Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn thạc sĩ Vận dụng mô hình cảnh báo sớm trong cảnh báo khủng hoảng hệ thống ngân hàng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.35 MB, 99 trang )

1


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO
TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ
MINH

==================







MAI NHƢ QUỲNH









VẬN DỤNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM
TRONG CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM











LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ









TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
2


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO
TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ
MINH

==================











MAI NHƢ QUỲNH






VẬN DỤNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM
TRONG CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM


Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60 34 0201



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRƢƠNG THỊ HỒNG




TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013





LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan luận văn này là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu
khoa học độc lập


nghiêm
túc của cá nhân.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, đƣợc trích dẫn và phát triển từ các tài liệu, các công
trình nghiên cứu đã đƣợc công bố, tham khảo các tạp chí chuyên ngành và các
trang thông tin điện tử.
Những quan điểm đƣợc trình bày trong luận văn là quan điểm cá nhân.
Các giải pháp nêu trong luận văn đƣợc rút ra từ những cơ sở lý luận và quá
trình nghiên
cứu thực tiễn.



Tác
giả







Mai Như Quỳnh




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VÀ MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 1
1.1. Tổng quan về khủng hoảng hệ thống ngân hàng: 1
1.1.1. Khái niệm khủng hoảng hệ thống ngân hàng: 1
1.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng hệ thống ngân hàng: 2
1.1.2.1. Nguyên nhân liên quan đến các yếu tố vi mô
:
2

1.1.2.2. Nguyên nhân liên quan đến chính sách kinh tế vĩ mô 4
1.1.2.3. Các nguyên nhân khác: 8
1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng hệ thống
ngân hàng: 8
1.1.4. Tác động của khủng hoảng hệ thống ngân hàng đến nền kinh tế: 9
1.1.4.1. Tổng sản phẩm quốc dân: 10
1.1.4.2. Khu vực phi sản xuất của nền kinh tế: 10
1.1.4.3. Các chính sách kinh tế của chính phủ: 10
1.1.4.4. Tình trạng thất nghiệp và cơ cấu lao động của quốc gia: 11
1.1.5. Các phƣơng pháp dự báo sớm khủng hoảng hệ thống ngân hàng: 11
1.1.5.1. Phƣơng pháp cảnh báo sớm phi tham số: 11
1.1.5.2. Phƣơng pháp cảnh báo sớm tham số: 14
1.1.5.3. Các phƣơng pháp khác: 14
1.2. Các mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng hệ thống ngân hàng: 15
1.2.1. Mô hình cảnh báo khủng hoảng của Aykut Kibritciouglu (2002): 15
1.2.2. Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng hệ thống ngân hàng Ấn Độ giai đoạn
2000-2009: 18




1.3. Vai trò của Ngân hàng nhà nƣớc đối với khủng hoảng hệ thống ngân hàng: 22
1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: 25
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 27

CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM TRONG CẢNH
BÁO KHỦNG HOẢNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT
NAM 28
2.1. Nhận xét việc vận dụng mô hình cảnh báo sớm và các biện pháp phòng ngừa
rủi ro khủng hoảng hệ thống ngân hàng Việt Nam đã thực hiện: 28

2.1.1. Những thành tựu đạt đƣợc: 28
2.1.2. Những mặt hạn còn hạn chế: 28
2.2. Nhận diện các nhân tố tác động đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt
Nam: 30
2.2.1. Tính thanh khoản: 31
2.2.2. Nợ xấu: 32
2.2.3. Tỷ giá: 34
2.2.4. Lãi suất: 35
2.2.5. Lợi ích nhóm và sở hữu chéo giữa các ngân hàng: 35
2.2.6. Năng lực quản trị của các ngân hàng: 37
2.2.7. Cạnh tranh thiếu lành mạnh: 38
2.3. Vận dụng mô hình cảnh báo sớm trong cảnh báo khủng hoảng hệ thống ngân
hàng Việt Nam: 38
2.3.1. Xác định các giai đoạn xảy ra khủng hoảng ngân hàng: 39
2.3.1.1. Cơ sở dữ liệu: 39
2.3.1.2. Xây dựng chỉ số đổ vỡ ngành ngân hàng: 39
2.3.1.3. Kết quả thực nghiệm: 40
2.3.2. Ƣớc lƣợng xác suất xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng bằng phƣơng
pháp probit: 43
2.3.2.1. Lựa chọn các chỉ số cảnh báo khủng hoảng: 43
2.3.2.2. Mô hình hồi quy: 44




2.3.2.3. Kết quả thực nghiệm: 44
2.3.2.4. Vận dụng mô hình hồi quy probit cho mục đích dự báo: 47
2.3.2.5. Hạn chế của mô hình: 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 49


CHƢƠNG 3: ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN MỒ HÌNH CẢNH BÁO SỚM VÀ
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA KHỦNG HOẢNG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM 50
3.1. Định hƣớng phát triển hệ thống ngân hàng đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm
2010: 50
3.2. Các biện pháp hoàn thiện mô hình cảnh báo sớm và phòng ngừa khủng hoảng
hệ thống ngân hàng: 51
3.2.1. Kiến nghị đối với Chính phủ: 51
3.2.1.1. Hoàn thiện mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng hệ thống ngân hàng: 51
3.2.1.2. Chính sách tài khóa hiệu quả: 52
3.2.1.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật: 52
3.2.1.4. Hoàn hiện hệ thống kế toán, công khai minh bạch thông tin: 53
3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nƣớc: 54
3.2.2.1. Chính sách tiền tệ phù hợp: 54
3.2.2.2. Chính sách quản lý dự trữ ngoại tệ quốc gia hiệu quả: 55
3.2.2.3. Đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: 56
3.2.2.4. Tăng cƣờng giám sát và chính sách quản lý: 57
3.2.2.5. Nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý tài chính, tiền tệ: 57
3.2.2.6. Qui định về tỷ lệ dự trữ, về vốn và các công cụ thanh tra: 59
3.2.2.7. Chủ động tham gia tự do hóa tài chính: 60
3.2.2.8. Chính sách bảo hiểm tiền gửi phù hợp: 61
3.2.3. Kiến nghị đối với hệ thống ngân hàng: 62
3.2.3.1. Nâng cao mức độ chính xác và minh bạch thông tin: 62
3.2.3.2. Nâng cao chất lƣợng quản trị rủi ro: 62
3.2.3.3. Hạn chế rủi ro tín dụng: 65




3.2.3.4. Hạn chế rủi ro ngoại hối: 66

3.2.3.5. Phòng ngừa rủi ro thanh khoản: 67
3.2.3.6. Phòng ngừa rủi ro lãi suất: 69
3.2.3.7. Phòng ngừa rủi ro kỳ hạn: 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 70
KẾT LUẬN 71

PHẦN PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO





DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các giai đoạn đổ vỡ theo mức độ của ngành ngân hàng Ấn Độ
20
Bảng 2.1: Các giai đoạn đổ vỡ theo mức độ của HTNH VN 41
Bảng 2.2: Tổng hợp chỉ số phát triển tài chính của VN 43
Bảng 2.3: Các chỉ số cảnh báo khủng hoảng HTNH VN
43
Bảng 2.4: Kết quả chạy mô hình Probit (01/2001- 05/2012) 44
Bảng 2.5: Giá trị dự báo kỳ vọng của mô hình Probit 46
Bảng 2.6: Xác suất xảy ra khủng hoảng HTNH VN 47


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Các giai đoạn của chỉ số đổ vỡ ngành ngân hàng 16
Biểu đồ 1.2: Chỉ số đổ vỡ ngành ngân hàng Ấn Độ (3/2000-11/2009
)
20

Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ tín dụng/ tổng huy động tiền gửi 31
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ cho vay/huy động tiền gửi của HTNH các nƣớc 32
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ nợ xấu VN giai đoạn 2008 – 2012 32
Biểu đồ 2.4: Dƣ nợ và tỷ lệ nợ xấu cho vay bất động sản 34
Biểu đồ 2.5: Chỉ số đổ vỡ HTNH VN từ năm 2001 - 2012 40





DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


1.
BSF
: Banking Sector Fragility (Chỉ số đổ vỡ ngân hàng)
2
BHTG
: Bảo hiểm tiền gửi
3
CIC
: Trung tâm thông tin tín dụng
4
CNTT
: Công nghệ thông tin
5
EWS
: Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính
6
GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội
7
HTNH
: Hệ thống ngân hàng
8
HoSE
: Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM
9
NH
: Ngân hàng
10
NHNN
: Ngân hàng Nhà nƣớc
11
NHTW
: Ngân hàng Trung ƣơng
12
NHLD
: Ngân hàng liên doanh
13
NPLs
: Nợ xấu
14
IMF
: Quỹ tiền tệ quốc tế
15
TCTD
: Tổ chức tín dụng
16
USD

: Đô la Mỹ
17
VN
: Việt Nam
18
VND
: Đồng Việt Nam
19
WTO
: The World Trade Organization (Tổ chức thƣơng mại thế giới)
20
WEF
: World Economic Forum (Diễn đàn kinh tế thế giới)








PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Năm 2007, VN gia nhập WTO, lộ trình mở cửa ngành tài chính – ngân
hàng. Từ đây, những yếu kém của HTNH bộc lộ ngày càng rõ nét khi việc tự do
hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn trong HTNH nƣớc nhà gặp phải sự cạnh
tranh khốc liệt của dòng vốn ngoại. Mặc dù, khủng hoảng HTNH ở VN vẫn chƣa
xảy ra, nhƣng cũng đã tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, việc xây dựng mô hình cảnh
báo về nguy cơ khủng hoảng HTNH là hết sức cần thiết và cần đƣợc nghiên cứu

toàn diện để giúp VN tránh đƣợc các cuộc khủng hoảng ngân hàng trong tƣơng lai.
Xuất phát từ những nhận định trên, tôi đã quyết định chọn đề tài “Vận
dụng mô hình cảnh báo sớm trong cảnh báo khủng hoảng hệ thống ngân
hàng Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn này tập trung nghiên cứu những lý thuyết về khủng hoảng tài
chính, tiền tệ cũng nhƣ vận dụng mô hình cảnh báo khủng hoảng ngân hàng. Từ
đó, xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng HTNH VN, dựa trên kết quả đã
nghiên cứu để đƣa ra các kiến nghị, đề xuất phù hợp.
3. Tổng quan các nghiên cứu trƣớc:
Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính (EWS) thế hệ thứ nhất
đƣợc xây dựng và phát triển bởi Giáo sƣ kinh tế Krugman (1979). Cuối những
năm 90 thể kỷ 20, mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng đƣợc nghiên
cứu một cách độc lập, đã có một số công trình nghiên cứu nhƣ sau:
- Demigru – Kun và Detragiache (1998), sử dụng mô hình Logit để giải
thích mối quan hệ giữa các biến giải thích và xác suất xảy ra khủng hoảng HTNH.
Xác suất này đƣợc mô tả bằng véc-tơ của biến giả đối với các biến giải thích với
mẫu thống kê bao gồm các quốc gia có và chƣa có khủng hoảng HTNH.
- Kaminsky và Reinhart (1999), Borio và Lowe (2002), Borio và
Drehmann (2009), đƣa ra mô hình phi tham số để cảnh báo khủng hoảng tiền tệ
và khủng hoảng ngân hàng dựa trên sự phát tín hiệu của các chỉ số đƣợc lựa chọn




với các mức ngƣỡng khác nhau để dự báo khủng hoảng ngân hàng. Các mức
ngƣỡng đƣợc phân chia thành hai vùng: vùng bình thƣờng và vùng nguy hiểm căn
cứ vào xác suất xảy ra khủng hoảng. Đối với mỗi giai đoạn nghiên cứu, nếu nhƣ
kết quả quan sát của một chỉ số vƣợt qua mức ngƣỡng và rơi vào vùng nguy hiểm
thì chỉ số sẽ phát ra tín hiệu cảnh báo.

- Borio & Lowe (2002) đã phát triển dựa trên nghiên cứu của Kaminsky
& Reinhart (1999), họ xây dựng những chỉ số tổng hợp để từ đó, phân tách thành
các tín hiệu của cuộc khủng hoảng ngân hàng. Các tác giả lựa chọn các chỉ số
đƣợc cho là chứa thông tin dự đoán cuộc khủng hoảng ngân hàng, sau đó tổng hợp
các biến để tạo ra một tín hiệu tổng hợp. Tín hiệu về khủng hoảng ngân hàng đƣợc
bật nếu tất cả các biến thành phần vƣợt qua ngƣỡng của mình cùng một lúc.
- Duttagupta và Cashin 2008, Karim 2008, Davis và Karim (2008), sử
dụng mô hình nhị phân để dự báo khủng hoảng dựa trên những biến số kinh tế.
- Thangjam Rajeshwar Singh (2009) đã áp dụng phƣơng pháp xây dựng
chỉ số đổ vỡ ngành ngân hàng nhƣ trong nghiên cứu của Kibritciouglu (2002), tuy
nhiên, có một số điều chỉnh nhất định. Dựa trên chỉ số BFS xác định các giai đoạn
khủng hoảng ngân hàng của Ấn Độ, tác giả Thangjam đã sử dụng mô hình
Ordered Probit để dự đoán những giai đoạn khủng hoảng khác nhau của nƣớc này.
Theo đó, biến phụ thuộc đƣợc phân loại thành các giá trị 0, 1 và 2 tƣơng ứng với
tình trạng khủng hoảng: không có khủng hoảng, đổ vỡ mức trung bình và tính đổ
vỡ cao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành tài chính – ngân hàng trong đó
chú trọng đến vấn đề về khủng hoảng, đổ vỡ HTNH, vận dụng mô hình cảnh báo
sớm trong cảnh báo khủng hoảng HTNH.
- Phạm vi nghiên cứu: HTNH tại Ấn Độ và Việt Nam (về không gian) với
giai đoạn nghiên cứu trọng tâm từ năm 2001 đến năm 2012. Bên cạnh đó, các giai
đoạn khác cũng đƣợc đề cập đến để hỗ trợ nghiên cứu các vấn đề nêu trong đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:




- Luận văn có kế thừa và sử dụng kết quả nghiên cứu của các đề tài trƣớc
đây về mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng nƣớc ngoài để làm cơ sở lý

luận và tham khảo.
- Luận văn sử dụng chủ yếu phƣơng pháp định đính, định lƣợng, thống
kê, so sánh và tổng hợp nhằm làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. Đối với nghiên cứu
định lƣợng đƣợc sử dụng trong phƣơng pháp phi tham số và tham số.
6. Câu hỏi nghiên cứu:
Câu hỏi nghiên cứu đƣợc đƣa ra:
- Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng nào sẽ phù hợp để áp dụng vào
HTNH VN hiện nay?
- Xác suất HTNH VN rơi vào khủng hoảng là bao nhiêu?
- Các nhân tố kinh tế nào góp phần gây ra khủng hoảng HTNH VN?
7. Bố cục đề tài:
Bố cục Luận văn “Vận dụng mô hình cảnh báo sớm trong cảnh báo khủng
hoảng HTNH VN” ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan về khủng hoảng HTNH và mô hình cảnh báo sớm
khủng hoảng HTNH. Nội dung trình bày là cơ sở lý luận làm căn cứ khoa học
nhằm nghiên cứu/đề xuất mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng HTNH.
Chương 2: Vận dụng mô hình cảnh báo sớm trong cảnh báo khủng hoảng
HTNH VN. Phần này nêu lên các nhân tố tác động đến sự ổn định của HTNH VN
cũng nhƣ các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Qua đó, chỉ ra sự cần thiết phải xây
dựng mô hình và vận dụng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng HTNH VN.
Chương 3: Đề xuất hoàn thiện mô hình cảnh báo sớm và các biện pháp
phòng ngừa rủi ro HTNH VN. Vận dụng kết quả nghiên cứu ở chƣơng 2 để đƣa ra
các đề xuất hoàn thiện mô hình cảnh báo sớm và các biện pháp phòng ngừa khủng
hoảng HTNH một cách hợp lý, an toàn và hiệu quả cao.
1



CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VÀ MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
1.1. Tổng quan về khủng hoảng hệ thống ngân hàng:
1.1.1. Khái niệm khủng hoảng hệ thống ngân hàng:
Có rất nhiều khái niệm về khủng hoảng HTNH, trong đó có một số đƣợc
coi là khá toàn diện vì chúng hàm chứa đƣợc những nguyên nhân, biểu hiện cũng
nhƣ hậu quả của các cuộc khủng hoảng HTNH.
Nghiên cứu của Luc Laeven & Fabian Valencia (2005) cho rằng, khủng
hoảng HTNH sẽ xảy ra, khi khu vực tài chính và doanh nghiệp của một quốc gia rơi
vào tình trạng không đủ khả năng trả nợ, đồng thời các định chế tài chính và các
doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với các khó khăn nghiêm trọng trong việc trả các hợp
đồng đúng hạn. Kết quả là, các khoản nợ xấu tăng mạnh khiến cho phần lớn hoặc là
tất cả vốn của toàn bộ HTNH sẽ bị cạn kiệt.
Trong khi đó, Theo Demigru – Kunt & Detragiache, đƣợc biết đến lần đầu
tiên vào năm 1998, sau đó bổ sung vào năm 2002 và 2004 cho rằng, khủng hoảng
HTNH xảy ra nếu có ít nhất là một tiêu chí sau đây xảy ra: (1) Tỷ lệ nợ xấu so với
tổng vốn cho vay trong HTNH vƣợt quá 10%; (2) Chi phí cho hoạt động cứu trợ
ngân hàng tối thiểu bằng 2% GDP; (3) Giai đoạn cứu trợ kéo theo hoặc là quốc hữu
hóa các ngân hàng ở quy mô lớn, hoặc là hiện tƣợng rút tiền gửi ồ ạt khỏi ngân
hàng, hoặc các biện pháp khẩn cấp khác nhƣ đóng băng tiền gửi, cho phép ngân
hàng nghỉ giao dịch, phát hành bảo lãnh chính phủ.
Tóm lại, có nhiều khái niệm về khủng hoảng HTNH, nhƣng không mâu
thuẫn với quan điểm cho rằng, khu vực tài chính ngân hàng là hàn thử biểu của nền
kinh tế và đều đề cập đến tình huống: “Tổn thất thực tế hoặc ước tính trong hoạt
động ngân hàng khiến một loạt các ngân hàng không còn khả năng thanh toán các
khoản nợ cho khách hàng hoặc buộc chính phủ phải can thiệp không cho tình trạng
đó lan ra trên diện rộng gây thiệt hại cho nền kinh tế, hoặc làm tê liệt HTNH”
1
.

1

Theo IMF, 1998
2



1.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng hệ thống ngân hàng:
1.1.2.1. Nguyên nhân liên quan đến các yếu tố vi mô
:
Các yếu tố vi mô có thể trở thành những yếu tố quan trọng gây nên sự suy
sụp của HTNH, cụ thể là chất lƣợng của toàn bộ khuôn khổ quy định, thể chế của
đất nƣớc. Qui chế thị trƣờng yếu kém do những yếu tố nhƣ: công bố thông tin hạn
chế, quản trị ngân hàng yếu kém, bảo hiểm tiền gửi quá mức hoặc hệ thống giám
sát yếu kém có thể quyết định tới mức độ lệch lạc của thông tin, chất lƣợng quản lý
ngân hàng nên tạo ra những yếu tố dễ bị tổn thƣơng và cuối cùng là gây nên khủng
hoảng HTNH.
- Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản:
Theo một trƣờng phái kinh tế, khủng hoảng ngân hàng do việc cho vay với
số lƣợng lớn và tài trợ vốn không hiệu quả trong giai đoạn mở rộng của chu kỳ kinh
doanh. Một cuộc khủng hoảng xảy ra khi “bong bóng” bị nổ. Ba đặc điểm sau của
những cuộc khủng hoảng gần đây đã chứng minh cho quan điểm nói trên: (1) Bùng
nổ cho vay của ngân hàng và giảm giá cổ phiếu thƣờng diễn ra trƣớc khủng hoảng
ngân hàng; (2) Những nƣớc mới nổi có dòng vốn đầu tƣ lớn là những nƣớc mở
rộng khu vực ngân hàng thƣơng mại nhanh nhất; (3) Sự lạc quan quá mức về hiệu
quả của cải cách chính trị tại những nƣớc mới nổi. Quan điểm này, dựa theo giả
thiết rằng, khó phân biệt những khoản tín dụng rủi ro thấp và những khoản tín dụng
rủi ro cao khi nền kinh tế mở rộng quá nhanh, bởi vì ngƣời đi vay thƣờng có lợi
nhuận và tính thanh khoản tạm thời rất cao, thay đổi đột ngột về giá tài sản cố định
và cổ phiếu làm căng thẳng khủng hoảng (tập trung cho các khoản vay quá nhiều)
và giảm giá tài sản đẩy giá trị thị trƣờng của tài sản thế chấp xuống.
Tại Mỹ La Tinh, cũng nhƣ một số nƣớc công nghiệp phát triển nhƣ: Phần

Lan, Nauy, Thụy Điển, Nhật Bản và Mỹ, khủng hoảng ngân hàng xảy ra sau bùng
nổ cho vay. Bùng nổ cho vay dƣới tiêu chuẩn tại Mỹ dẫn tới cuộc khủng hoảng tài
chính – ngân hàng năm 2008, và nghiêm trọng hơn đã lan rộng trên toàn cầu. Các
ngân hàng đầu tƣ nhƣ: Lehman Brothers tại Mỹ và các ngân hàng bán lẻ nhƣ
Northern Rock tại Anh đã phải đóng cửa vào năm 2008. Tháng 2/2009, một vài
3



ngân hàng chính của Anh nhƣ Lloyds TSB và Barcllys Bank, đã gần sụp đổ khi giá
cổ phiếu giảm trầm trọng tại Thị trƣờng chứng khoán London.
- Năng lực của hệ thống ngân hàng:
Một số HTNH vững chắc với độ thanh khoản và dự trữ vốn cao, có khả
năng hạn chế rủi ro, có thể giúp một nền kinh tế vƣợt qua đƣợc thời kỳ bị rút vốn
đột ngột.
Ngƣợc lại, một HTNH, trong đó, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao cộng với
chất lƣợng tài sản thấp, thiếu các biện pháp bảo đảm rủi ro tiền tệ và khả năng về
vốn sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng mất ổn định trƣớc nguy cơ vốn bị rút đột ngột.
- Quản trị ngân hàng và công khai tài chính không hiệu quả:
Những quy định về công khai tài chính không thực thi và kém tác dụng
làm suy yếu khả năng kiểm soát rủi ro trong khu vực ngân hàng, góp phần tạo nên
sự phân bổ vốn không hiệu quả. Các tiêu chuẩn kế toán - kiểm toán hoặc chất lƣợng
không cao, không phù hợp, thiếu các quy định công khai tài chính đối với ngân
hàng (kể cả thực chất tình trạng rủi ro), hay việc thực thi các quy định đó không có
hiệu quả đều là những vấn đề thực tế ở một số quốc gia, làm giảm khả năng kiểm
soát rủi ro và chất lƣợng của các quyết định cho vay. Tƣơng tự, các công cụ quản lý
không thích hợp gồm cả sự phân giao trách nhiệm cụ thể cho giám đốc, các quy
định giải quyết xung đột về lợi ích và quyền lợi cho cổ đông hoặc có các quy định
này mà thực hiện không hiệu quả cũng dẫn tới năng lực quản lý rủi ro kém.
- Thiếu cạnh tranh trong khu vực ngân hàng:

Khi thiếu sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thì hệ thống tài chính dễ bị tổn
thƣơng và sẽ dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động với tƣ cách là trung gian phân phối
nguồn vốn. Khi các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc tế lớn áp dụng các
chiến lƣợc cạnh tranh mới sẽ có thể củng cố năng lực quản lý rủi ro của hệ thống tài
chính. Vì vậy, các thành viên tham gia thị trƣờng hiện tại có điều kiện tiếp cận các
kỹ năng quản lý rủi ro trong các ngân hàng mới. Tuy nhiên, mở cửa hệ thống tài
chính trƣớc môi trƣờng cạnh tranh cũng cần phải có các biện pháp tăng cƣờng năng
lực quản lý rủi ro của những thành viên tham gia thị trƣờng mới.
4



- Năng lực nhận diện và hạn chế rủi ro kém:
Một nhân tố cũng rất quan trọng là khả năng nhận diện, kiểm soát rủi ro và
đƣa ra các quyết định cho vay của HTNH trên cơ sở đánh giá những rủi ro có liên
quan. Ví dụ, khi ngân hàng đƣa ra quyết định cho vay với sự tin cậy về giá trị thế
chấp lớn hơn việc đánh giá cẩn thận về khả năng trả nợ của ngƣời vay, điều này có
thể khiến quyết định cho vay đó sẽ không có chất lƣợng và sự phân bổ nguồn lực
không hiệu quả. Trong trƣờng hợp nghiêm trọng hơn, việc quản lý rủi ro kém còn
dẫn tới sự giảm sút chất lƣợng tài sản và khả năng thanh toán, thậm chí tiềm tàng
nguy cơ bất ổn về tài chính trên diện rộng.
Hậu quả trầm trọng nhất phát sinh khi khả năng kiểm soát rủi ro trong
HTNH yếu kém trƣớc quá trình tự do hóa nhanh chóng của khu vực tài chính và tài
khoản vốn mà không đi kèm với các biện pháp nâng cao năng lực quản lý rủi ro.
Điều này đặc biệt đúng, khi HTNH phát triển từ một môi trƣờng đƣợc bảo hộ, nền
kinh tế bị điều tiết mọi mặt. Khi đó, HTNH không có điều kiện hay nhu cầu phát
triển khả năng nhận diện, giám sát và quản lý rủi ro nữa. Khi không còn sự kiểm
soát nữa, ngân hàng nhanh chóng phải đối mặt với rất nhiều các rủi ro khác. Và nhƣ
thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi tình trạng này có thể và thực tế, nó dẫn tới sự mạo
hiểm và các quyết định cho vay kém chất lƣợng. Rủi ro này càng thêm phần phức

tạp khi quá trình tự do hóa bao gồm cả việc mở cửa hệ thống tài chính trƣớc môi
trƣờng cạnh tranh, theo đó tạo điều kiện cho các ngân hàng và tổ chức tài chính
chấp nhận mạo hiểm hơn để duy trì thị phần.
1.1.2.2. Nguyên nhân liên quan đến chính sách kinh tế vĩ mô
Các nhân tố vĩ mô (cú sốc do lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá hàng hoá, kinh tế
suy giảm…) có thể là những yếu tố quyết định gây nên khủng hoảng.
- Lãi suất:
Lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Việc
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có thể gây ra những cú sốc thị trƣờng gây ảnh
hƣởng không tích cực đến sự ổn định của HTNH. Gần đây nhất, Ngân hàng Trung
ƣơng Trung Quốc đã để cho lãi suất liên ngân hàng Thƣợng Hải (Shibor) biến động
5



mạnh và lên cao kỷ lục làm ngƣời dân rút tiền ào ạt. Do đó, cuộc khủng hoảng tiền
mặt đã xảy ra ở Trung Quốc.
Bên cạnh đó, tỷ lệ lãi suất tăng mạnh làm suy giảm khả năng trả nợ ngân
hàng của các doanh nghiệp và ngƣời vay, càng góp phần làm giảm giá tài sản và kết
cục là, khả năng đảm bảo tài chính của ngân hàng cũng bị suy yếu.
Tăng lãi suất cũng có thể ảnh hƣởng đến bảng cân đối kế toán của ngân
hàng. Thông thƣờng, bên tài sản nợ của ngân hàng chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn
trong khi bên tài sản có bao gồm cả những khoản cho vay ngắn và dài hạn. Tăng lãi
suất trong ngắn hạn khiến cho ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi. Thêm vào đó,
những khoản cho vay dài hạn của ngân hàng thƣờng đƣợc ấn định tại một mức lãi
suất cố định nên tỷ suất sinh lời trên tài sản không thể đƣợc điều chỉnh một cách đủ
nhanh nhƣ việc điều chỉnh tăng lãi suất bên mục tài sản nợ. Khi đó, sẽ dẫn đến việc
giảm giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng và khiến cho ngân hàng rơi vào tình trạng
lợi nhuận giảm hoặc thậm chí là thua lỗ.
- Cơ chế tỷ giá:

Cơ chế tỷ giá hối đoái có thể ảnh hƣởng tới tính dễ bị tổn thƣơng của các
hoạt động đầu cơ, trong đó giá trị thực của tài sản ngân hàng đã bị suy yếu đƣợc
điều chỉnh lên - xuống và nhiều khả năng ngân hàng trung ƣơng phải thực hiện vai
trò ngƣời cho vay cuối cùng đối với ngân hàng mất khả năng thanh khoản nhƣng
chƣa mất khả năng thanh toán. Đây là trƣờng hợp của một số nƣớc Châu Á trong
hai năm 1997 - 1998, khi dòng vốn lớn bị thu hồi gây áp lực lớn lên tỷ giá, dẫn đến
tình trạng buộc phải thả nổi tỷ giá và một số đồng tiền bị sụt giảm nặng nề. Các
doanh nghiệp và ngân hàng không bảo hiểm khoản vay ngoại tệ phải đối mặt với
tình trạng thua lỗ lớn. Sự việc này diễn ra cùng với chất lƣợng tài sản bị suy giảm,
dự trữ vốn mỏng trong HTNH, nợ ngoại tệ cao tạo ra áp lực lớn lên khả năng thanh
toán của ngân hàng dẫn đến khủng hoảng các ngân hàng và hệ thống tài chính.
- Các quy luật thị trường không hữu hiệu:
Khi các quy luật thị trƣờng không đƣợc vận hành một cách hữu hiệu, có
khả năng dẫn đến năng lực kiểm soát rủi ro yếu kém, cho vay bất cẩn. Ví dụ, việc
6



nhà nƣớc sở hữu ngân hàng có những biện pháp ngầm hay công khai đảm bảo cho
ngành ngân hàng, có thể làm suy giảm khả năng quản lý rủi ro. Hậu quả là các ngân
hàng quản lý kém với chất lƣợng tài sản không đảm bảo đã không hoạt động theo
điều tiết của các quy tắc phù hợp với thị trƣờng nhƣ chi phí cho vay cao hơn hay
những trở ngại trong việc vay vốn. Trong một số trƣờng hợp, nếu có các biện pháp
đảm bảo hay sự chắc chắn rằng nhà nƣớc không thể để ngân hàng sụp đổ sẽ dẫn tới
khả năng phát sinh các hành vi tiêu cực trong việc cho vay và càng làm giảm giá trị
tài sản.
- Việc giám sát không hiệu quả ngành tài chính:
Một yếu tố quan trọng làm giảm giảm chất lƣợng của các quyết định cho
vay là việc giám sát không hữu hiệu của ngành tài chính. Nhƣ đã đề cập, đây là
trƣờng hợp xảy ra khi sự tự do hóa nhanh chóng trong khu vực tài chính và tài

khoản vốn, lúc đó các tổ chức tài chính không có đủ thời gian để xem xét về những
rủi ro và cách thức quản lý chúng. Ở một số vùng tại châu Á, Mỹ La tinh, châu Úc
đã diễn ra nhiều sự bất ổn và lao đao về tài chính, một phần đó là do việc giám sát
không hiệu quả ngành tài chính, bao gồm: Các cơ quan đảm nhiệm chức năng giám
sát thiếu năng lực và nguồn lực; Không có phƣơng pháp giám sát ngân hàng tổng
hợp, tình trạng này có khả năng một ngân hàng con không bị giám sát gây nên sự
mất ổn định cho các ngân hàng mẹ và các ngân hàng thành viên khác; Không chặt
chẽ trong điều hành và giám sát tình trạng rủi ro của ngân hàng, đặc biệt là rủi ro
liên quan đến tiền tệ, minh bạch tài chính và tín dụng; Thiếu hiệu quả trong hệ
thống giám sát, điều hành và kiểm soát rủi ro của ngân hàng; Thiếu phƣơng pháp
và việc điều hành chất lƣợng tài sản ngân hàng; Thiếu phƣơng pháp và việc giám
sát vốn của ngân hàng; Trong một số trƣờng hợp, việc giám sát thái quá có thể làm
suy yếu năng lực quản lý rủi ro của ngân hàng vì nó làm mất tác dụng của các quy
tắc thị trƣờng và tạo nên giả định rằng nhà nƣớc sẽ bảo lãnh tất cả những ngân hàng
không trả đƣợc hết nợ.
- Chuẩn bị chưa đầy đủ cho tự do hóa tài chính:
Tự do hóa tài chính mang lại không ít lợi ích, xét về phƣơng diện dài hạn,
7



đối với những nƣớc đang phát triển. Nhƣng những cuộc cải cách nhƣ vậy cũng sẽ
đƣa đến những rủi ro mới cho ngân hàng - có thể tăng nguy cơ của khủng hoảng
ngân hàng. Khi lãi suất đƣợc thả nổi, ngân hàng có thể mất sự bảo vệ mà họ đƣợc
hƣởng trƣớc đây từ cơ cấu lãi suất theo kỳ hạn đƣợc quy định nhằm duy trì lãi suất
ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. Nói chung, tính không ổn định của lãi suất có xu
hƣớng tăng, nhất là đối với các nƣớc đang trong giai đoạn chuyển đổi. Tốc độ mở
rộng tín dụng thƣờng xảy ra đối nghịch với tỷ lệ lãi suất tăng sau tự do hóa tài
chính. Nới lỏng hạn chế cho vay thƣờng giải phóng sức ép về nhu cầu vay tại các
lĩnh vực đƣợc tự do hóa (bất động sản, chứng khoán). Hạ thấp yêu cầu về dự trữ

cho phép ngân hàng có thêm nguồn để điều chỉnh phù hợp với nhu cầu vay tăng khi
nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng.
Thêm nữa, nhà quản lý tín dụng trong môi trƣờng tài chính kiểm soát trƣớc
kia có thể không có những kỹ năng chuyên môn cao để đánh giá những yếu tố mới
của rủi ro tín dụng và rủi ro thị trƣờng. Đồng thời, việc gia nhập của những đối thủ
cạnh tranh (trong và ngoài nƣớc) có thể tăng sức ép buộc ngân hàng chấp nhận các
hoạt động rủi ro cao hơn. Ngoài ra, việc ngân hàng dễ dàng tiếp cận thị trƣờng tài
chính thế giới có thể làm cho ngân hàng đầu tƣ vào những hoạt động rủi ro hơn.
Tuy nhiên, nếu cơ sở pháp lý về giám sát đƣợc tăng cƣờng trƣớc khi tự do
hóa thị trƣờng tài chính, quản lý ngân hàng có thể có đủ năng lực hoặc đƣợc đào
tạo để kiểm soát và đánh giá đầy đủ những hoạt động mới này. Có thể kể ra đây
một số cuộc khủng hoảng ngân hàng gắn liền với việc chƣa chuẩn bị đầy đủ cho tự
do hóa tài chính là khủng hoảng ngân hàng tại Brazil, Chile, Mexico.
- Yếu kém về chế độ kế toán, cơ chế thông tin và khuôn khổ pháp lý:
Tại các quốc gia mà hệ thống kế toán, cơ chế công khai thông tin và khuôn
khổ pháp lý gây trở ngại cho việc thực hiện kỷ cƣơng thị trƣờng và thực thi hoạt
động giám sát hiệu quả sẽ ảnh hƣởng bất lợi đến hoạt động cũng nhƣ gây tổn hại lợi
nhuận của ngân hàng. Trong môi trƣờng nhƣ vậy, các nhà đầu tƣ tƣ nhân hoặc
thanh tra viên ngân hàng sẽ kiểm soát và áp dụng kỷ cƣơng bằng những thông tin
thiếu chính xác. Tại nhiều quốc gia, những quy định về phân loại tài sản ngân hàng
8



(chẳng hạn các khoản nợ chậm trả hoặc nợ xấu), chƣa chặt chẽ để ngăn ngừa ngân
hàng không chuyển nợ xấu thành những khoản nợ đạt chất lƣợng. Khi việc phân
loại nợ chỉ phụ thuộc vào tình hình trả nợ (thanh toán) chứ không dựa vào việc
đánh giá uy tín tín dụng của ngƣời cho vay và giá trị thị trƣờng của tài sản thế chấp,
sẽ dẫn tới tình trạng ngân hàng và ngƣời vay thông đồng với nhau để che đậy tổn
thất bằng nhiều phƣơng pháp khác nhau nhƣ cơ cấu lại khoản vay chẳng hạn. Nếu

các khoản nợ xấu không đƣợc đánh giá đúng mức một cách hệ thống, dự phòng tổn
thất khoản vay sẽ không đủ, thu nhập ròng và vốn của ngân hàng không phản ánh
đúng thực tế tình hình tài chính của ngân hàng. Chính vì vậy, báo cáo về tỷ lệ
khoản vay xấu của các ngân hàng Chi lê và Colombia đã gián tiếp dẫn tới khủng
hoảng ngân hàng tại những quốc gia này vào những năm 1980.
Bên cạnh đó, cơ chế khuyến khích hạn chế hoạt động rủi ro đối với các
ngân hàng, chủ sở hữu ngân hàng, các nhà quản lý ngân hàng và ngƣời gửi tiền
cũng chƣa đƣợc quan tâm đúng mức cũng gián tiếp góp phần gây ra khủng hoảng
ngân hàng hoặc làm trầm trọng hơn các cuộc khủng hoảng ngân hàng.
1.1.2.3. Các nguyên nhân khác:
Khủng hoảng HTNH có thể xuất phát từ chính những khủng hoảng của
từng ngân hàng riêng lẻ. Do tính chất hoạt động mang tính “mạng lƣới”, nên khủng
hoảng của từng ngân hàng sẽ dễ dàng bị lan rộng và ảnh hƣởng đến cả hệ thống.
Một số tác nhân khác nhƣ gian lận hay tham nhũng cũng có thể góp phần
gây ra khủng hoảng HTNH. Những nguyên nhân này, nhìn chung xuất phát từ trong
chính nội bộ ngân hàng nhƣ: Nhân viên, ban điều hành; những chủ thể khác bên
ngoài HTNH nhƣ: Ngƣời gửi tiền, doanh nghiệp, chính phủ, … Hơn nữa, với sự
phát triển nhanh chóng cùng với sự đa dạng hóa trong các hoạt động ngân hàng, các
hành vi gian lận và tham nhũng cũng có thể thực hiện dƣới nhiều cách thức và
phƣơng thức khác nhau, điển hình nhƣ qua hệ thống các thiết bị điện tử.
1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng
hệ thống ngân hàng:
Ở nƣớc ta hiện nay vẫn chƣa chính thức xây dựng đƣợc một hệ cảnh báo
9



sớm khủng hoảng cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Đặc
biệt, với đặc điểm của một nền kinh tế đang phát triển, bị chịu nhiều tác động bởi
các yếu tố quốc tế, việc xây dựng một mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng, đặc biệt

là khủng hoảng HTNH cho VN là rất cấp thiết:
Thứ nhất, sự bất ổn của cả HTNH sẽ gây ra tổn thất rất lớn cho các nƣớc
xảy ra khủng hoảng cũng nhƣ các nƣớc liên đới bị ảnh hƣởng. Kể từ năm 1970, đã
có hơn 100 cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở 93 nƣớc (Caprio và Honohan,
2001). Một nửa trong số đó xảy ra ở các nƣớc đang phát triển, chi phí từ khu vực
công để giải quyết khủng hoảng đã lên đến 10% hoặc cao hơn so với GDP của các
quốc gia chịu khủng hoảng. Ở VN hiện nay, tuy chƣa xảy ra một cuộc khủng hoảng
ngân hàng chính thức nhƣng việc luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro đã khiến
HTNH nƣớc ta luôn ở trong trạng thái “không an toàn” và vấn đề tái cấu trúc toàn
bộ hệ thống đã trở nên rất đáng quan tâm.
Thứ hai, nếu chỉ căn cứ vào những chỉ số thị trƣờng truyền thống về tiền tệ
và những rủi ro mặc định, thƣờng sẽ không đƣa ra đƣợc nhiều tín hiệu báo trƣớc về
một cuộc khủng hoảng tiềm ẩn. Đặc biệt, việc dự báo những yếu kém ở từng ngân
hàng tại các nền kinh tế mới nổi cũng có những hạn chế do tính chất chƣa hoàn
thiện của các chuẩn mực kế toán và hệ thống báo cáo, việc phân loại các khoản nợ
xấu không chặt chẽ, các quy định không hợp lý về các khoản dự phòng tín dụng,
các hoạt động giám sát theo luật không đƣợc thực thi hiệu quả, thị trƣờng vốn
không có tính thanh khoản và phát triển thì sẽ rất khó khăn trong việc xác định giá
trị của ngân hàng nhằm tách biệt với giá trị theo sổ sách.
Thứ ba, mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng HTNH, nếu hoạt động tốt, sẽ
giúp Chính phủ đƣa ra đƣợc những chính sách kịp thời và đúng đắn, góp phần hạn
chế khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng.
Tóm lại, có thể thấy việc xây dựng một mô hình hoạt động hiệu quả trong
việc cảnh báo sớm khủng hoảng HTNH VN là vô cùng cần thiết.
1.1.4. Tác động của khủng hoảng hệ thống ngân hàng đến nền kinh tế:
Khi xảy ra khủng hoảng, HTNH sẽ bị tác động một cách trực tiếp và mạnh
10




mẽ nhất. Việc rút vốn ồn ạt khỏi hệ thống sẽ khiến cho khả năng thanh khoản của
các ngân hàng bị giảm sút, từ đó các ngân hàng sẽ phải gia tăng chi phí để áp ứng
nhu cầu thanh khoản. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng cũng sẽ bị gián đoạn và nợ
xấu tăng, lợi nhuận của các ngân hàng sẽ bị ảnh hƣởng nặng nề.
Bên cạnh đó, HTNH luôn đƣợc coi là “huyết mạch” của nền kinh tế nên
ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng HTNH chắc chắn sẽ tác động đến tăng trƣởng
của nền kinh tế quốc dân.
1.1.4.1. Tổng sản phẩm quốc dân:
Khủng hoảng HTNH sẽ gây tổn thất tới tổng sản phẩm quốc nội. Khi xảy
ra khủng hoảng, hoạt động của HTNH sẽ bị gián đoạn, trì trệ do phá sản, đóng cửa
hoặc sáp nhập. Từ đó, các ngân hàng sẽ thận trọng hơn trong việc ra quyết định cấp
tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế vì lo ngại rủi ro. Kết quả là, khu vực sản
xuất sẽ khó tiếp cận với nguồn vốn vay và không thể mở rộng sản xuất. Kết quả tất
yếu là GDP của quốc gia sẽ bị sụt giảm. Hậu khủng hoảng, sản lƣợng đầu ra của
quốc gia sẽ bị thiệt hại từ 2 đến 3 lần hoặc nhiều hơn nữa so với giai đoạn trƣớc
khủng hoảng và thời gian để phục hồi lại mức sản lƣợng trƣớc khủng hoảng cần ít
nhất 2 lần quãng thời gian xảy ra khủng hoảng.
2

1.1.4.2. Khu vực phi sản xuất của nền kinh tế:
Khi xảy ra khủng hoảng ngân hàng, khu vực phi sản xuất của nền kinh tế
cũng sẽ bị ảnh hƣởng nặng nề. Cụ thể là kinh doanh bất động sản và chứng khoán
sẽ phải chứng kiến một sự sụt giảm đáng kể trong đầu tƣ. Điều này cũng đƣợc giải
thích là do việc hạn chế cấp tín dụng của ngân hàng, đặc biệt là cho những ngành
có độ rủi ro cao nhƣ chứng khoán và bất động sản trong thời kỳ khủng hoảng.
1.1.4.3. Các chính sách kinh tế của chính phủ:
Khủng hoảng ngân hàng sẽ làm “chệch hƣớng” các chính sách kinh tế của
chính phủ. Khi khủng hoảng HTNH nổ ra, NHNN sẽ phải can thiệp nhƣ ngƣời cho
vay cuối cùng thông qua việc hỗ trợ vốn, mua lại các khoản nợ khó đòi của các


2
Theo nghiên cứu của Haugh, D.,P. Ollivaud & D.Turner (2009) về tác động của khủng hoảng ngân hàng đối
với các nƣớc OCED
11



ngân hàng, bảo hiểm cho các khoản tiền gửi để hạn chế việc rút tiền ồ ạt, hoặc bơm
tiền vào các ngân hàng có nguy cơ sụp đổ nhằm cứu các ngân hàng này trƣớc hiện
tƣợng rút tiền hàng loạt, ngăn chặn phản ứng dây chuyền, hạn chế tối đa những
thiệt hại của cuộc khủng hoảng. Tình huống này, buộc các NHNN phải áp dụng
chính sách tiền tệ nới lỏng mà mục tiêu không phải kích cầu. Nói cách khác mục
đích của chính sách tiền tệ, tài khóa đã bị “bóp méo”.
1.1.4.4. Tình trạng thất nghiệp và cơ cấu lao động của quốc gia:
Khủng hoảng ngân hàng làm tăng nguy cơ lạm phát, thất nghiệp và ảnh
hƣởng cơ cấu lao động của quốc gia. Nếu khủng hoảng xảy ra do việc rút vốn ồ ạt
của ngƣời gửi tiền thì HTNH sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt tiền trầm trọng. NHNN,
do đó sẽ có thể phải bơm tiền vào hệ thống để phục vụ và duy trì hoạt động của các
ngân hàng. Việc cung tiền tăng cao sẽ tạo áp lực gây ra lạm phát, giảm sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Từ đó, nền kinh tế cũng phải đối mặt với những hậu quả kế
tiếp nhƣ thất nghiệp, cơ cấu lao động quốc gia bị ảnh hƣởng.
1.1.5. Các phƣơng pháp dự báo sớm khủng hoảng hệ thống ngân hàng:
1.1.5.1. Phƣơng pháp cảnh báo sớm phi tham số:
Theo kinh nghiệm của Goldstein, Kaminsky và Reinhart (2000), việc xây
dựng hệ thống cảnh báo phải lƣu ý những điểm sau:
- Việc tìm kiếm các yếu tố hệ thống trong nguồn gốc gây nên khủng hoảng
có nghĩa là xem xét các cuộc khủng hoảng nổi bật gần đây và khái quát hóa. Nếu
không sẽ có nhiều rủi ro vì có quá nhiều lý do giải thích tiềm tàng để phân biệt giữa
các nhân tố quan trọng và nhân tố kém quan trọng hoặc các vấn đề đƣợc khái quát
hóa không nhất thiết đại diện cho các trƣờng hợp khác.

- Phải tập trung quan tâm đến khủng hoảng HTNH tƣơng tự nhƣ khủng
hoảng tiền tệ. Phần lớn các nghiên cứu hiện nay là về các chỉ số dự báo của khủng
hoảng tài chính liên quan đến khủng hoảng tiền tệ. Việc quyết định đƣa ra các chỉ
số dự báo khủng hoảng cần đƣợc điều chỉnh tƣơng tự nhƣ dạng phân tích định
lƣợng đối với khủng hoảng tiền tệ.
- Việc chọn ra tần suất số liệu phù hợp với mục đích của nghiên cứu. Cần
12



phải lựa chọn giữa tần suất hàng tháng, quý và năm.
- Thiết lập thứ tự hệ thống các chỉ số cảnh báo sớm. Một số nguyên nhân
khủng hoảng liên quan đến các thông tin không tƣơng xứng và sự rút vốn ồ ạt từ
ngân hàng làm căng thẳng khả năng thanh toán/không tƣơng xứng tiền tệ và các cú
sốc đã xui khiến các nhà đầu tƣ chạy theo tính thanh khoản và chất lƣợng đầu tƣ.
Một số nguyên nhân khác liên quan đến sự bất ổn định vốn có, các phong trào tăng
trƣởng tín dụng quá mức và khả năng tài chính không tốt trong thời kỳ mở rộng của
chu kỳ phát triển kinh tế. Một nguyên nhân khác của khủng hoảng là tình hình tự
do hoá tài chính quá sớm mà hệ thống giám sát ngân hàng còn yếu và khi mà có hệ
thống bảo lảnh tuyệt đối rộng lớn của chính phủ làm gia tăng rủi ro.
Về mặt phƣơng pháp luận cách tiếp cận tín hiệu để xây dựng một mô hình
EWS liên quan đến 5 bƣớc: (1) Xác định thời gian xảy ra các tình huống khung
hoảng, (2) Lựa chọn các chỉ số dự báo khủng hoảng, (3) Xác định các ngƣỡng giá
trị cho các chỉ số dự báo khủng hoảng, (4) Xây dựng các chỉ số tổng hợp và (5) Dự
báo khủng hoảng.
Trong các nghiên cứu về khủng hoảng ngân hàng, các nhà nghiên cứu
thƣờng sử dụng hai phƣơng pháp để xác định thời điểm xảy ra khủng hoảng
HTNH:
- Phƣơng pháp dựa trên các sự kiện đƣợc sử dụng phổ biến hơn. Phƣơng
pháp này dựa trên sự kết hợp các sự kiện để nhận định và xác định thời gian xảy ra

khủng hoảng ngân hàng. Những sự kiện này thƣờng bao gồm: Bắt buộc phải đóng
cửa, sáp nhập, hoặc sự can thiệp của chính phủ đối với hoạt động của các tổ chức
tài chính; Rút tiền ồ ạt khỏi HTNH; Mở rộng các chƣơng trình trợ giúp trên quy mô
lớn của chính phủ cho khu vực ngân hàng.
- Một phƣơng pháp khác là dùng các dùng các chỉ số số học nhƣ nợ xấu,
chi phí khắc phục ngân hàng theo các tiêu chuẩn đã đƣợc xác định. Các nghiên cứu
chƣa đạt đƣợc sự đồng thuận về mức chuẩn của ngững ngƣỡng này. Ví dụ, Sheng
(1996) dùng mức ngƣỡng 15% của NPLs để xác định khủng hoảng ngân hàng.
Ngƣợc lại, Demigru và Detragiache (1997) định nghĩa khủng hoảng ngân hàng dựa
13



trên các cơ sở tiêu chí tỷ lệ NPLs vƣợt quá 10% hoặc chi phí cứu trợ ở mức ít nhất
2% GDP.
Lựa chọn các chỉ số dự báo: Các chỉ số dự báo để dự đoán các cuộc khủng
hoảng thƣờng đƣợc chọn dựa trên các quan điểm kinh tế và sự sẵn có của số liệu.
Qua các nghiên cứu thực nghiệm, cho thấy các chỉ số này hầu hết là các chỉ số cơ
bản về vĩ mô nhƣ: Tài khoản vốn, tài khoản vãng lai, quan hệ quốc tế, tự do hoá tài
chính, các vấn đề khác về tài chính, tài khoá, thể chế/ cơ cấu và vấn đề chính trị…
Các chỉ số về dự trữ ngoại hối, tỷ giá thực, tăng trƣởng tín dụng, tín dụng cho khu
vực công, lạm phát trong nƣớc đƣợc đa số các nghiên cứu cho là những chỉ số hữu
ích trong dự báo khủng hoảng tiền tệ cũng nhƣ khủng hoảng HTNH.
Xác định các ngƣỡng giá trị cho các chỉ số dự báo khủng hoảng: Nghiên
cứu của Kamisky và Reinahart (1999) đã đƣa ra cách tiếp cận vấn đề này theo tín
hiệu, hay chính là phƣơng pháp phi tham số. Giả thiết cơ bản của cách tiếp cận tín
hiệu là nền kinh tế phản ứng khác nhau về sự kiện khủng hoảng tài chính nói chung
và khủng hoảng ngân hàng nói riêng. Một tín hiệu cảnh báo phát ra khi giá trị của
các chỉ số vƣợt ra khỏi những diễn biến bình thƣờng của nó. Một chỉ số đƣa ra một
tín hiệu và đƣợc gọi là tín hiệu tốt nếu khủng hoảng xảy ra sau đó trong một khoảng

thời gian hợp lý. Nếu sau một tín hiệu mà không có khủng hoảng trong một thời
gian nhất định, nó đƣợc gọi là tín hiệu sai, hoặc “nhiễu”. Các chỉ số tốt (xấu) là
những chỉ số có tỷ lệ thấp (cao) của hệ số nhiễu tín hiệu.
Cách tiếp cận theo tín hiệu tìm kiếm một ngƣỡng tối ƣu cho mỗi chỉ số để
tối đa hóa khả năng dự báo của chỉ số đó. Với cách tiếp cận theo tín hiệu, xác suất
của một cuộc khủng hoảng đƣợc xác định bằng bình quân gia quyền của các chỉ số
vƣợt quá mức ngƣỡng tối ƣu, trong khi tỷ trọng là khả năng dự báo trong quá khứ
của các chỉ số. Các giai đoạn của khả năng xảy ra khủng hoảng cao là những giai
đoạn mà nhiều chỉ số vƣợt qua mức ngƣỡng tối ƣu. Ví dụ, nếu 12 trong số 25 chỉ số
phát tín hiệu tại một nƣớc A, tức là các chỉ số này đã vƣợt đến mức ngƣỡng, ngƣợc
lại 18 chỉ số phát tín hiệu cho nƣớc B, chúng ta có thể kết luận rằng nƣớc B có
nhiều khả năng xảy ra khủng hoảng hơn nƣớc A (giả thiết rằng các chỉ số phát tín

×