Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

KIỂM ĐỊNH TÍNH HIỆU QUẢ DẠNG YẾU CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM (TRƯỜNG HỢP SGDCK TP HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 61 trang )

I

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
--------------------

NGUYỄN QUỐC THANH

KIỂM ĐỊNH TÍNH HIỆU QUẢ DẠNG YẾU CỦA
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
(TRƢỜNG HỢP SGDCK TP.HCM)

Chuyên ngành : Kinh tế tài chính ngân hàng
Mã số : 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học :

PGS TS NGUYỄN THỊ LIÊN HOA

TP.Hồ Chí Minh– Năm 2012


II

KIỂM ĐỊNH TÍNH HIỆU QUẢ CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHỐN VIỆT NAM : TRƢỜNG HỢP SỞ GIAO DỊCH
CHỨNG KHỐN TP.HCM

TĨM TẮT


I.

GIỚI THIỆU ....................................................................................... 2
1.1 Tính cấp thiết của đề tài của đề tài .......................................................... 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu................................................................................. 5
1.3 Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 5
1.4 Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 5

II.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY ....................... 7
2.1 Thị trường hiệu quả và lý thuyết bước ngẫu nhiên ................................... 7
2.1.1 Sự phát triển của lý thuyết thị trường hiệu quả ............................... 7
2.1.2 Các dạng thị trường hiệu quả .......................................................... 8
2.2 Thị trường hiệu quả dạng yếu ................................................................. 10
2.3 Bằng chứng thực nghiệp về thị trường hiệu quả dạng yếu ..................... 11
2.4 Sơ lược những tài liệu về thị trường hiệu quả dạng yếu ......................... 12
2.4.1 Bằng chứng về thị trường hiệu quả dạng yếu từ các thị trường
phát triển ........................................................................................ 12
2.4.2 Bằng chứng về thị trường hiệu quả dạng yếu từ những thị trường
mới nổi........................................................................................... 13
2.4.3 Những nghiên cứu trước đây về tính hiệu quả dạng yếu của
TTCK VN ..................................................................................... 15

III.

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................... 16
3.1.Các giả thuyết được kiểm định ............................................................... 16
3.2 Phương pháp thu thập dữ liệu ................................................................. 16
3.3 Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 18

3.3.1 Kiểm định tính phân phối chuẩn ................................................... 19
3.3.2 Kiểm định tự tương quan .............................................................. 20
3.3.3 Kiểm định chuỗi ............................................................................ 24


III

IV.

KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH .................................................................. 26
4.1 Kết quả và ý nghĩa của kiểm định ....................................................... 26
4.1.1 Kiểm định phân phối chuẩn ...................................... 26
4.1.2 Kiểm định đơn vị (Unit root test) ............................ 30
4.1.3 Kiểm định chuỗi ....................................................... 44
4.1.4 Kiểm định tự tương quan ......................................... 44
4.2 Nhận xét về kết quả nghiên cứu .......................................................... 50

Kết luận……………………………………………..………………………….51


IV

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tiếng Anh

Nghĩa tiếng Việt
Thị trường chứng khoán


TTCK
EMH

Efficient market hypothesis

Lý thuyết thị trường hiệu quả

WFE

Weak form efficiency

Hiệu quả dạng yếu

RWH

Random walk hypothesis

Lý thuyết bước ngẫu nhiên

RWM

Random walk model

Mơ hình bước ngẫu nhiên

OTC

Over the counter

Sàn chứng khoán phi tập trung


SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán

UBCKNN

Ủy ban chứng khoán Nhà Nước

TTLKCK

Trung tâm lưu ký chứng khoán

HoSE

Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM

TSSL

Tỷ suất sinh lợi


V

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG BÀI NGHIÊN CỨU
Bảng 1.1 : Thông tin về chỉ số VN index và 7 mã chứng khốn..................................... 6
Bảng 4.1 : Bảng thống kê mơ tả và dữ liệu TSSL theo ngày nghiên cứu trong bài ...... 27
Bảng 4.2 – Kết quả kiểm định cho đơn vị mã FPT ....................................................... 31
Bảng 4.3– Kết quả kiểm định cho đơn vị mã GMD ...................................................... 32
Bảng 4.4– Kết quả kiểm định cho đơn vị mã HAG ...................................................... 33

Bảng 4.5 – Kết quả kiểm định cho đơn vị mã REE....................................................... 34
Bảng 4.6 – Kết quả kiểm định cho đơn vị mã STB ....................................................... 35
Bảng 4.7 – Kết quả kiểm định cho đơn vị mã VIC ....................................................... 36
Bảng 4.8 – Kết quả kiểm định cho đơn vị mã VNM ..................................................... 37
Bảng 4.9 – Kết quả kiểm định cho đơn vị mã VN – Index ........................................... 38
Bảng 4.10 – Kiểm định phân phối chuẩn Kolmogorov – Smirnov ............................... 39
Bảng 4.11 – Kết quả kiểm định đoạn mạch................................................................... 44
Bảng 4.12 : Kết quả kiểm định hệ số AC của FPT và GMD ........................................ 45
Bảng 4.13 : Kết quả kiểm định hệ số AC của HAG và REE ........................................ 46
Bảng 4.14 : Kết quả kiểm định hệ số AC của STB và VIC .......................................... 47
Bảng 4.15 : Kết quả kiểm định hệ số AC của VNM và VN index................................ 48


VI

DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG BÀI NGHIÊN CỨU
Hình 4.1 – Biểu đồ mô tả phân phối của chuỗi dữ liệu FPT ......................................... 25
Hình 4.2 : Biểu đồ mơ tả phân phối của chuỗi dữ liệu mã VN index ........................... 28
Hình 4.3 – Biểu đồ mô tả phân phối của chuỗi dữ liệu mã STB .................................. 29
Hình 4.4 – Biểu đồ mô tả phân phối của chuỗi dữ liệu mã GMD ................................ 29
Hình 4.5 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã FPT ...................................................... 40
Hình 4.6 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã GMD .................................................... 40
Hình 4.7 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã HAG..................................................... 41
Hình 4.8 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã REE ...................................................... 41
Hình 4.9 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã STB ...................................................... 42
Hình 4.10 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã VIC .................................................... 42
Hình 4.11 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã VNM .................................................. 43
Hình 4.12 – Biểu đồ xác suất chuỗi dữ liệu mã VN index............................................ 43



VII

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu độc lập của tơi dưới sự hướng dẫn
của Cô Nguyễn Thị Liên Hoa. Các nội dung nghiên cứu và kết quảtrong đề tài này là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trìnhnào.

TP.HCM, ngày 23 tháng 11 năm 2012
Tác giả

Nguyển Quốc Thanh


1

TĨM TẮT
Luận văn này xem xét tính hiệu quả dạng yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam –
Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Những quan sát hàng ngày (daily series) được sử
dụng trong giai đoạn (2009-2011) cho chỉ số VN index và bảymã chứng khốnblue
chip có mức vốn hóa thị trường cao từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Nghiên cứu này sử
dụng phương pháp thống kê mô tả, kiểm định phân phối chuẩn, kiểm định đơn vị, kiểm
định tính tự tương quan, kiểm định chuỗi của lợi nhuận để việc xem xét để kiểm định
mức độ hiệu quả về mặt thơng tin của thị trường chứng khốn Việt Nam. Kết quả cho
thấy rằng, về dữ liệu hàng ngàycủa các mã chứng khốn nói trên và củaVN index có
dấu hiệu không tuân theo lý thuyết bước ngẫu nhiên. Nghiên cứu kết luận rằng thị
trường chứng khốn Việt Nam khơngđạt hiệu quả ở dạng yếu. Phát hiện này là phù
hợp với các nghiên cứu trước đây về hiệu quả dạng yếu ở Việt Nam.
Từ khóa : Thị trường hiệu quả dạng yếu



2
CHƢƠNG 1 : GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường vốn đóng một vai trị rất quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động
của nó như một định chế trung gian giữa những nơi thiếu và thừa vốn, đảm bảo vốn
được trung chuyển một cách hiệu quả. Hơn nữa nó cịn cung cấp tính thanh khoản cho
các khoản đầu tư và đảm bảo tối ưu cho việc phân bổ nguồn lực. Tuy nhiên tính hiệu
quả của thị trường vốn vẫn luôn là đề tài tranh cải giữa các học giả và các nhà đầu tư
trên thị trường. Lý thuyết tài chính chia thị trường hiệu quả ra làm ba loại : hiệu quả
hoạt động (operational market efficiency), hiệu quả phân bổ (allocational market
efficiency) và hiệu quả thông tin (informational market efficiency). Khái niệm tính
hiệu quả của thị trường về mặt hoạt động liên quan đến khả năng thị trường cung cấp
tính thanh khoản cũng như phí giao dịch thấp và điều hành tốt. Hiệu quả về mặt phân
bổ thì liên quan đến việc phân bổ nguồn lực sao cho hiệu quả nhất. Có nghĩa là thị
trường phân bổ được nguồn lực đến nơi khan hiếm, sao cho trên cơ sở nguồn lực có
được người ta tạo ra được giátrịlớn nhất hay tối ưu hóa nguồn lực sẵn có. Ví dụ như
giá chứng khốn sẽ điều chỉnh theo những rủi ro mà nó đang nắm giữ, rủi ro cao thì lợi
nhuận cũng cao tương ứng. Lý thuyết tài chính đặc biệt nhấn mạnh vào tính hiệu quả
về mặt thơng tin, mà bài luận văn nay đề cập. Nó mơ tả phần nào thơng tin có sẵn mà
những người tham gia thị trường có được trên thị trường vốn hiệu quả và cách sử lý
thơng tin đó.
Đối với các cơng ty niêm yết trên sàn chứng khoán, mục tiêu cuối cùng của họ
là tối đa giá trị cơng ty. Cịn đối với các nhà đầu tư thì mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa
lợi nhuận thu được từ cổ phiếu mà họ đầu tư. Cả hai đầu có quan hệ mật thiết với giá
trị cổ phiếu. Trong đó thơng tin lại có mức độ ảnh hưởng lớn tới giá trị cổ phiếu. Một
thông tin tốt sẽ làm giá cổ phiếu tăng, trái lại một thông tin xấu sẽ làm giá cổ phiếu
giảm. Hay nói cách khác thơng tin đóng một vai trị hết sức quan trọng trên TTCK.
Thơng tin là trung tâm để đánh giá mức độ hiệu quả của thị trường. Một thị trường
hiệu quả thì mọi thơng tin đều phản ánh đầy đủ vào trong giá của chứng khoán.



3
Lý thuyết quan trọng về hiệu quả thông tin đã được nhà khoa học Mỹ F.Fama
đề xuất năm 1970 có tên EMH (Efficient market hypothesis). Trong đó Fama cho rằng
giá của chứng khốn phản ánh đầy đủ thơng tin chứa đựng trong nó. Ơng chia lý thuyết
EMH ra làm ba loại dựa trên những thơng tin chứa đựng trong nó : Hiệu quả thông tin
ở mức độ yếu (Weak form efficiency – WFE), hiệu quả thông tin ở mức độ trung bình
(semi-strong form) và hiệu quả thơng tin ở mức độ mạnh (strong form). Ở dạng thứ
nhất, thị trường hiệu quả ở mức độ thấp được định nghĩa là giá chứng khốn phản ánh
đầy đủ thơng tin dạng yếu của chứng khốn (thơng tin trong q khứ), bao gồm các
mức giá trong quá khứ, khối lượng giao dịch, tỷ suất sinh lợi trong quá khứ….Tại thị
trường dạng yếu này, mức giá hiện tại đã phản ánh tất cả các thu nhập trong quá khứ
và mọi thông tin về cổ phiếu đó trên thị trường nên giả thuyết này có nghĩa là tỷ suất
sinh lợi của chứng khoán cũng như các thơng tin khác khơng có mối liên hệ với tương
lai. Nói cách khác nhà đầu tư khơng thể tìm kiếm thu nhập bất thường bằng những
thông tin tương tự của chúng trong quá khứ. Thị trường hiệu quả dạng này thường xuất
hiện ở các nước đang phát triển (thị trường mới nổi). Lý thuyết thị trường hiệu quả ở
mức độ trung bình thì cho rằng giá chứng khốn phản ảnh cả thông tin trong quá khứ
lẫn những thông tin công khai có sẵn trên thị trường. Thơng tin cơng khai có trên thị
trường như : giá cổ phiếu, tỷ suất sinh lời, khối lượng giao dịch…Giá của chứng khoán
sẽ điều chỉnh tức thời ngay sau khi thông tin được công bố. Khi thị trường hiệu quả đạt
ở mức độ trung bình, sẽ khơng cịn những thay đổi về giá có thể đốn được nữa. Điều
này có nghĩa là những nhà đầu tư khi ra quyết định dựa trên những thông tin mới sau
khi được công bố trên thị trường sẽ không thu được những khoản lợi nhuận bất thường
nào do mức giá hiện tại đã phản ảnh tất cả những thơng tin cơng khai đó. Thị trường
loại này thường xuất hiện ở các nước phát triển trên thế giới. Dạng cuối cùng của thị
trường hiệu quả là thị trường hiệu quả ở cấp độ mạnh. Ở thị trường này, giá cả chứng
khốn phản ánh đầy đủ thơng tin liên quan tới nó kể cả quá khứ lẫn hiện tại, từ cơng
khai đến nội bộ, thậm chí cả các thơng tin cá nhân cũng được phản ánh. Lý thuyết về
thị trường hiệu quả ờ cấp độ mạnh là sự tổng hợp của cả hai loại thị trường hiệu quả ở

cấp độ trung bình và thị trường hiệu quả ở cấp độ yếu. Trong một thị trường hiệu quả
thông tin ở cấp độ mạnh, thông tin đến với các nhà đầu tư là như nhau, họ cùng tốn
một mức chi phí như nhau để có được thơng tin đó và cùng chịu một mức độ rủi ro như


4
nhau. Sẽ khơng có nhà đầu tư nào được độc quyền tiếp cận được các thông tin liên
quan đến việc định giá hay dùng nó để kiếm các siêu lợi nhuận cho chính mình bời vì
thị trường phản ảnh thơng tin đến các nhà đầu tư rất nhanh từ thông tin cơng khai lẫn
thơng tin nội bộ. Do đó thị trường hiệu quả ở dạng mạnh đòi hỏi thị trường phải thu
thập đầy đủ các thông tin đến mức : Dù là một thông tin hiện đang nằm trong tay một
các nhân đơn lẻ cũng phản ánh đầy đủ trong giá chứng khoán, nghĩa là các nhà đầu tư
đầu nhận thức đầy đủ thông tin này. Lúc này các nhà đầu tư chủ động sẽ rất khó kiếm
lợi nhuận bất thường cho mình.
Trong những thập kỷ qua, phần lớn các bài kiểm định thực nghiệm được tiến
hành liên quan đến mối liên hệ của các lý thuyết RWH hoặc WFE đối với thị trường
chứng khoán ở cả hai dạngthị trường phát triển và thị trường mới nổi. Chúng tạo ra kết
quả khác nhau. Nghiên cứu sớm nhất (Ví dụ như Cowles 1960; Fama 1965) chứng
minh thị trường vốn đã phát triển tuân theo WFE. Ngược lại, các nghiên cứu gần đây
(ví dụ như Poterba và Summers 1986; Lo và Mackinlay 1988) báo cáo rằng lãi cổ
phiếu có thể dự đốn được. Cùng là cho các thị trường vốn mới nổi. Một số nghiên cứu
(ví dụ Barnes 1986; Moustafa 2004) cho rằng thị trường tuân theoWFE trong khi
những nghiên cứu khác (ví dụ như Gandhi 1980; Mobarek và Keasey 2000) đã bác bỏ
RWH và đưa các bằng chứng về khả năng dự báo lãi cổ phiếu. Tại thị trường chứng
khoán Việt Nam cũng có những nghiên cứu về hiệu quả dạng yếu của TTCK nhưng
kết quả cũng rất khác nhau. Nghiên cứu của Trương Đơng Lộc ( 2007) kiểm định tính
tương quan và kiểm định chuỗi đối với cổ phiếu niêm yết tại sàn Hà Nội đã đi đến kết
luận rằng thị trường không đạt hiệu quả ở cấp độ thấp. Nghiên cứu của Hồ Viết Tiến
(2006) kiểm định hệ số tương quan, kiểm định chuỗi và kiểm định phân phối chuẩn lợi
tức của các cổ phiếu trên sàn chứng khoán Việt Nam cũng đã kết luận thị trường không

hiệu quả ở cấp độ thấp. Nhung nghiên cứu của Lê Đạt Chí trường ĐHKT TP.HCM
(2006) thì kết luận rằng một số cổ phiếu tuân theo EMH ở dang yếu.
Do những phát hiện rất khác nhau đó đối với TTCK Việt Nam nên tác giả đã
chọn đề tài “ Kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của TTCK Việt Nam tại trung tâm giao
dịch chứng khoán TP.HCM” làm đề tài nghiên cứu. Lý thuyết thị trường hiệu quả sẽ
phần nào lý giải sự vận động bên trong TTCK. Vì vậy ngồi việc cung cấp thông tin về


5
sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam trong những năm qua, bài luận văn
còn kiểm định xem TTCK Viêt Nam có thực sự hiệu quả ở dạng yếu hay không và
đồng thời đưa ra nguyên nhân cũng nhưgiải pháp để TTCK Việt Nam thực sự hiệu
quả.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là kiểm định giả thuyết “ Thị trường hiệu quả” cấp độ yếu
cho thị trường chứng khoán Việt Nam tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Đề tài
bao gồm những mục tiêu cụ thể sau :
-

Dựa vào lý thuyết “Thị trường hiệu quả” và các phương pháp kiểm định
trong thống kê để tiến hành kiểm định giả thuyết xem thị trường chứng
khoán Việt Nam có đạt hiệu quả thơng tin ở mức độ thấp hay không ?

1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Thị trường chứng khốn Việt Nam có đạt hiệu quả về mặt công bố thông tin
hay không ? Và đạt hiệu quả dạng nào ?
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Không gian nghiên cứu
Để kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam, tác
giả sử dụng chỉ số VN index và 7 mã chứng khoán đang hoạt động trên Sở giao dịch

chứng khoán TP.HCM.
1.4.2 Thời gian nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu trong đề tài được thu thập từ Sở giao dịch chứng khoán
TP.HCM từ 02/01/2009 đến ngày 30/12/2011 của chỉ số VN index và 7 mã chứng
khoán khác nhau. 7 mã chứng khoán được chọn nghiên cứu trong đề tài bao gồm :
FPT, GMD, HAG, REE, STB, VIC, VNM. Tất cả đều là những blue chip, có mức vốn
hóa cao trên thị trường và lượng giao dịch ổn định nên giúp cho đề tài có giá trị nghiên
cứu cao hơn.


6
Bảng 1.1 : Thông tin về chỉ số VN index và 7 mã chứng khốn
STT

Mã giao
dịch

Tên cơng ty

1

FPT

Cơng ty CP FPT.

2

GMD

3


HAG

4

REE

5

STB

6

Công ty CP Đại lý liên hiệp
Vận chuyển.
Công ty CP Hồng Anh Gia
Lai.

Ngành
Phần mềm &
Dịch vụ máy
tính.
Giao thơng cơng
nghiệp .

Số quan sát
749
749

Bất động sản.


749

Công ty CP cơ điện lạnh.

Công nghiệp kỹ
thuật .

749

Ngân hàng.

749

VIC

NHTM CP Sài Gịn Thương
Tín.
Tập đồn VINGROUP

749

7

VNM

Cơng ty CP sữa Việt Nam

Bất động sản
Sản xuất thực

phẩm.

8

VN - Index

Chỉ số giá CK sàn HOSE

749
749


7
Chƣơng 2 : TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY
Khái niệm thị trường hiệu quả được đưa ra vào đầu kế kỷ trước bởi Bachelier
(1900), một nhà thống kê học người Pháp trong luận văn tiến sỹ của ông mang tựa “Lý
thuyết đầu cơ” (Theory of speculation). Trong đoạn mở đầu Bachelier đã viết “Quá
khứ, hiện tại thậm chí các sự kiện diễn ra trong tương lai sẽ phản ánh trong giá của thị
trường nhưng thường không thấy những thay đổi này có liên hệ rõ ràng với sự thay đổi
của giá”. Ơng kết luận rằng giá của hàng hóa được mơ tả là giao động ngẫu nhiên. Vì
thế các nhà đầu cơ sẽ không thể kiếm được lợi nhuận bất thường. Trường hợp này
được xem như là “trò chơi công bằng”(fair game) và được xem như là nền tảng của
học thuyết thị trường hiệu quả.
2.1 Thị trƣờng hiệu quả và lý thuyết bƣớc ngẫu nhiên
2.1.1 Sự phát triển của lý thuyết
Lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH) lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1900
bởi Bachelier trong luận văn tiến sĩ của ông mang tên “Lý thuyết đầu cơ” và kể từ đó
nó tiếp tục được hồn thiện. Trong những tác giả theo đuổi học thuyết EMH có
Kendall (1953) và Paul Samuelson (1965). Sau này các nhà kinh tế học đã tìm ra bằng
chứng liên quan đến EMH và đến năm 1960 lý thuyết bước ngẫu nhiên ra đời(RWH) –

giả thuyết nghiên cứu về mối liên hệ giữa giá quá khứ và giá tương lai của hàng hóa
(hay còn gọi là thị trường hiệu quả dạng yếu)
Sau những năm 1960, lý thuyết RWH tiếp tục mở rộng sang EMH với sự xuất
hiện của EMH dạng trung bình và dạng mạnh. Lý thuyết thị trường hiệu quả chính
thức được biết đến và khái niệm thị trường hiệu quả lần đầu tiên xuất hiện vào năm
1970 bởi Fama và nó có mối liên hệ mạnh mẽ với hiện tượng bước ngẫu nhiên mà
Samuelson đưa ra vào năm 1965. Samuelson cho rằng giá cả cạnh tranh phải thể hiện
được sự thay đổi về giá mang tính ngẫu nhiên và khơng thể tun đốn được xu
hướng. Có nghĩa là thị trường hiệu quả thơng tin, khi mà tại đó giá cả thay đổi khơng
thể dự đốn được cho dù kết hợp tất các kỳ vọng và thông tin của những người tham
gia thị trường.


8
Sau đó Fama đã đúc kết khái niệm về thị trường hiệu quả như sau “Một thị
trường được coi là hiệu quả khi giá cả luôn phản ánh đầy đủ thơng tin có sẵn”. Tuy
nhiên đi kèm với khái niêm thị trường hiệu quả ln có những điều kiện của nó như :
chi phí giao dịch nhỏ, thơng tin ln có sẵn trên thị trường…và điều này khó xảy ra
trong thực tế. Vì thế khái niệm thị trường hiệu quả đã tạo ra khơng ít tranh cãi trong
những nhà kinh tế học.
Jensen (1978) đã định nghĩa thị trường hiệu quả một cách chi tiết hơn “Một thị
trường hiệu quả là thị trường mà trong đó thơng tin được phản ánh trong mức giá cho
tới khi lợi ích biên của giao dịch khi có được thơng tin đó khơng thể vượt q chi phí
biên của việc khai thác thơng tin”
Khái niệm thị trường hiệu quả tiếp tục được mở rộng bằng khái niệm của Black
(1986): “Chúng ta có thể định nghĩa thị trường hiệu quả là thị trường mà ở đó, giá
nằm trong biên độ hai lần so với giá trị, tức là giá lớn hơn nửa giá trị và nhỏ hơn hai
lần giá trị. Nhân từ hai ở đây là theo chủ quan của tôi”.
Vào năm 1992, Malkiel đã đưa ra khái niệm toàn diện về thị trường hiệu quả
như sau : Một thị trường vốn được cho là hiệu quả nếu nó phản ánh đầy đủ và chính

xác tất cả các thơng tin có sẵn trong việc định giá chứng khốn. Có nghĩa là thị trường
hiệu quả về mặt thơng tin và khi đó nhà đầu tư khơng thể kiếm được lợi nhuận bất
thường từ việc có thơng tin đó.
Dựa trên các định nghĩa trên của thị trường hiệu quả, định nghĩa của Famađược
coi là phổ biến nhất được sử dụng trong các tài liệu tài chính để xác định thị
trườnghiệu quả. Phạm vi luận án này là chỉ tập trung vào hình thức hiệu quả thị trường
yếu.
2.1.2 Các dạng của thị trƣờng hiệu quả
Thị trƣờng hiệu quả ở mức độ thấp : Là thị trường mà giá chứng khốn phản
ánh đầy đủ thơng tin dạng yếu của chứng khốn (thơng tin trong q khứ), bao gồm
các mức giá trong quá khứ, tỷ suất sinh lợi trong quá khứ…. Tại thị trường dạng yếu
này, mức giá hiện tại đã phản ánh tất cả các thu nhập trong quá khứ và mọi thông tin


9
trên thị trường nên giả thuyết này có nghĩa là tỷ suất sinh lợi của chứng khốn cũng
như các thơng tin khác khơng có mối liên hệ với tương lai. Nói cách khác nhà đầu tư
khơng thể tìm kiếm thu nhập bất thường bằng những thông tin tương tự của chúng
trong quá khứ. Thị trường hiệu quả dạng này thường xuất hiện ở các nước đang phát
triển (thị trường mới nổi).
Thị trƣờng hiệu quả ở mức độ trung bình : Là thị trường mà giá chứng
khốn phản ảnh cả thơng tin trong quá khứ lẩn những thông tin công khai có sẵn trên
thị trường. Thơng tin cơng khai có trên thị trường như : giá cổ phiếu, tỷ suất sinh lời,
khối lượng giao dịch…Giá của chứng khoán sẽ điều chỉnh tức thời ngay sau khi thông
tin được công bố. Khi thị trường hiệu quả đạt ở mức độ trung bình, sẽ khơng cịn
những thay đổi về giá có thể đốn được nữa. Điều này có nghĩa là những nhà đầu tư
khi ra quyết định dựa trên những thông tin mới sau khi được công bố trên thị trường sẽ
không thu được những khoản lợi nhuận bất thường nào do mức giá hiện tại đã phản
ảnh tất cả những thông tin cơng khai đó. Thị trường loại này thường xuất hiện ở các
nước phát triển trên thế giới.

Thị trƣờng hiệu quả ở cấp độ mạnh : Ở thị trường này, giá cả chứng khốn
phản ánh đầy đủ thơng tin liên quan tới nó kể cả quá khứ lẫn hiện tại, từ cơng khai đến
nội bộ, thậm chí cả các thơng tin cá nhân cũng được phản ánh. Lý thuyết về thị trường
hiệu quả ở cấp độ mạnh là sự tổng hợp của cả hai loại thị trường hiệu quả ở cấp độ
trung bình và thị trường hiệu quả ở cấp độ yếu. Trong một thị trường hiệu quả thông
tin ở cấp độ mạnh, thông tin đến với các nhà đầu tư là như nhau, họ cùng tốn một mức
chi phí như nhau để có được thơng tin đó và cùng chịu một mức độ rủi ro như nhau. Sẽ
khơng có nhà đầu tư nào được độc quyền tiếp cận được các thơng tin liên quan đến
việc định giá hay dùng nó để kiếm các siêu lợi nhuận cho chính mình bởi vì thị trường
phản ảnh thơng tin đến các nhà đầu tư rất nhanh từ thông tin công khai lẫn thông tin
nội bộ. Do đó thị trường hiệu quả ở dạng mạnh đòi hỏi thị trường phải thu thập đầy đủ
các thông tin đến mức : Dù là một thông tin hiện đang nằm trong tay một cá nhân đơn
lẻ cũng phản ánh đầy đủ trong giá chứng khoán, nghĩa là các nhà đầu tư đều nhận thức
đầy đủ thông tin này. Lúc này các nhà đầu tư chủ động sẽ rất khó kiếm lợi nhuận bất
thường cho mình.


10
2.2 Thị trƣờng hiệu quả dạng yếu
Dựa trên định nghĩa về thị trường hiệu quả và thị trường hiệu quả dạng yếu,
Fama đã đề xuất ba mơ hình để kiểm định tính hiệu quả dạng yếu : Lợi nhuận mong
muốn hay mơ hình “trị chơi cơng bằng” (fair game), mơ hình trị chơi cơng bằng có
điều chỉnh (Sub-martingale) và mơ hình bước ngẫu nhiên (Random walk model). Mơ
hình đầu tiên dựa trên hành vi lợi nhuận trung bình của chứng khốn. Mơ hình này cho
rằng khi quan sát một mẫu lớn thì lợi nhuận mong muốn của chứng khốn bằng với lợi
nhuận thực tế của chứng khốn đó. Vì thế lợi nhuận phụ trội của chứng khốn bằng
khơng.
Trong mơ hình “Trị chơi cơng bằng có điều chỉnh” (Sub-martingale), lợi nhuận
kỳ vọng của cổ phiếu sẽ khác không. Sự khác nhau giữa hai mơ hình là do lợi nhuận
của chứng khốn sẽ gia tăng theo thời gian. Vì thế lợi nhuận sẽ lớn hơn do rủi ro liên

quan tới khoản đầu tư vốn. Điều đáng nói ở đây là, dù có sự thay đổi lợi nhuận kỳ
vọng trong tương lai, song mơ hình này vẫn thể hiện tính ngẫu nhiên trong thu nhập
của chứng khốn. Bởi vì mặc dù lợi nhuận kỳ vọng của chứng khốn có xu hướng tăng
lên theo thời gian hay lợi nhuận phụ trội sẽ lớn hơn khơng, song khơng ai đốn được là
tăng bao nhiêu.
Tăng giá là kết quả điều chỉnh của thị trường khi có thông tin mới xuất hiện
trên thị trường. Trong thị trường hiệu quả, mọi thông tin được công bố một cách ngẫu
nhiên, chúng ta khơng thể biết được khi nào có thơng tin mới và thơng tin đó là gì, bởi
vì tất cả các nhà đầu tư đều nhận thông tin như nhau. Chính vì đặc tính quan trọng này
trong thị trường hiệu quả nên mọi phương pháp dự báo giá cổ phiếu trong tương lai
đều khơng có tác dụng, ngoại trừ việc dự đoán rằng giá chứng khoán sẽ tăng trong
tương lai theo chuỗi thời gian.
Trong mơ hình bước ngẫu nhiên (Random walk model), giá của tài sản tài chính
có xu hướng theo bước ngẫu nhiên nếu sự thay đổi giá trong những lần kế tiếp là độc
lập và có cùng phân phối. Hai giả định trên đã tạo nên mơ hình bước ngẫu nhiêu. Tuy
nhiên trong thực tế giá cả trong tương lai thì khơng thể dự đốn được nếu dựa trên giá
của quá khứ.


11
Fama cũng chỉ ra rằng, mơ hình “Bước ngẫu nhiên” thực ra chính là sự mở rộng
của mơ hình “trị chơi cơng bằng”. Nếu mơ hình “trị chơi cơng bằng” nhằm nhấn
mạnh sự cân bằng của thị trường trong thu nhập của mỗi chứng khốn thì đối với mơ
hình này lại giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hình thành và chiều hướng chuyển biến
của khoản thu nhập đó. Chính vì vậy mà các phương pháp kiểm định của mơ hình
“Bước ngẫu nhiên” hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho lý thuyết EMH hơn các kiểm định trong
mơ hình “Trị chơi công bằng”.
2.3 Bằng chứng thực nghiệm về thị trƣờng hiệu quả dạng yếu
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu đầu tiên về lý thuyết WFE đều dựa trên lý
thuyết bước ngẫu nhiên RWH. Một nhóm các tham luận kiểm định tính hiệu quả yếu

của thị trường bằng cách xem xét thu nhập từ phân tích kỹ thuật. Alexander
(1961;1964) đã giới thiệu một chiến lượclinh hoạt trong kinh doanh chứng khoán gọi
là “Filter Rule”. Qui luật này cho rằng, sau khi sử dụng giữ liệu giá quá khứ của chứng
khoán, nhà đầu tư nên mua chứng khốn đó nếu giá của nó tăng y%, và giữ nó cho tới
khi nó giảm y% sau đó nhà đầu tư có thể bán khống. Nhà đầu tư chuyển từ vị thế mua
khi giá tăng y% sang phí thế bán. Những kiểm định sử dụng phương pháp này được
tiến hàng bởi Fama và Blume (1966). Họ sử dụng chiến lược kinh doanh linh hoạt
(filter rule) trong một khoản thời gian cố định và sau đó so sánh với chiến lược kinh
doanh thụ động (buy-and-hold strategy). Nếu lợi nhuận được tạo ra từ chiến lược kinh
doanh linh hoạt lớn hơn lợi nhuận được tạo ra từ chiến lược kinh doanh thụ động, thị
trường chứng khoán được xem như thực sự không hiệu quả. Tuy nhiên nếu trường hợp
ngược lại thì có thể được xem là bằng chứng mạnh cho giả thuyết thị trường hiệu quả
dạng yếu trong thị trường chứng khốn (Olowe, 1999). Mục đính của chiến lược kinh
doanh linh hoạt là cho phép nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận từ bất kỳ xu hướng có tính
hệ thống nào trong giao động của giá của chứng khốn theo thời gian. Vì thế,
Alexander (1961;1964) và Fama & Blume (1966) đã kết luận thực sự thị trường có dấu
hiệu về tính hiệu quả dạng thấp. Cho đến những thập niên cuối thế kỷ 20, nghiên cứu
của Fama & Blume (1966) được xem là những nghiên cứu hàng đầu về qui tắc kinh
doanh. Những khám phá của họ gây nên những hồi nghi về tính hiệu quả của trường
phái phân tích kỹ thuật.


12
Một nhóm nghiên cứu khác đã gắng kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị
trường chứng khoán bằng cách kiểm tra độ tương quan của lợi nhuận trong một chuỗi
thời gian. Nếu lý thuyết bước ngẫu nhiên là đúng thì hệ số tương quan được kỳ vọng sẽ
là khơng. Cowles and Jones (1937) đã so sánh tần suất của các dẫy số để kiểm định lý
thuyết bước ngẫu nhiên bằng cách sử dụng phương pháp kiểm định chuỗi (Runs test).
Trước đó trong bài nghiên cứu của Kendall ơng đã kết luận sự thay đổi của giá chứng
khoán gần như là độc lập bằng cách đo hệ số tự tương quan. Và các nghiên cứu của

Dimson và Massavian (1998), Osborne (1959), Fama (1965), Fama và Blume (1966)
cũng cho kết quả tương tự. Hơn nữa, Osborne (1959) lập luận rằng những thay đổi của
chuỗi giá làđộc lập vì quyết định của nhà đầu tư hoặc là mua hoặc bán cổ phiếu là độc
lập.Fama (1970) quan sát thấy rằng những thay đổi trong giá này có được chủ yếu là
do sự xuất hiện củathơng tin mới. Vì thơng tin là ngẫu nhiên trong xuất hiện, chuyển
động của giá chứng khoán cũng theo bước ngẫu nhiên.
2.4 Sơ lƣợc những tài liệu về thị trƣờng hiệu quả dạng yếu
Những bài nghiên cứu trước đây nhằm kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị
trường tập trung vào khả năng dự đoán từ lợi nhuận trong quá khứ. Tuy nhiên, nghiên
cứu của Fama (1991) đã mở rộng từ khả năng dự báo từ lợi nhuận trong quá khứ sang
dự báo lợi nhuận hợp lý từ những bài kiểm định chung và dự đoán dựa trên các yếu tố
như cổ tức trong quá khứ. Bài nghiên cứu sau đây mở rộng các bài kiểm định đã được
tiến hành để điều tra những căn cứ vững chắc của thị trường hiệu quả dạng yếu. Bài
nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng những bài kiểm định về thị trường hiệu quả
dạng yếu ở các nền kinh tế phát triển, các nền kinh tế mới nổi và ở thị trường chứng
khoán Việt Nam.
2.4.1 Bằng chứng từ thị trƣờng phát triển
Những nghiên cứu trước đây được thực hiện ở các quốc gia phát triển đều ủng
hộ lý thuyết WEF với những phát hiện ra hệ số tương quan thấp. Ví dụ bài nghiên cứu
của Kendall (1953) phân tích sự thay đổi giá chứng khoán theo tuần của 22 loại chứng
khoán ngành tiêu dùng của Mỹ và giá chứng khoán của ngàng cơng nghiệp Anh (18831934). Ơng ta kết luận rằng, giá của chứng khoán giao động ngẫu nhiên. Hơn nữa bài
nghiên cứu của Fama (1965) về hành vi chỉ số giá của 30 loại chứng khoán của DJIA
(Down Jones Industrial Average)trong khoản thời gian 1957-1962 sử dụng kiểm định


13
chuỗi, kiểm định tính tự tương quan và kỹ thuật lọc của Alexander. Ông ta phát hiện ra
rằng hệ số tương quan là rất nhỏ. Vì thế khơng thể tìm kiếm lợi nhuận bất thường từ
những chiến lược kinh doanh. Fama kết luật rằng DJIA đạt hiệu quả ở dạng yếu. Một
bài nghiên cứu khác kiểm định tính ngẫu nhiên của giá chứng khoán được thực hiện

bởi Solnik (1973) bằng cách sử dụng 234 mẫu chứng khoán của 8 thị trường chứng
khoán lớn của Châu Âu từ 1966-1971. Tác giả đã kiểm định hệ số tương quan theo
ngày, tuần, hai tuần, tháng về những thay đổi của lợi nhuận và đã tìm thấy những dấu
hiệu nhỏ của tính ngẫu nhiên mà các nhà đầu tư khơng thể sử dụng nó để dự đoán giá.
Hơn nữa, Hagerman và Richmond (1973) trong nghiên cứu của minh đã chọn
ngẫu nhiên 253 mã chứng khoán trên sàn OTC của Mỹ tử năm 1963-1967. Tác giả
cũng đã kết luận thị trường có dấu hiệu tuân theo qui luật bước ngẫu nhiên. Thêm vào
đó một loạt các kiểm định cũng khẳng định thị trường tuân theo qui luật bước nhiên
như : Cowles (1960), Cootner (1962), Mandelbrot (1966), Fama và Blume (1966),
Sharp (1966), Fisher (1966), Williamson (1972).
Trái lại, một vài nghiên cứu thực nghiệm gần đây ở thị trường vốn các nước
phát triển đã phủ định lý thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu và giá chứng khốn có
thể dự đốn ở một số lĩnh vực. Ví dụ, nghiên cứu của Lo và Mackinlay (1988) kiểm
định lý thuyết bước ngẫu nhiên bằng cách sử dụng kiểm định phương saithay đổi
(Variance ratio test) của lợi nhuận hàng tuần của chứng khoán ở Mỹ trong giai đoạn từ
1962-1985. Kết quả kiểm định đã hoàn toàn bác bỏ lý thuyết bước ngẩu nhiên. Các
kiểm định khác cùng phương pháp cũng cho kết quả tương tự như Cochrane (1988)
kiểm định GNP. Ở các thị trường phát triển khác như : Nhật, Hongkong, Úc hay
Singapore kết quả kiểm định với cùng phương pháp nêu trên đều cho là thị trường đạt
hiệu quả ở dạng thấp.
2.4.2 Bằng chứng từ những thị trƣờng mới nổi
Hầu hết các nghiên cứu gần đây đều cho rằng những khám phá về tính hiệu quả
dạng yếu của thị trường phát triển cũng như mới nổi để lại nhiều tranh cãi. Bởi vì giao
dịch khơng thường xun cũng như khơng có những cơng cụ hỗ trợ nhiều đã làm cho
thị trường chứng khoán mới nổi kém hiệu quả hơn. Havey (1995) cho rằng khả năng
dự đoán lợi nhuận cao hơn đã làm cho thị trường chứng khoán mới nổi kếm hiệu quả
hơn thị trường chứng khoán đã phát triển. Tuy nhiên điều đó khơng phải ln ln


14

đúng khi mà những nghiên cứu thực nghiệm gần đây cho thấy giá trị của lý thuyết
bước ngẫu nhiên ở một số thị trường mới nổi.
Trước tiên là nghiên cứu của Barnes (1986) kiểm định hệ số tương quan và
kiểm định chuỗi trên thị trướng chứng khoán Kuala Lumpur Exchange (KLSE) bằng
cách sử dụng những quan sát hằng ngày 30 mã chứng khoán khác nhau ở 6 lĩnh vực
khác nhau trong khoảng thời gian từ 1974-1980. Kết quả là tác giả kết luận thị trường
chứng khoán KLSE đạt hiệu quả dạng yếu. Một nghiên cứu khác của Buguk và
Brorsen (2003) trên thị trường chứng khoán Istabul (ISE). Tác giả đã sử dụng giá hàng
ngày từ 1992-1999 của các công ty lớn trên sàn chứng khoán ISE. Kết quả là thị
trường chứng khoán ISE đạt hiệu quả ở dạng yếu. Thêm vào đó, bài nghiên cứu của
Islam và Khaled (2005) sử dụng giá hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng trong thời
gian 1990-2001 để kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị trường chứng khoán
Dhaka (DSE). Từ kết quả của nghiên cứu, tác giả đã kết luận thị trường chứng khoán
DSE đạt hiệu quả dạng yếu. Các kết quả nghiên cứu khác cũng cho cùng một kết quả
là : Nghiên cứu của Olowe (1999) trên thị trường chứng khoán Nigeria, nghiên cứu của
Panas (1990) trên thị trường chứng khoán Athen và bài nghiên cứu của tác giả Liu trên
thị trường chứng khoán trung Quốc (1997).
Trong những bài nghiên cứu khác ở thị trường chứng khoán mới nổi đã chứng
tỏ giá chứng khốn là có thể dự báo được. Bài nghiên cứu của Mubarek và Keasey
(2000) kiểm định tính hiệu quả ở dạng yếu của thị trường chứng khoán Dhaka DSE
kiểm định những tương quan phi tuyến tính khác nhau. Dữ liệu được lấy từ năm 19881997. Kết quả là thị trường chứng khốn DSE khơng tn theo qui luật bước ngẫu
nhiên. Nghiên cứu của Ahmet và Hasan (2011) trên thị trường chứng khốn Istanbul
cho chỉ số cơng nghiệp và kỹ thuật (Industrial index và technology index), sử dụng
những quan sát hằng ngày trên TTCK ISE từ năm 1987-2011. Ahmet và Hasan đã
kiểm định lý thuyết bước ngẫu nhiên thông qua những kiểm định tham số và phí tham
số. Trong đó có kiểm định ADF, kiểm định hệ số tương quan, kiểm định chuỗi. Kết
quả cho thấy TTCK ISE không đạt hiệu quả dạng yếu. Hơn nữa, bài nghiên cứu của
Poshakwale (2002) kiểm định tương quan tuyến tính độc lập cho 100 mã chứng khoán
khác nhau trong thời gian từ 1990-1998 trên thị trường chứng khoán Bombay (BSM).



15
Tác giả đã kết luận rằng thị trường không hiệu quả dạng yếu. Các kết quả nghiên cứu
khác cũng cho kết quả tương tự như : Nghiên cứu của tác giả Lee trên thị trường chứng
khoán Trung Quốc, bài nghiên cứu đã phủ định tính hiệu quả dạng yếu của thị trường
chứng khốn Trung Quốc. Thêm vào đó, các bài nghiên cứu của Worthington và Higgs
(2005) kiểm định tính hiệu quả dạng yếu trên 10 thị trường chứng khoán mới nổi ở
Châu Á như : Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Pakistan,
Philipine, Sri Lanka, Đài Loan và Thái Lan. Bài nghiên cứu đã thực hiện kiểm định
tham số và phi tham số. Kết quả bài nghiên cứu kết luận rằng hầu hết các thị trường
chứng khoán mới nổi ở Châu Á đều không đạt hiệu quả dạng yếu. Các bài nghiên cứu
khác cho cùng một kết quả như : Bài nghiên cứu của Vosvrda trên thị trường chứng
khoán Prague (1998), Nghiên cứu của Abrosimove (2002) trên thị trường chứng khoán
Nga, Laurence (1997) trên thị trường chứng khoán Trung Quốc…
2.4.3 Những nghiên cứu trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
Nghiên cứu của Thái Long (2004) về chỉ số chứng khoán VN index trên sở giao
dịch chứng khoán TP.HCM từ năm 2001-200. Tác giả sử dụng phương pháp ARIMA.
Kết quả nghiện cứu đã đi đến kết luận rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đạt hiệu
quả dạng yếu. Nghiên cứu của tác giả Hồ Việt Tiến (2006) trên sở giao dịch chứng
khoán TP.HCM, tác giả đã kiểm định hệ số tương quan, tự tương quan, kiểm định tính
phân phối chuẩn của lợi tức của các cổ phiếu. kết quả nghiên cứu cho thấy thị trường
đã không đạt hiệu quả dạng yếu. Nghiên cứu của tác giả Lê Đạt Chí (2006), kiểm định
tính tự tương chỉ số lợi tức của 10 mã chứng khoán Blue chip trên thị trường từ năm
2005-2006. Kết quả một số tuân theo đạt hiệu quả dạng yếu, một số khác thì khơng đạt
hiệu quả. Cuối cùng là nghiên cứu của Trương Đông Lộc (2007) trên sàn giao dịch Hà
Nội. Tác giả đã kiểm định tính tự tương quan và kiểm định chuỗi chỉ số giá HaSTC,
GHA và VNR. Kết quả nghiên cứu cho thấy Trung Tâm giao dịch chứng khốn Hà
Nội khơng đạt hiệu quả dang yếu.



16
Chƣơng 3 : PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phần này tác giả sẽ giới thiệu những giả thuyết có thể được kiểm định và dữ
liệu thu thập để kiểm định giả thuyết đó.
3.1.Các giả thuyết đƣợc kiểm định
Phần này tác giả sẽ sử dụng 4 giả thuyết thống kê để kiểm định xem liệu thị
trường chứng khốn VN có đạt hiệu quả dạng yếu về mặt thông tin hay không
- Kiểm định phân phối chuẩn
- Kiểm định tính dừng
- Kiểm định hệ số tương quan
- Kiểm định chuỗi
3.2.Phƣơng pháp thu thập số liệu.
Số liệu thu thập gồm chỉ số giá thị trường VN-Index và giá của 7 mã chứng
khốn blue chip có giá trị vốn hóa cao trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
-Số quan sát : 749 quan sát.
- Thời đoạn quan sát : từ ngày 7/1/2009 đến 28 /12/2011.
- Đối tượng nghiên cứu : 7 mã chứng khoán và chỉ số VN index được lấy theo
thời đoạn trên.Thống kê như sau :
STT MÃ CK

Tên công ty
Công ty cổ phần FPT

Ngành

1

FPT

2


GMD

3

HAG

4

REE

5

STB

6

VIC

Tập Đồn VINGROUP

Bất động sản

7

VNM

Cơng ty cổ phần Sữa Việt Nam

Sản xuất thực phẩm


Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp Vận
chuyển
Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp Vận
chuyển
Công ty cổ phần cơ điện lạnh
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gịn Thương Tín

Phần mềm và dịch vụ máy tính
Giao thơng công nghiệp
Bất động sản
Công nghiệp kỹ thuật
Ngân hàng

Trong bài này số liệu sẽ được lấy theo ngày, nếu ngày lấy dữ liệu khơng
có dữ liệu thì lấy ngày trước


17
Các số liệu trên chủ yếu được thu thập qua internet,trong đó dữ liệu chính về giá
cổ phiếu và chỉ số thị trường sẽ được lấy từ trang web tài chính khá phổ biến hiện nay
là www.vinabull.com.Ngồi ra,bài nghiên cứu cịn tham khảo thơng tin từ một số
trang web khác,các loại sách báo và các tài liệu nghiên cứu từ một số tạp chí chuyên
ngành.
 Phân tích số liệu.
Số liệu sau khi được thu thập sẽ được tổng hợp,sử dụng các phương pháp kiểm
định trong thống kê để cho ra kết quả và xử lý thành các bảng biểu.
Cụ thể,từ chỉ số thị trường và giá của cổ phiếu sẽ được dùng để tính lợi nhuận
theo ngày của VN index và 7 mã cổ phiếu.Lợi nhuận cổ phiếu chính là các quan sát

cần thiết cho bài nghiên cứu để thực hiện các phương pháp kiểm định thống kê được
tính tốn dựa theo công thức sau :

r = log ( Pt + 1 / P t )
Trong đó : r : lợi nhuận theo ngày
Pt + 1 : giá cổ phiếu ở thời điểm t + 1
Pt : giá cổ phiếu ở thời điểm t
Trong nghiên cứu này,giả thuyết mà chúng ta cần kiểm định là tính hiệu quả về
thơng tin dạng yếu trong hoạt động của TTCK Việt Nam.Một thị trường có hiệu quả về
thơng tin khi giá cổ phiếu nó phản ánh đầy đủ và tức thời tất cả mọi thông tin liên quan
đến cổ phiếu.Nghĩa là giá cổ phiếu là biểu hiện của thông tin và sự thay đổi của nó là
do sự xuất hiện của các thơng tin tác động.Mà thông tin là ngẫu nhiên,chúng ta không
thể biết trước được.Vì vậy, giá cổ phiếu nó cũng sẽ thay đổi một cách ngẫu nhiên theo
thơng tin.Hay nói khác hơn,trong một thị trường được xem là hiệu quả thông tin khi
giá cổ phiếu phải biến đổi một cách ngẫu nhiên,không theo một xu hướng nào và các
nhà đầu tư khơng thể dự đốn trước được. Đó cũng chính là đặc tính của thị trường
hiệu quả dạng yếu.


18
Chính vì đặc tính của thị trường hiệu quả là như vậy nên hai phương pháp kiểm
định được cung cấp trong bài là phương pháp kiểm định tự tương quan
(Autocorrelation test) vàkiểm định chuỗi (Runs Test).
Kiểm định chuỗi là phương pháp kiểm tra tính ngẫu nhiên của dãy số theo thời
gian, ở đây chính là chuỗi lợi nhuận của cổ phiếu. Còn kiểm định tự tương quan là
kiểm tra sự tương quan về thu nhập của các cổ phiếu và chỉ số VN index theo ngày. Cả
2 phương pháp đều có tác dụng kiểm tra tính ngẫu nhiên trong chuỗi lợi nhuận của cổ
phiếu trên thị trường, từ đó cung cấp các cơ sở để chứng minh cho việc chấp nhận hay
bác bỏ giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu của TTCK Việt Nam. Sau đây chúng ta
tìm hiểu về 2 phương pháp kiểm định trên.

3.3 Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn này trình bày cách kiểm định sự phụ thuộc tuyến tính của thị trường
hiệu quả dạng yếu. Mơ hình tuyết tính phân tích mối quan hệ giữa các biến và hằng số.
Đồ thị hàng tuyến tính được miêu tả bằng đường thẳng nối các biến với nhau. Nó được
miêu tả bởi công thức sau :
....

(3.1)

Với Y là biến độc lập, α là hằng số, còn X là biến độc lập
Kiểm định tính độc lập tuyết tính của thị trường hiệu quả dạng yếu được chia ra
làm 2 loại. Kiểm định tham số và kiểm định phi tham số. Trước đây người ta cho rằng
tất cả số liệu chứng khốn đều có phân phối chuẩn nhưng sau đó khơng cịn những giả
định như trên nữa vì thế họ gọi là kiểm định phân phối không chuẩn. Kiểm định tham
số bao gồm kiểm định tính tự tương quan (autocorrelation) và kiểm định đơn vị (unit
root test). Trong khi kiểm định phi tham số bao gồm kiểm định chuỗi (Runs test) và
kiểm định phương sai (Variance ratio test).
Kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của TTCK chủ yếu tập trung vào sự phân
phối ngẫu nhiên của lợi nhuận trong một chuỗi thời gian. Nếu lợi nhuận có phân phối


×