và
tiền lương trong nước tương đối cứng nhắc sẽ làm hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập
khẩu trở nên đắt hơn: các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các
doanh nghiệp trong nước chưa huy động đủ nguồn lực để sẵn sàng tiến hành sản
xuất nhiều hơn nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong
nước tăng lên.
Ngoài ra, trong ngắn hạn cầu hàng nhập khẩu không nhanh chóng giảm còn do
tâm lý người tiêu dùng. Khi phá giá, giá hàng nhập khẩu tăng lên nhưng người tiêu
dùng có thể lo ngại về chất lượng hàng trong nước chưa có hàng thay thế hàng nhập
khẩu làm cho nhu cầu hàng nhập khẩu có thể không giảm được ngay. Do đó, số
lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và số lượng hàng
nhập khẩu cũng không giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính
trội hơn hiệu ứng khối lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi.
Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và
người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng
trong nước với hàng nhập khẩu. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời gian
tập hợp đủ các nguồn lực để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co
giãn, hiệu ứng khối lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại
được cải thiện.
Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong
ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn.

Đường biểu diễn hiện tượng này
giống
hình chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng
đường cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 -1987, thì
ban đầu cán cân vãng lai xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải
thiện.
13




Hình 1.1 Hiệu ứng đường cong chữ J






Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có
tính trội hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong
dài hạn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương
mại được cải thiện.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại
trong lý thuyết hiệu ứng đường cong J:
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Đối với các nền kinh tế đang
phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này
không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không
tốt bằng
hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn,
người tiêu

dùng cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của
hiệu ứng giá cả.
- Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Đối với các nước phát triển tỷ
lệ hàng hóa đủ chuẩn tham gia thương mại quốc tế cao nên hiệu ứng giá cả có thời
gian tác động lên cán cân thương mại thường là thấp. Ngược lại, các nước đang phát
triển tỷ trọng loại hàng hóa này nhỏ, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối
lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác
14



động đến cán cân thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải
thiện cán cân thương mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các
nước đang phát triển.
- Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu
tỷ trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi
hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu
khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất
khẩu.
- Mức độ linh hoạt của tiền lương. Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số
giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều
này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có
được từ phá giá tiền tệ.
- Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong
nước. Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt
lên của hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu
dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo,
mức độ gia tăng số lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng
hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài.
Có nhiều bài viết nghiên cứu thực tiễn đã chứng minh sự tồn tại của đường cong J

khi tiến hành phá giá tiền tệ như Anil K.Lal, Thomas C.Lowinger (2002), Tihomir
Stucka (4/2004) và Thomas, Marquez và Fahle (2008) cho thấy việc mất giá ban đầu
làm cán cân thương mại xấu đi do giá nhập khẩu tăng cao, nhưng sau đó dần dần mạnh
lên khi số lượng được điều chỉnh. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của Deepak Garg and
Sandeep Ramesh (2005) chứng minh sự tồn tại của đường cong M, lập luận trên cơ sở:
khi tỷ giá tăng, ngay lập tức thì lượng nhập khẩu sẽ giảm và xuất khẩu sẽ không giảm
dẫn đến sự thặng dư tức thì cán cân thương mại do nhập khẩu giảm, giai đoạn tiếp theo
là hiệu ứng giá cả từ việc phá giá làm cho cán cân thương mại bị thâm hụt, giai đoạn kế
tiếp là ảnh hưởng của hiệu ứng khối lượng (gia tăng xuất khẩu) làm cho cán cân thương
15



mại thặng dư và cuối cùng là giai đoạn tự điều tiết của thị trường và hoạt động thương
mại sẽ trở lại bình thường dẫn đến xét trong dài hạn thì hiệu ứng đường cong J là
không tồn tại.
Hình 1.2: Đường cong M ở Ấn Độ trong nghiên cứu của Deepak Garg and
Sandeep Ramesh (2005)

1.1.3.2. Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiên Marshall - Lerner:
Phương pháp tiếp cận này lần đầu tiên được Alfred Marshall, Abba Lerner sử
dụng và sau đó được mở rộng bởi Joan Robinson (1937) và Fritz Machlup (1955).
Phương pháp này được xây dựng dựa trên một số giả thiết sau:
- Cung hàng hóa xuất khẩu có hệ số co giãn hoàn hảo. Hay nói cách khác là
khối lượng cầu và hàng hóa xuất khẩu không ảnh hưởng gì tới mức giá hàng hóa nội
địa.
- Cầu hàng hóa nhập khẩu cũng có hệ số co giãn hoàn hảo. Hay nói cách khác
là khối lượng cầu về hàng hóa nhập khẩu không ảnh hưởng gì tới mức giá hàng hóa
nước ngoài.
Với hai giả thiết này cho thấy rằng giá hàng hóa mội địa và hàng hóa nước

ngoài là cố định, không thay đổi dù cho cung cầu về hàng hóa xuất nhập khẩu thay
đổi như thế nào. Như vậy, ở đây cần lưu ý là phá giá làm tỷ giá danh nghĩa tăng; tỷ
16



giá danh nghĩa tăng làm cho tỷ giá thực tăng, tỷ giá thực tăng cải thiện được sức
cạnh tranh thương mại quốc tế nghĩa là kích thích tăng khối lượng xuất khẩu và làm
giảm khối lượng nhập khẩu. Nội dung chủ yếu của phương pháp này chủ yếu phân
tích những tác động của phá giá lên cán cân vãng lai.
Hệ số co giãn xuất khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá
thay đổi 1%
dX/X
ŋx =

dE/E
Hệ số co giãn nhập khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của nhập khẩu khi tỷ giá
thay đổi 1%
dM/M
ŋm =

dE/E
Điều kiên Marshall – Lerner phát biểu rằng: để cho việc phá giá tiền tệ có
tác động tích cực tới cán cân thanh toán thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co giãn
theo giá cả của xuất khẩu và độ co giãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1
(ŋx + ŋm > 1).
Nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế trong thời gian qua về tác động của việc
giảm giá đồng tiền lên cán cân thương mại đều dựa vào ước lượng của điều kiện
Marshall Lerner. Điều kiện Marshall Lerner cho rằng để thực hiện thành công việc
giảm giá một đồng tiên trong dài hạn thì tổng của độ nhạy cảm cầu xuất khẩu và cầu

nhập khẩu phải lớn hơn 1. Một số nghiên cứu thực nghiệm về độ co giãn như
Guiherme Moura và Sergio Da Silva, Marquer and Schindler (2006) cho thấy rằng
trong dài hạn (từ hai đến ba năm) tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu lớn
hơn 1, tức là phá giá có tác động đến xuất nhập khẩu. Nghiên cứu của Bahmami-
Oskooee (1986) cho thấy tổng độ nhạy cảm xuất khẩu và nhập khẩu của Ấn Độ lớn
hơn 1 đã làm cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn khi đồng Rupee giảm giá.
Nhìn chung, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng hệ số co giãn xuất khẩu vả
hệ số co giãn nhập khẩu trong ngắn hạn nhỏ hơn trong dài hạn. Vì vậy, điều kiện
Marshall – Lerner chỉ có thể được duy trì trong dài hạn.
17



Tuy nhiên, điều kiện Marshall-Lerner mặc dù đã đưa ra điều kiện cần và đủ để
giúp cải thiện cán cân thương mại nhưng vẫn có trường hợp các điều kiện này đều
đáp ứng đủ mà cán cân thương mại vẫn tiếp tục xấu đi.
Có quan điểm cho rằng các nước đang phát triển thường phụ thuộc nhiều vào
hàng nhập khẩu nên độ co giãn của cầu hàng nhập khẩu là nhỏ (tức trị giá nhập
khẩu sẽ không giảm bao nhiêu khi phá giá nội tệ). Các nước phát triển có thị trường
xuất khẩu tương đối ổn định, có tính cạnh tranh nên độ co giãn cầu hàng xuất khẩu
có thể lớn hơn (tức giá trị xuất khẩu tăng mạnh khi phá giá nội tệ). Điều này hàm ý
rằng khi phá giá ở các nước phát triển sẽ có tác động cải thiện cán cân thương mại
mạnh hơn so với các nước đang phát triển. Hay nói cách khác, việc phá giá là một
giải pháp có thể cải thiện thâm hụt cán cân thương mại ở quốc gia này nhưng có thể
sẽ không có tác dụng tương tự với quốc gia khác. Nó cũng khuyến cáo các quốc gia
đang phát triển nên thận trọng khi sử dụng biện pháp phá giá mạnh đồng nội tệ của
mình nhằm khuyến khích xuất khẩu.
1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tỷ giá và cán cân thương mại trên thế
giới:
Đã có rất nhiều tranh luận lý thuyết lẫn nghiên cứu thực tiễn về mối quan hệ

giữa tỷ giá và cán cân thương mại trên thế giới. Từ việc nghiên cứu độc lập mối
tương quan giữa tỷ giá vá cán cân thương mại đến các nghiên cứu tổng hợp thêm
các yếu tố tác động đồng thời khác lên cán cân thương mại. Kết quả chứng minh
thực tiễn trên từng quốc gia, từng khoảng thời gian của từng quốc gia lại đưa ra rất
nhiều kết quả khác nhau. Phương pháp, cách tiếp cận đa dạng của các nhà kinh tế
học đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện, đa chiều về mối quan hệ này.
Các nhà kinh tế học dần dần chuyển hóa các cơ sở lý thuyết thành nghiên cứu
ứng dụng cho thực tiễn, tìm nguyên nhân và giải pháp nhằm cải thiện cán cân
thương mại cho từng quốc gia với đặc thù riêng của quốc gia đó.
18



Trong bài nghiên cứu “China’s current account and exchange rate” nhóm
nghiên cứu tìm hiểu sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương
mại. Chúng ta có thể rút ra những ý chính trong bài nghiên cứu như sau:
- Đồng nhân dân tệ đã bị định dưới giá khoảng 40%, việc giảm giá đồng nhân
dân tệ kích thích xuất khẩu của Trung Quốc nhưng đồng thời cũng làm tăng trị giá
nhập khẩu của Trung Quốc.
- Một mình chính sách tỷ giá hối đoái sẽ không đủ để làm giảm thặng dư
thương mại, đặc biệt trong bối cảnh khả năng sản xuất của Trung Quốc đang gia
tăng. Phụ thuộc vào kỹ thuật được chọn, tăng trưởng chậm hơn trong phần còn lại
của thế giới có thể tác động đáng kể tới xuất khẩu của Trung Quốc.
Các kết quả thực nghiệm khác của các tác giả như Mohsen Bahmani –Oskooee
và Tatchawan Kantipong (12/2001, Willem Thorbecke (3/2006), Alicia Garcia –
Herrero and Tuuli Koivu (2007) vẫn tập trung trả lời một câu hỏi: sự biến động của
tỷ giá sẽ làm thay đổi cán cân thương mại như thế nào? Kết quả đưa ra là một
khuynh hướng có tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu, nghĩa là tăng tỷ giá sẽ cải
thiện được cán cân thương mại. Hay nói cách khác, là giảm giá đồng nội tệ có
khuynh hướng có lợi cho xuất khẩu.

Trong nghiên cứu của Bahmami Oskooee và Brooks (1999), tác giả sử dụng
mô hình nguyên bản của Rose và Yellen (1989). Mô hình cán cân thương mại là
một hàm số của tỷ giá thực (RER), thu nhập thực của nước chủ nhà (DY- Real
Domestic Income), thu nhập thực của nước ngoài (FY-Real foreign income).
Nghiên cứu của Mohsen Bahmani – Oskooee và Tatchawan Kantipong (12/2001),
cũng tuân theo công thức này.
TB
t
=f(RER
t
,DY
t
,FY
t
)
Theo Bahmami Oskooee và Brooks , tác giả xem cán cân thương mại bằng tỷ
số giữa xuất khẩu và nhập khẩu để biểu thị mô hình dưới dạng logarit, cũng để phản
ánh sự vận động của cán cân thương mại về mặt danh nghĩa cũng như thực. Do đó
19



trong đề tài, em sẽ sử dụng mô hình trên kiểm định mối liên hệ và tác động của tỷ
giá đối với cán cân thương mại. Mô hình có dạng:
lnTB
jt
= β
0
+ β


lnDY
t
+ β
2
lnFY
jt
+ β
3
lnRER
jt
+ ε
τ
(2)
Ở thời điểm t:
TB
j
: tỷ lệ giữa xuất khẩu trên nhập khẩu của Việt Nam với quốc gia thứ j.
DY: Chỉ số thu nhập thực của Việt Nam
FY
j
: chỉ số thu nhập thực của đối tác thương mại thứ j.
RER
j
: tỷ giá song phương thực giữa Việt Nam và đối tác thứ j ( tỷ giá tăng lên
thể hiện sự giảm giá của VND so với đồng tiền của đối tác thứ j)
ε
τ
: sai số ngẫu nhiên.
Dấu hiệu kì vọng của các hệ số hồi qui:
Theo lí lẽ truyền thống từ nhiều nhà nghiên cứu, nếu một sự tăng lên trong thu

nhập thực của Việt Nam (DY
t
) làm tăng nhập khẩu thì ước lượng β

được kì vọng sẽ
mang dấu âm. Tuy nhiên, nếu DY
t
tăng lên là nhờ vào gia tăng trong sản xuất hàng
hóa thay thế nhập khẩu thì ước lượng β

được kì vọng sẽ mang dấu dương.
Giống như vậy, ước lượng giá trị β
2
có thể dương hoặc âm tùy vào những nhân
tố bên cầu vượt trội hơn những nhân tố bên cung hoặc ngược lại.
Phù hợp với giả thuyết đường cong J nếu xảy ra sự giảm giá thực tức RER
jt

tăng lên sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, chúng ta kì vọng ước lượng
β
3
sẽ dương, điều này cũng phù hợp với điều kiện Marshall Lerner. Tuy nhiên, trong
ngắn hạn chúng ta kì vọng β
3
sẽ âm.
Như vậy, theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia sẽ cho ra những kết quả
nghiên cứu thực nghiệm khác nhau và nguyên nhân cũng khác nhau. Nhưng có một
điểm chung nhất là việc tăng tỷ giá (nói cách khác là giảm giá trị đồng nội tệ) ít
nhiều ảnh hưởng tích cực lên hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Còn việc cán
cân thương mại có được cải thiện hay không thì còn phải xét đến các yếu tố khác:

20



độ co giãn của xuất khẩu – nhập khẩu theo tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá, chính
sách bảo hộ thương mại, chi phí thương mại, cơ cấu xuất nhập khẩu và một số các
yếu tố khác… Có một khuynh hướng là các quốc gia trên thế giới đang có khuynh
hướng định giá thấp đồng nội tệ để tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
1.3. Kinh nghiệm của các nước về điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với
cán cân thương mại và kinh nghiệm cho Việt Nam:
1.3.1. Kinh nghiệm của các nước về điều hành tỷ giá trong mối quan hệ
với cán cân thương mại:
1.3.1.1. Trung Quốc:
Trung Quốc và chính sách kinh tế Trung Quốc đã hiển hiện rộng lớn trên vũ
đài kinh tế toàn cầu những năm gần đây. Thậm chí những cuộc tranh luận sôi nổi về
cán cân thương mại Trung Quốc và giá trị của tiền tệ Trung Quốc vẫn đang tiếp
diễn.
Từ năm 1997 đến ngày 21/7/2005, đồng CNY được neo cố định với USD tại
mức giá 8,28 CNY/USD, làm cho hàng hóa của Trung Quốc có tính cạnh tranh trên
thị trường, thúc đẩy xuất khẩu tăng mạnh. Do đó làm cho hàng hóa nước ngoài xuất
khẩu không được nhiều gây thiệt hại cho các nước đối tác. Trước tình hình này, Mỹ
và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc gây sức ép để đồng nhân dân tệ
tăng giá. Vào năm 2005 Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ.
- Từ 7/2005 đến nay Trung Quốc công bố giá theo một rổ tiền tệ, 11 đồng tiền
trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won
Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ
tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều.
Sơ lược chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong khủng hoảng tài chính toàn
cầu:
- Thứ nhất, Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định

giá thấp đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác đặc biệt là đồng đô la Mỹ. Có thể
thấy trong thương mại quốc tế nếu để lợi thế so sánh tự nó phát huy vai trò của
21



mình thì sẽ chậm hơn rất nhiều so với có sự tác động của chính phủ để nhanh chóng
tận dụng các cơ hội thương mại. Có thể nhận thấy là việc định giá thấp đồng tiền
của mình của Trung Quốc đã vấp phải rất nhiều phản ứng từ Hoa Kỳ cũng như các
nền kinh tế khác song Trung Quốc vẫn áp dụng và thu được nhiều thành quả quan
trọng.
Các phản ứng của Trung Quốc về tỷ giá hối đoái khá linh hoạt và gắn với từng
mối thương mại cụ thể với từng thời điểm cụ thể . Trong điều kiện đồng đô la tăng
giá, Trung Quốc tìm cách để định giá đồng nhân dân tệ thấp, điều này làm cho
Trung Quốc có lợi thế thương mại lớn so với Hoa Kỳ đồng thời cũng có lợi thế hơn
những đối tác thương mại khác thực thi chính sách neo tỷ giá đồng tiền nước đó so
với đồng đô la Mỹ. Với cách thức này Trung Quốc dường như khai thác triệt để lợi
thế thương mại so với Hoa Kỳ và các đối tác khác. Trong điều kiện đồng đô la Mỹ
giảm giá vì Hoa Kỳ muốn cải thiện cán cân thương mại cũng như để giảm giá trị
thực tế của lượng dự trữ đô la của Trung Quốc, thì Trung Quốc lại thực hiện chính
sách neo buộc chặt hay nói cách khác là cố định tỷ giá đồng nhân dân tệ so với đô la
để tiếp tục giảm giá đồng nhân dân tệ nhằm khai thác lợi thế thương mại và tiến
hành chuyển đổi một phần đô la ra vàng để bảo đảm giá trị.
- Thứ hai : Trung Quốc đã vận dụng khéo léo những điểm yếu của các đối tác
song phương cũng như đa phương thông qua đàm phán để duy trì chính sách duy
trì đồng nhân dân tệ yếu.
 Đối với Mỹ : đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, Trung
quốc đã đạt được mức thặng dư thương mại kỷ lục. Một mặt là do chính sách neo
buộc chặt đồng nhân dân tệ vào đồng đô la, trong đàm phán Trung Quốc đã lãng
tránh việc định giá thấp đồng nhân dân tệ của mình mà tập trung xoáy sâu vào viện

dẫn lý do Mỹ đã hạn chế việc xuất khẩu công nghệ cao sang Trung Quốc vì không
muốn để lọt các công nghệ cao vào tay Trung Quốc. Lập luận này đã làm yếu đi
đáng kể yêu cầu nâng giá đồng nhân dân tệ của Mỹ. Đồng thời các biện pháp hạn
chế thương mại của Mỹ cũng bị Trung Quốc trả đũa mạnh mẽ.
22



 Đối với các nước khác Trung Quốc dùng chính sách mềm dẻo thông
qua việc cung cấp nguồn vốn ODA cũng như các hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp
khác để giảm bớt sự chỉ trích của các nước.
- Thứ ba : Trung Quốc luôn thực hiện mọi nổ lực trong việc thực hiện mục
tiêu đưa đồng nhân dân tệ trở thành một đồng tiền mạnh và chủ chốt trong nền kinh
tế thế giới. Trong quan hệ mậu dịch với các nước như Việt Nam, Lào, Mông Cổ ,
Nga… Trung Quốc đã mạnh dạn yêu cầu thanh toán bằng đồng nhân dân tệ để tạo
những bước đi trung gian trong việc đưa đồng nhân dân tệ trở thành một đồng tiền
mạnh của thế giới.
Hình 1.3: Bảng tỷ giá USD/CNY qua các năm

Nguồn :
Một bài nghiên cứu khác của W. Max Corden bắt nguồn từ những chỉ trích
hiện tại về chính sách tỷ giá của Trung Quốc. Tính đến cuối năm 2007 thì đồng
nhân dân tệ được định giá cao tích lũy đến khoảng 9%, việc can thiệp vào chính
sách tỷ giá của Trung Quốc là nguyên nhân tạo ra thặng dư cán cân vãng lai của
nước này và ít nhất cũng đã đóng góp một phần gây ra thâm hụt cán cân vãng lai
của Mỹ.
- Theo bài nghiên cứu này thì chế độ tỷ giá không ảnh hưởng đến sự mất cân
bằng của cán cân vãng lai. Chính sách tỷ giá nhằm vào các mục tiêu khác của chính
23




phủ chứ mục tiêu chính của nó không phải là thâm hụt hay thặng dư cán cân thương
mại. Mục tiêu chính của chính sách tỷ giá của Trung Quốc là bình ổn giá cả, duy trì
ổn định doanh thu và thu nhập cho các doanh nghiệp của Trung Quốc.
- Chính sách tỷ giá của Trung Quốc cũng nhắm vào mục tiêu làm tăng khoảng
dự trữ ngoại hối của Trung Quốc cho nhập khẩu. Từ năm 2006, dự trữ ngoại hối của
Trung Quốc luôn đạt chuẩn an toàn quy định.
- Hiện nay Trung Quốc đang nắm giữ một lượng khá lớn trái phiếu của chính
phủ Mỹ, điều này làm cho lượng tài sản của Trung Quốc ở nước ngoài phụ thuộc
nhiều vào tỷ giá của USD. Do đó trong dài hạn, Trung Quốc mong muốn tích lũy
một số lượng lớn tài sản nước ngoài định danh bằng đồng USD.
1.3.1.2. Australia (những năm 1980):
Bài nghiên cứu “The Exchange Rate and the Current Account” của Michele
Bullock, Stephen Grenville, Geoffrey Heenan tìm hiểu tỷ giá hối đoái ảnh hưởng
như thế nào đến các thành phần riêng lẽ của cán cân vãng lai trong ngắn hạn và
đóng vai trò điều chỉnh cán cân thanh toán trong dài hạn. Đối tượng nghiên cứu là
nền kinh tế Australia suốt thời kỳ từ 1980. Một số đặc điểm của nền kinh tế này là:
- Có một sự thay đổi quan trọng trong chính sách là Australia áp dụng tỷ giá
hối đoái thả nổi từ tháng 12/1983
- So với thời kỳ trước thì thâm hụt cán cân vãng lai tăng rõ rệt, được giải thích
là do có những thay đổi cấu trúc quan trọng,
- Thâm hụt cán cân vãng lai có một thay đổi lớn trong ngắn hạn, gia tăng 6%
so với GDP, gấp 3 lần thập kỷ trước
Đặc biệt là, bài nghiên cứu kiểm tra cả hai tác động của tỷ giá hối đoái lên
xuất khẩu và nhập khẩu, đồng thời xem xét vai trò của tỷ giá hối đoái trong điều
chỉnh nền kinh tế bằng cách thay đổi cấu trúc cơ bản. Những thay đổi ở trên tạo cơ
sở để rút ra các kết luận về vai trò của tỷ giá hối đoái. Những nhân tố chính ảnh
hưởng tới các di chuyển ngắn hạn của cán cân vãng lai chính là các thay đổi trong
24




các nhân tố thương mại và các cú sốc đầu tư. Những thay đổi lớn trong các nhân tố
thương mại đóng vai trò trung tâm trong các chu kỳ hoạt động và tác động của
chúng thể hiện rõ trong cán cân vãng lai.
Kết quả của bài nghiên cứu này là:
- Sự phụ thuộc mạnh mẽ vào xuất khẩu hàng hóa làm cho những dao động
của kinh tế thế giới đều được phản ánh trong nền kinh tế Australia. Những thay đổi
trong tỷ giá hối đoái tác động lên giá cả hàng hóa làm ảnh hưởng đến các nhà sản
xuất xuất khẩu hàng hóa. Điều này xảy ra khi tỷ giá có xu hướng giảm, và điều này
làm giảm thu nhập và doanh thu của xuất khẩu. Vì độ co giãn của nhập khẩu cao
hơn so với xuất khẩu, kết hợp với với sự co giãn giá nhỏ, cho nên việc giảm giá
đồng nội tệ chỉ cải thiện được rất ít cán cân vãng lai. Điều này lại được kết hợp với
hiệu ứng đường cong J làm cho cán cân vãng lai càng xấu hơn.
- Sự phụ thuộc vào tài khoản vốn làm cho nền kinh tế của Australia dễ bị tổn
thương hơn.
1.3.1.3. Chính sách điều hành tỷ giá của Malaysia:
Malaysia là nước duy nhất trong số các nước bị khủng hoảng nặng nề ở Đông
Nam Á đã đi ngược lại các quan điểm tài chính chung trên thế giới để vừa nới lỏng
chính sách tiền tệ vừa mạnh dạn áp dụng một chế độ quản lý ngoại hối mới.
Tương tự các nước khác bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997,
đồng ringgit (MYR) liên tục bị giới đầu cơ quốc tế bán khống và giảm từ mức 3,75
MYR/USD xuống 4,2 MYR/USD. Dòng vốn liên tục chảy ra khỏi quốc gia, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế. Tháng 9/1998, NHTW Malaysia đã ấn
định tỷ giá đồng ringgit ở mức 3,8 MYR/USD và đưa ra hàng loạt các quy định
kiểm soát ngoại hối nghiêm ngặt nhằm ngăn chặn sự đảo chiều đột ngột của các
dòng vốn như: các khoản ngoại tệ đổ vào thị trường chứng khoán Malaysia chỉ
được rút ra sau thời hạn 12 tháng; bãi bỏ các giao dịch bằng đồng MYR ở nước
ngoài; các du khách chỉ được mang ra khỏi Malaysia lượng tiền tương đương với

mức đã mang vào; hạn chế tối đa lượng tiền dân cư được mang ra nước ngoài…
25



Các biện pháp quản lý trên đi kèm với chế độ tỷ giá cố định nhằm giảm thiểu các
tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ và khôi phục tính độc lập của đồng ringgit.
Chính phủ Malaysia khẳng định, các chính sách điều hành kinh tế đặc biệt là
chính sách tỷ giá đã đi đúng hướng. NHTW Malaysia vẫn luôn củng cố niềm tin của
các nhà đầu tư vào đồng ringgit, đồng thời cũng khẳng định tính cạnh tranh của
hàng hóa Malaysia không chỉ phụ thuộc vào chính sách tỷ giá.
Sau 7 năm thực hiện chế độ tỷ giá cố định, tháng 7/2005 Malaysia quyết định
chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước trong thời điểm Trung
Quốc công bố cùng một động thái. Về lý thuyết đồng MYR mạnh hơn sẽ giúp phục
hồi đầu tư trong nước, kiểm soát lạm phát và tăng khả năng cân bằng ngân sách.
Chính phủ Malaysia cũng nhấn mạnh việc chuyển đổi chế độ tỷ giá sẽ làm cho giá
đồng ringgit tăng nhưng ở mức độ cho phép và tỷ giá thực tế sẽ không chênh lệch
quá lớn so với tỷ giá cố định 3,8 MYR/USD. Bên cạnh đó, Malaysia cũng tuyên bố
sẽ có các biện pháp quản lý tiền tệ nhằm đảm bảo tỷ giá trao đổi giữa đồng ringgit
với các đồng tiền khác mà Malaysia sử dụng trong trao đổi thương mại sẽ luôn ổn
định và chế độ tỷ giá mới sẽ không ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế vĩ mô.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, Việt Nam và Trung Quốc giữa
hai nền kinh tế có những nét tương đồng, do đó kinh nghiệm của Trung Quốc trong
việc hoạch định chính sách là những bài học quý giá cho Việt Nam, đặc biệt là kinh
nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Từ đó có thể rút ra các vấn đề đối với việc điều hành chính sách tỷ giá của Việt
Nam như sau:
- Chính sách tỷ giá phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong từng
giai đoạn nhất định để nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế. Chính sách tỷ

giá phải hỗ trợ tốt nhất cho xuất khẩu, tăng dự trữ ngoại hối, cải thiện cán cân thanh
toán và tạo tiền đề cho phát triển kinh tế bền vững. Đồng thời cần có chính sách
phản ứng linh hoạt về tỷ giá trong những tình huống cụ thể và cần có định hướng rõ
ràng về tỷ giá trong dài hạn làm căn cứ cho các điều chỉnh trong ngắn hạn.

×