Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Chiều sâu lịch sử của hiến pháp việt nam năm 1946 (môn học lịch sử tổ chức các cơ quan nhà nước)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.83 KB, 10 trang )

Chiều sâu lịch sử của Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân tộc và dân chủ
1. Hiến pháp năm 1946 là kết quả rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám và giá trị
bền vững của Đạo luật cơ bản đầu tiên này là nằm trong bề sâu lịch sử sản sinh ra nó.
Vào năm 1957, lần đầu tiên về thăm quê (Nam Đàn, Nghệ An) sau 52 năm xa cách,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Từ lúc tôi ra đi và bây giờ trở lại, thấy nước ta nói chung,
tỉnh ta nói riêng, có thay đổi rất nhiều. Thay đổi quan trọng nhất là lúc tôi ra đi, nước
ta đang bị thực dân cai trị, đồng bào ta đều là những người nô lệ, bây giờ trở về thì
đồng bào miền Bắc nước ta nói chung, Nghệ An nói riêng là những công dân tự do,
làm chủ nước nhà. Đó là thay đổi to lớn nhất”(1).
Để có sự thay đổi to lớn đó, cách mạng Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam được
thức tỉnh và hướng dẫn trước hết từ cái tên Nguyễn Ái Quốc, ngay từ những thập kỷ
đầu của thế kỷ XX, khi Người còn hoạt động ở nước ngoài.
Thời gian ở Mỹ, khoảng cuối năm 1912 đến cuối năm 1913, Nguyễn Ái Quốc
đã ở Bruc - lin, đến thăm khu Hác - lem nơi sinh sống của người da đen, chiêm
ngưỡng tượng thần Tự do… Người đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của
nước Mỹ - giá trị tinh thần bất hủ của Cách mạng Mỹ, trong đó đề cập đến “quyền
bình đẳng”, “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của con người,
quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ, “hễ chính phủ nào có hại cho dân chúng thì
phải đập đổ chính phủ đó đi và lập nên chính phủ khác”(2).
1
Trong thời gian hoạt động tại Pháp, Người đã sống chan hòa với công nhân và
nhân dân lao động Pháp, gặp gỡ, tiếp xúc và cộng tác với những người anh em một số
nước thuộc địa. Người cũng đã bắt gặp những tư tưởng mới mẻ của Cách mạng tư sản
Pháp năm 1789, đặc biệt là những tư tưởng của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền. Chính cuộc khảo nghiệm lịch sử đó đã mang đến cho Nguyễn Ái Quốc những
nhận thức mới mẻ, gợi mở những tư tưởng có tính lý luận của khoa học chính trị,
chuẩn bị cho sự hình thành con đường cách mạng giải phóng dân tộc mà Nguyễn Ái
Quốc đang tìm kiếm.
Không thỏa mãn với con đường cách mạng tư sản, Người đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. Đây là bước ngoặt cơ bản trong quá trình tìm đường cứu nước của Hồ
Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước - độc lập dân tộc đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội;


giác ngộ về dân tộc đã phát triển và kết hợp với giác ngộ giai cấp; cách mạng giải
phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa; kết hợp sức mạnh của dân tộc
với quốc tế, dân tộc với thời đại, từng bước đưa Việt Nam đi vào dòng tiến hóa chung
của nhân loại. Bước ngoặt đó đánh dấu sự định hình và khẳng định bản chất cách
mạng, nhân văn và khoa học của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, cũng như sự vận
dụng đúng đắn, sáng tạo ngay từ đầu chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam.
Nhờ vậy, trong bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX, giữa rất nhiều học thuyết khác
nhau; đúng sai, tiến bộ và lỗi thời đan xen nhau; trong khi nhiều nhà cách mạng và yêu
nước chưa phát hiện được đâu là quy luật, là chân lý thì chính Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh đã tìm ra được mục tiêu, lý tưởng cách mạng đúng đắn và con đường để đi
2
đến mục tiêu ấy, thực hiện lý tưởng ấy. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
tiêu biểu cao nhất cho ý chí độc lập dân tộc. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, “Chủ tịch Hồ Chí Minh trọn đời vẫn là người yêu nước, là Nguyễn Ái
Quốc” (3).
Cái tên Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên tại Pháp, đó là bút danh được sử
dụng ký dưới Bản yêu sách của dân An Nam gửi Hội nghị Versailles năm 1919 và mãi
mãi đi vào lịch sử. Tranh thủ diễn đàn của các cường quốc tự cho là có sứ mạng “đấu
tranh cho nền văn minh chống chế độ dã man” như lời tổng thống Mỹ Willson lúc ấy
tuyên bố, “Trong khi chờ đợi quyền dân tộc tự quyết được được công nhận thực sự cho
Việt Nam”, Nguyễn Ái Quốc đề đạt 8 yêu sách cấp bách. Ngoài các quyền tự do, dân
chủ và quyền tự do con người, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “ Thay chế độ sắc lệnh
bằng chế độ luật” để cai trị xứ Đông Dương và “phải có đại biểu thường trực của
người Việt Nam do người bản sứ bầu ra ở bên cạnh Nghị viện Pháp để trình bày
nguyện vọng của người bản sứ”.
Bản yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam được xem là tư tưởng sớm nhất đề
cập đến các đòi hỏi tự do, dân chủ của người dân thuộc địa, yêu cầu một chế độ cai trị
văn minh - cai trị bằng luật pháp.
Tư tưởng về một chế độ theo hiến định càng rõ nét hơn khi Nguyễn Ái Quốc đã
dịch lời của bản yêu sách đó thành bài diễn ca Việt Nam yêu cầu ca năm 1922, trong

đó có câu ca nổi tiếng:
3
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
Tư tưởng chính trị - pháp quyền lần đầu tiên được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa
vào nội dung cách mạng dân chủ ngay trong khuôn khổ chế độ thực dân. Đó là một tư
tưởng hoàn toàn mới. Cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong ngôn ngữ chính
trị Việt Nam chưa có khái niệm “Hiến pháp”, “chế độ luật” hay “lập hiến”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nguyễn Ái Quốc, đường lối cách mạng đúng
đắn, sáng tạo, độc lập tự chủ ngày càng được bổ sung và hoàn chỉnh. Từ trong thực
tiễn cách mạng đó, những tiền đề của một thể chế chính trị dân chủ và cách thức tổ
chức chính quyền của dân, do dân và vì dân đã xuất hiện ngày càng rõ nét:
- Chính quyền Xô viết công nông ra đời năm 1930 - 1931 ở Nghệ - Tĩnh.
- Chính phủ Việt Minh (Mặt trận Việt Minh thành lập năm 1941).
- Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau Cách mạng
Tháng Tám.
Đó chính là các dạng tiền thân của thể chế chính trị dân chủ sẽ chính thức ra đời
và được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946 - thành quả trực tiếp của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
2. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3-9-1945, chỉ một
ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ nói: “Sau 80 năm bị áp bức, bóc lột
4
và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen
với kỹ thuật hành chính nhưng điều đó không làm chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm
vừa học. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa khuyết
điểm. Với lòng yêu nước và yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công”
(4).
Bác cho rằng một trong những cơ sở cần có đầu tiên của một nhà nước là hiến
pháp và muốn có hiến pháp thì phải có quốc hội. Vì vậy, mặc dù tình hình đất nước
đang vô cùng khó khăn nhưng trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa, Bác vẫn đề ra nhiệm vụ là phải tổ chức một cuộc tổng tuyển cử càng
sớm càng tốt. Bác nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi
đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp.
Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp
dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay một cuộc tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái, 18 tuổi đều có quyền ứng cử
và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v…” (5).
Ngày 8-9-1945, đúng một tuần sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh số 14, quyết định tổ chức tổng tuyển cử trên phạm vi toàn quốc. Với
sự kiện trọng đại này, dân tộc Việt Nam sau khi là dân tộc đầu tiên ở Đông Nam Á làm
cuộc giải phóng dân tộc thành công, trở thành dân tộc đầu tiên thiết lập được Nhà
mước có thể chế chính trị với hình thức dân chủ cao nhất là phổ thông đầu phiếu.
Ngày 31-12-1945, Bác viết bài đăng trên báo Cứu quốc số 130:
5
“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn người có tài, có
đức để gánh vác công việc nước Nhà.
Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền đi
bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là
công dân Việt Nam thì đều có 2 quyền đó.
Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội cử ra Chính phủ.
Chính phủ đó thực ra là Chính phủ của toàn dân” (6).
Ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử thắng lợi. Ngày 9-11-1946, tại kỳ họp thứ
hai Quốc hội khóa I đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà với 240 đại biểu tán thành trên 242 đại biểu (có 2 đại biểu không tán thành).
Vậy là, qua một chặng đường dài sau gần 3 thập kỷ kể từ Bản yêu sách của dân
An Nam (năm 1919) gửi hội nghị Versailles đến năm l946, tư tưởng về nhà nước pháp
quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thực hiện. Hiến pháp ra đời đặt nền tảng cho
quốc gia đi vào xây dựng một thể chế chính trị dân chủ được thiết lập vững chắc, với
đầy đủ các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp, đoạn tuyệt với chế độ chính trị
thực dân và quân chủ phong kiến.

Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Hiến pháp năm 1946 đã long trọng ghi nhận tại Điều 1: “Nước Việt Nam là một
Nhà nước dân chủ. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
6
Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ
bản được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 mà còn gắn liền với việc thiết lập cơ chế
bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, là tư tưởng chỉ đạo bao quát toàn
bộ nội dung Hiến pháp, được thể hiện cụ thể trong các quy định về nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của bộ máy chính phủ từ Trung ương đến địa phương.
Hiến pháp đã dành một chương - Chương II, để quy định các quyền và nghĩa vụ
công dân và đã dành cho Chương này 18 điều trong số 70 điều của Hiến pháp để quy
định các quyền tự do, dân chủ của công dân, thể hiện bản chất thực sự dân chủ và là
một nền dân chủ rộng rãi của thể chế chính trị mới. Hiến pháp ghi: “Tất cả công dân
Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá” (Điều 6);
“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính
quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7); “Đàn
bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
- Về kinh tế: Nguyên tắc dân chủ cho toàn dân được ứng dụng trong Điều 12:
Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm. Đồng thời Hiến pháp bảo
đảm quyền lợi các giới lao động trí thức và chân tay (Điều 13).
Đồng thời với Hiến pháp, cuối năm 1946, Quốc hội đã thông qua những nguyên
tắc của Luật Lao động, hạn chế lao động làm việc tối đa 8 giờ một ngày, nghỉ hằng
tuần, nghỉ hằng năm, tự do bãi công Chính phủ lâm thời đã bãi bỏ các luật lệ hạn chế
kinh doanh của Nhật - Pháp, quan tâm đến quyền lợi của quần chúng lao động. Đó là
khuynh hướng xã hội của thể chế dân chủ mới ở Việt Nam.
7
- Về văn hoá, Hiến pháp ghi: Nền sơ học cưỡng bách và không học phí, trường
tư thục mở rộng tự do. Trước khi có Hiến pháp, Chính phủ đã tổ chức bình dân học vụ
để xoá nạn mù chữ. Đáng chú ý, Điều 16: “Những người ngoại quốc đấu tranh cho dân

chủ, tự do thì được trú ngụ trên đất Việt Nam”, theo xu hướng tiến bộ của thế giới.
Bộ máy nhà nước dân chủ
Giữa chế độ phân quyền và chế độ tập quyền, thì Hiến pháp năm 1946 dứt
khoát không theo thuyết “tam quyền phân lập” của phương Tây.
- Nghị viện nhân dân, theo Điều 22, Điều 23 “giải quyết mọi vấn đề chung cho
toàn quốc”; và là cơ quan có quyền lực cao nhất. Nghị viện đặt ra luật, tức là nắm trọn
quyền lập pháp. Nhưng về hành pháp chỉ quyết định mấy vấn đề đặc biệt lớn (biểu
quyết ngân sách, chuẩn y hiệp ước). Ngoài ra, giao hết cho Chính phủ hành động dưới
quyền kiểm soát thường xuyên của mình. Nghị viện cử ra Ban Thường vụ để thi hành
sự kiểm soát đó. Đồng thời, quyết những dự án, sắc lệnh của Chính phủ rồi trình Nghị
viện xem xét lại (Điều 36). Đây là một điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, “chế độ nghị
viện có Ban Thường vụ là điều tiến bộ hơn hẳn chế độ nghị viện của các nước châu
Âu” (7).
- Chính phủ là “cơ quan hành chính cao nhất” gồm Chủ tịch nước và Nội các,
Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng. Chủ tịch nước chọn Thủ tướng và đưa ra Nghị
viện biểu quyết. Thủ tướng chọn các bộ trưởng và đưa Nghị viện biểu quyết cả danh
sách. Thủ tướng, mỗi bộ trưởng đều chịu trách nhiệm trước Nghị viện, còn Chủ tịch
8
nước không chịu trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc (các Điều 43, 44, 47,
50 ).
Mối quan hệ như vậy giữa Nghị viện và Chính phủ là rút kinh nghiệm từ cả chế
độ tập quyền lẫn chế độ phân quyền hiện hành trên thế giới để tránh mọi cái bất hợp lý
của cả chế độ Đại nghị (nghị trường) như ở Pháp, chế độ Tổng thống ở Mỹ trong
trường hợp có xung đột quyền lực giữa Nghị viện và Chính phủ.
Về tư pháp, có cơ quan chỉ đạo là Bộ Tư pháp (trong Chính phủ); Tòa án đứng
biệt lập với cơ quan hành chính, và khi xét sử các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp ( Điều 69).
Lịch sử đã ghi nhận Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng ta, sáng lập Nhà nước
ta, sáng lập Quốc hội ta và là tác giả của bản Tuyên Ngôn độc lập bất hủ và Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Với trí tuệ uyên bác, với tư tưởng lấy

dân làm gốc, Bác đã đưa vào bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta những điều luật
ngang tầm với nền chính trị tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ và nhiều điều còn giá trị
nóng hổi tính thời sự cho đến hôm nay.
Chúng ta có thể tự hào về bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Nó kết tinh truyền thống nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc ta, hài hòa với tư duy pháp
lý hiện đại ở mức quốc gia lẫn quốc tế. Hiến pháp đó như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói là “Bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà là một vết tích lịch sử hiến
pháp đầu tiên trong cõi Á Đông Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn hoàn thiện nhưng
9
nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: Nước
Việt Nam đã độc lập dân tộc Việt Nam đã có đủ quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố
với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng
chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết
chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai
cấp”
10

×