Tải bản đầy đủ (.pptx) (25 trang)

SỰ SINH SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘNG VẬT GIÁP XÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 25 trang )

SỰ SINH SẢN VÀ VAI TRÒ
CỦA ĐỘNG VẬT GIÁP XÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ
Khoa: Sinh học
Học phần: Động vật học
Đặc điểm cấu tạo và sinh lý

Đặc điểm phân đốt và phần phụ: phân đốt dị hình. Nói
chung cơ thể được chia làm 3 phần là phần đầu (cephalon),
phần ngực (thorax), phần bụng (abdomen). Xét về nguồn
gốc thì tất cả giáp xác đều có 1 phần đầu nguyên thủy
(procephalon). Phần phụ đầu của giáp xác có cấu tạo hai
nhánh, ở giáp xác thấp thì cấu tạo hai nhánh điển hình, còn
ở giáp xác cao thì nhánh ngoài tiêu giảm. Ngực gồm 8 đốt,
các đôi phần phụ biến đổi thành chân-hàm, 5 đôi chân bò.
Bụng có 7 đốt ( trừ nhóm leptostraca bụng gồm có 8 đốt),
thay đổi ở các nhóm khác nhau. Phần phụ bụng của giáp xác
cao phát triển mạnh hơn giáp xác thấp, làm nhiệm vụ bơi lội
và hô hấp nữa.
Đặc điểm cấu tạo và sinh lý

Vỏ cơ thể: vỏ ngoài của giáp xác có hàm lượng kitin cao, có
thể thấm nước dễ dàng. Giap xác có màu sắc do các sắc tố
tạo nên.

Hệ hô hấp: là mang nằm ở các đôi chân ngực hay chân
bụng, có dạng tấm hay dạng sợi. Mnag có mối quan hệ chặt
chẽ với hệ tuần hoàn.

Hệ tiêu hóa: là 1 ống thẳng hay hơi cong về phái bụng, có 3


phần là ruột trước, ruột giữa và ruột sau, có sự dịch chuyển
của lỗ miệng về phía sau.

Hệ tuần hoàn: hệ tuần hoàn hở. Bộ phận chủ yếu là 1 ống
lưng, phần phìn có khả năng co bóp được gọi là tim. Tim có
lỗ tim và xoang tim.
Đặc điểm cấu tạo và sinh lý

Hệ bài tiết: là sự biến đổi của hậu đơn thận được gọi
là tuyến râu và tuyến hàm, lỗ bài tiết đỗ ra gốc râu
hay tuyến hàm dưới.

Hệ thần kinh và giác quan: có cấu trúc 1 chuỗi hạch
kép ở mặt bụng. Não của giáp xác gồm não trước,
não giữa và não sau. Ở giáp xacscungx phát triển hệ
thần kinh giao cảm. Giac quan khá phát triển.
Đặc điểm cấu tạo và sinh lý

Hệ sinh dục: giáp xác thường phân tính, một số ít nhóm
lưỡng tính như ciripedia sống bám và isopoda ký sinh.
Tuyến sinh dục thường chập làm một gồm phần tuyến và
các cặp ống dẫn. Sai khác đực cái có thể ở hình thái ngoài
( con đực rất bé so với con cái ở ciripedia và copepoda), có
khi chỉ ở cơ quan giao phối ( đôi râu thứ nhất ở copepoda
đực, đôi chân bụng thứ nhất và thứ hai của tôm cua đực).
Tinh trùng có cấu tạo đặc biệt. Qúa trình thụ tinh thay đổi
tùy loài. Một số giáp xác có túi chứa tinh, con đực phóng
tinh trùng trực tiếp vào cơ quan sinh dục của con cái, một số

khác qua bao tinh và dùng đôi chân bụng thứ nhất và thứ hai
ở con đực. Ở con cái thường có tuyến tiết chất dịch hòa tan
vỏ bao tinh và thường dùng chân ôm trứng. Số lượng trứng
thay đổi tùy loài từ vài trăm đến hàng ngàn hay hàng trăm
ngàn trứng.
Sinh sản và phát triển

Giap xác sinh sản hữu tính nhưng một số giáp xác thấp lại
có khả năng xử nữ và có hiện tượng xen kẽ thế hệ theo mùa.
Trứng phát triển phụ thuộc vào hàm lượng noãn hoàng
nhiều hay ít. Trứng giàu noãn hoàng thì phân cắt bề mặt.

Phôi phát triển ở giai đoạn đầu như giun đốt: dãi tế bào phôi
giữa tạo thành 2 đốt ấu trùng (đốt mang đôi râu 2 và đốt
mang đôi hàm trên) nằm phía sau đốt mang mắt và đôi râu
1. Sau đó mới hình thành các đốt sau ấu trùng và từ vùng
sinh trưởng phía đuôi. Giai đoạn tiếp theo có sự sai khác với
giun đốt là các tế bào lát thành thể xoang đã được hình
thành và bị phân tán tạo thành các cơ quan có nguồn gốc từ
lá phôi giữa như tim ,cơ, mô liên kết, xoang thứ sinh nhập
với pohaanf còn lại của xoang nguyên sinh tạo thành xoang
hỗn hợp (mixocoelum).
Sinh sản và phát triển

Sau giai đoạn phôi, giáp xác biến thái phức tạp.
Dạng ấu trùng đầu tiên là nauplius tương ứng với
metatrochophora ở giun đốt với 3 đôi phần phụ đặc
trưng là râu 1 (một nhánh), râu 2 và hàm trên (có 2
nhánh), có mắt lẻ và có nội qua đơn giản như hạch

não, 2 đôi hạch bụng, một đôi tuyến bài tiết.

Nauplius sống trôi nổi. Tiếp theo là hình thành các
đốt từ vùng sinh trưởng quanh hậu môn và hình
thành các đôi phần phụ như hàm dưới, phần phụ
ngực, mắt kép… để hình thành ấu trùng
metanauplius.
nauplius
metanauplius
Sinh sản và phát triển

Sau nauplius và metanauplius sự phát triển tiếp theo
tùy nhóm giáp xác: ở chân kiếm là ấu trùng
copepodit, ở mười chân là zoea, sau đó là ấu trùng
mysis (ở tôm) hay megalopa (ở cua). Các ấu trùng
không phải bao giờ cũng phát triển đậy đủ mà nhiều
khi chúng thu gọn trong giai đoạn phôi. Ví dụ như
cua bể nở ngay ra ấu trùng zoea, tôm nước ngọt nở
ngay ra tôm con.

Ấu trùng giáp xác là thành phần quan trọng của sinh
vật nổi ở biển và ở nước ngọt. Chúng là thức ăn chủ
yếu của nhiều loài thủy hải sản.
megalopa mysis
copepoda zoea
Phân loại và các đại diện quan trọng

Phân lớp chân chèo(remipedia)

Phân lớp giáp đầu (cephalocarida)


Phân lớp chân mang (brachiopoda):

Bộ chân mang (anostraca)

Bộ râu ngành (cladocera)

Bộ có mai (notostraca)

Bộ vỏ giáp (conchostraca)

Phân lớp chân hàm (maxillopoda):

Bộ chân kiếm (copepoda)

Bộ mang đuôi (branchiurra)

Bộ chân tơ ( ciripedia)

Bộ mystacocarida
Phân loại và các đại diện quan trọng

Phân lớp giáp trai (ostracoda)

Phân lớp giáp xác lớn (malacostraca)

Bộ chân miệng (stomatpoda)

Bộ bơi nghiêng hay chân khác (amphipoda)


Bộ hình tôm (euphausiacea)

Bộ mười chân (decapoda)

Phân bộ bơi (natantia) hay bụng lớn (macrura)

Phân bộ bò (reptantia)
Vai trò của giáp xác

Do phân bố rộng, giáp xác giữ vai trò quan trọng trong hệ
sinh thái là trung gian chuyển hóa vật chất, ăn mùn bả hữu
cơ, thực vật, vi sinh vật và động vật bé…để tạo nên hợp
chát hữu cơ có chát lượng cao hơn.

Hóa thạch của giáp xác (conchostraca, ostracoda) đã tìm
thấy từ nguyên đại Cổ Sinh, có giá trị chỉ thị địa tầng và tìm
kiếm dầu khí.

Nhiều giáp xác lớn là đối tượng khai thác có giá trị cao của
ngành hải sản. Sản lượng khai thác hàng năm lên tới 1,9
triệu tấn, chủ yếu là tôm biển. Trong tự nhiên giáp xác là
nguồn thức ăn rất quan trọng của nhiều loài các ăn đáy và
ăn nổi. Như loài euphausia superba là thức ăn chủ yếu của
cá voi nam cực. Một số loài giáp xác nhỏ thuộc giống
daphnia moina…được nuôi nhân tạo làm thức ăn cho cá.
conchostraca
Euphausia superba
Daphnia moina
Vai trò của giáp xác


Tác hại của giáp xác không nhỏ. Bao gồm các loài sống
bám như hà, sun (bộ chân tơ), các loài đục gỗ như limnoria,
chelura gây hại cho vỏ tàu thuyền dưới nước. Các loài chân
kiếm, chân đều, mang đuôi ký sinh ở cá, là vật chủ trong
gian của nhiều loài sán lá, sán day. Cua núi là vật chủ trung
gian cho các loài sán phổi. Loài cua eriocheir di nhập vào
biển ban tích đục phá đê biển. Tôm alpheidae phát ra tiếng
động gây nhiễu loạn thông tin đường biển.

Ở Việt Nam hiện nay đã biết khoảng 1.600 loài giáp xác.
Các họ có thành phần phong phú và có giá trị kinh tế cao
như tôm he (penaeidae), tôm hùm (palinuridae), cua bơi
(portunidae), cua rạm (grapsidae), còng gáy (ocypodidae),
tôm bọ ngựa (spuillidae)…Nhiều loài được khai thác trực
tiếp, một số loài khác được nuôi để xuất khẩu
limnoria
ocypodidae
grapsidae
Eriocheir sinensis
Vai trò của giáp xác

Tôm he (panaeidae): biển Việt Nam hiện nay biết khoảng 77
loài, có khoảng 50% số loài có giá trị xuất khẩu, khả năng
khai thác hàng năm khoảng 5000 tấn. Các loài có giá trị cao
như tôm bạc (paneus merguiensis), tôm thẻ trắng
(p.indicus), tôm thẻ (p.semisulcatus), tôm sú (p.monodon),
tôm vằn (p.japonicus), tôm nương (p.chinensis), tôm rảo
(metapaneus enisis), tôm bộp (m.affinis), tôm vàng
(m.joyneri), tôm đuôi xanh (m.intermedius) và tô sắt
(parapenaeopsis hardwickii).


Tôm hùm (palinuridae và nephropidae): Việt Nam hiện biết
13 loài có giá trị kinh tế, tuổi thọ cao, có thể đến 15 năm, ấu
trùng có thời gian biến thái kéo dài tới 1 năm, càng lơn lên
càng xa bờ
panaeidae
palinuridae
Vai trò của giáp xác

Tôm vỗ (scyllaridae): ở Việt Nam hiện biết 9 loài,
năng xuất khai thác hàng năm tới 17.000 tấn, có 2
bãi khai thác chính là bãi tôm cù lao Thu và bãi tôm
đông nam và tây nam mũi Cà Mau. Có 2 loài có gia
trị kinh tế cao là ibacus ciliatus (chiếm 70% sản
lượng khai thác) và thenus orientalis. Khu hệ giáp
xác nước ngọt đã biết 130 loài trong đó có tôm càng,
tom riu, cua đồng, tôm càng xanh…được nuôi
nhiều.
Các giáp xác thường gặp trong tự nhiên
THE END

×