Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.29 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
  

Đề án môn Kinh Tế Chính Trị số: 140
BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở
VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

GVHD: Thạc sĩ Nguyễn Văn Sáng
SVTH : Nguyễn Thị Xuân
Lớp 60. Khóa 33
Thành phố Hồ Chí Minh 11/2008
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN



































Điểm:
MỤC LỤC
Đề mục Trang
Lời nói đầu
Chương I: Tổng quan về bất bình đẳng trong thu nhập
1.Bình đẳng và bất bình đẳng trong thu nhập 1

2.Cơ sở kinh tế của bất bình đẳng 2


2.1/ Khái niệm
3. Tác hại xã hội cuả bất bình đẳng 5

3/1.Về kinh tế 5

3/2. Về chớnh trị-xã hội 6
3/3. Về văn húa 7
Chương II: Thực trạng thu nhập các tầng lớp dõn cư ở Việt Nam
1.Thu nhập phõn theo khu vực 8
1/1. Khu vực vùng kinh tế 8
1/2. Khu vực thành thị-nông thôn 9
1/3. Khu vực thành phần kinh tế 10
2.Thu nhập phõn theo nhúm dõn cư 11
2/1. Phõn theo nhúm giàu nghèo 11
2/2. Phõn theo nhúm dõn tộc 13
Chương III: Giải pháp thu hẹp bất bình đẳng trong thu nhập
1. Giải pháp về kinh tế 15
1/1. Phát triển lực lượng sản xuất 14
1/2. Hoàn thiện chớnh sách tiền lương. tiền công 17
2. Giải pháp về phõn phối 17
3. Giải pháp về chớnh sách xã hội 18
3/1.Tạo việc làm thực hiện xúa đói giảm nghèo 18
3/2. Hình thức bảo hiểm 19
3/3. Trợ cấp và chớnh sách xã hội 20
3/4. Các giải pháp khác 20
KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng những năm cuối thập niên 80
và đang vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế.Trong những năm gần đây ta đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức
cao, trung bình 6-7%; đời sống kinh tế - chính trị ổn đinh, mức sống người
dân không ngừng nâng cao. Song cũn đú những hạn chế, thiếu sót ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình phát triển của đất nước .Một trong số đó là vấn đề
bất bình đẳng trong thu nhập. Đây là một vấn đề hết sức nhức nhối vỡ nú là
nguyên nhân sâu xa của bất ổn kinh tế - chính trị. Thật vậy, ở thời kỳ quá độ,

khi mà con người chưa đạt đến trình độ coi lao động là nhu cầu thì vấn đề thu
nhập và sự bình đẳng là yếu tố tiên quyết cho lòng tin cua nhân dân vào sự
phát triển. Chúng ta không thể nói chủ nghĩa xã hội ưu việt hơn chủ nghĩa tư
bản khi mà đời sống người dân khó khăn và không được cải thiện .Nhưng, ở
nước ta hiện nay thì vấn đề bất bình đẳng cũn khỏ nan giải, trong khi nền kinh
tế tăng trưởng ở mức cao thì bất bình đẳng ngày càng gia tăng, sự phân hóa
giàu nghèo ngày càng rõ nét. Tuổi trẻ ngày 21-11-2007 đã đề cập” Một người ăn
nguyên một con gà, một người chỉ đứng nhìn, tính bình quân mỗi người ăn
được nửa con gà”.Cỏch tớnh GDP bình quân đầu người như vậy không
phản ánh hết thực trạng đời sống của nhân dân vì thực tế theo chuẩn nghèo
mới, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ toàn quốc. Vì
vậy trong đề án kinh tế chính trị số 140:”Bất bình đẳng trong thu nhập ở Việt
Nam” người viết xin làm rõ vấn đề này và đưa ra một số giải pháp khắc phục
mà theo suy nghĩ của người viết thì có thể hữu dụng nhằm hạn chế và tiến tới
thu hẹp bất bình đẳng trong thu nhập ở Việt Nam
Làm được điều này tức là đưa nước ta đến gần hơn với xã hội xã hội chủ
nghĩa nơi mà mọi người đều bình đẳng, tạo lòng tin cho nhân dân vào sự ưu
việt của chủ nghĩa xã hội góp phần ổn định kinh tế - chính trị đưa nước ta
vững bước theo con đường đã chọn.
Đề án được thực hiện với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Thạc sĩ
Nguyễn Văn Sáng, thư viện trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh và
một số bạn học của người thực hiện.Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy
cô và các bạn đã giúp đỡ người viết hoàn thành đề án này. Trong quá trình
thực hiện đề án, với trình độ còn non kém của bản thân người viết nên đề án
không thể tránh khỏi một số thiếu sót do nguyên nhân chủ quan và khách
quan, rất mong nhận được ý kiến phê bình và đóng góp của các thầy cô thuộc
bộ môn kinh tế chính trị trường Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh và đặc biệt
là Thạc sĩ Nguyễn Văn Sáng để người viết rút kinh nghiệm và làm tốt hơn
trong các bài viết sau.
Xin chân thành cảm ơn !!

Thành Phố Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 12 năm 2008
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG THU NHẬP
1. BÌNH ĐẲNG VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG THU NHẬP
Bình đẳng trong thu nhập là sự phân phối công bằng thu nhập cho mọi
thành viên trong xã hội, đây là mục tiêu của phân phối xã hội chủ nghĩa.Phõn
phối công bằng là nói đến việc “người lao động có thể tham gia cạnh tranh
với điều kiện và quy tắc công bằng cao nhất (thu nhập nhiều hay ít tương
xứng với sự đóng góp lao động nhiều hay ít) sự khác biệt của kết quả phân
phối cần được duy trì trong giới hạn mà xã hội có thể chấp nhận được. Nói
một cách cụ thể, đú chớnh là sự thống nhất giữa công bằng và hiệu quả.
Điều kiện tiền đề cho các thành viên xã hội tham gia vào cạnh tranh là
sự phân phối giữa tư chất bẩm sinh hay năng lực của con người đại thể phải
bằng nhau, cơ hội và quyền lợi về giáo dục,việc làm, đầu tư và sản xuất kinh
doanh… ngang nhau. Về kết quả của hình thức thu nhập, xã hội tiến hành
điều tiết thu nhập của các thành viên nhằm giảm bớt thu nhập không phải do
nỗ lực chủ quan mà có, làm cho khoảng cách thu nhập giữa các thành viên xã
hội không quá cách xa nhau, không đựơc vựơt quá phạm vi mà xã hội có thể
chấp nhận được.”
1
Bất bình đẳng là không bình đẳng, tức là có sự phân phối thu nhập tạo
nên khoảng cách lớn cho các thành viên trong xã hội. Bất bình đẳng trên thế
giới được đo bằng “hệ số Gini”
2
.
2. CƠ SỞ KINH TẾ CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG THU NHẬP
Các hình thức phân phối ở nước ta hiện nay tuy có đảm bảo tính công
bằng và hiệu quả hơn so với thời kỳ trước đây, nhưng do những hạn chế
khách quan chưa thể khắc phục nên trở thành một số nguyên nhân dẫn đến sự
bất bình đẳng trong thu nhập. Hiện tại chúng ta có 3 hình thức phân phối là
phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, cổ phần và phân phối qua các

quỹ phúc lợi xã hội. Ta sẽ xem xét các hạn chế của chúng ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, phân phối theo lao động: là hình thức phân phối thu nhập căn
cứ vào số lượng và chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã
hội. Theo nguyên tắc này người làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ớt, cú
sức lao động mà không làm thỡ khụng hưởng; lao động có kỹ thuật cao, lao
động ở những ngành nghề độc hại, trong những điều kiện khó khăn đều
hưởng phần thu nhập thích đáng. “Phân phối theo lao động dựa trên các căn
cứ cụ thể và được thực hiện thông qua các hình thức cụ thể”
3
. Như vậy phân
phối theo lao động là hình thức phân phối hợp lý nhất, công bằng nhất so với
các hình thức phân phối trước đó trong lịch sử. Tuy vậy, C.Mac cho rằng,
phân phối theo lao động trong xã hội xã hội chủ nghĩa tồn tại sự khác biệt. Sự
1
(1: Tr 583-584)
2
Hệ số Gini là một chỉ số đo độ bất bình đẳng theo thang điểm từ 0 (hoàn toàn bình đẳng)
đến 1 (hoàn toàn bất bình đẳng), hệ số này càng cao thì bất bình đẳng trong xã hội càng
lớn.
3
:xem thêm giáo trình kinh tế chính trị NXB CTQG
khác biệt về phân phối này một mặt biểu hiện sự khác biệt về năng lực sản
xuất của người lao động, một người hơn một người khác về thể lực và trí lực,
vì thế trong cùng một thời gian có thể cung cấp lao động tương đối nhiều,
hoặc có thể lao động trong thời gian khá dài. Sự khác biệt về năng lực lao
động của người lao động do những nhân tố bẩm sinh hoặc một số nhân tố sau
khi sinh tạo thành, là “mặc nhiên thừa nhận sự không ngang nhau về năng
khiếu cá nhân và do đó, về năng lực lao động, coi đó là những đặc quyền tự
nhiờn”. Cũn đối với cá nhân không ngang nhau dùng cùng một thước đo để
đo “quyền là phải không bình đẳng, chứ không phải là bình đẳng”. Mặt khác,

sự khác biệt về phân phối còn biểu hiện ở sự khác biệt giữa lượng được
hưởng thực tế về sản phẩm tiêu dùng của cá nhân người lao động và mức
sống. Vì đối tượng chi ra và thu được thù lao của người lao động là cá nhân
người lao động, còn đơn vị tiêu dùng lại là gia đình bao gồm cá nhân người
lao động trong đó, do tỷ lệ giữa số lượng tổng nhân khẩu trong các gia đình
cùng người lao động và nhân khẩu dược nuôi dưỡng khác nhau, ảnh hưởng
tới mức tiêu dùng thực tế của mỗi người cũng khác nhau. Một người lao động
đã kết hụn,một người thì chưa, con cái của người lao động này tương đối
nhiều,con cái của một người khác tương đối ít, với thành quả lao động như
nhau, từ phần thu được trong sản phẩm tiêu dùng của xã hội như nhau, một
người nào đú có thu nhập thực sự nhiều hơn người khác một chỳt,cũng chớnh
là giàu hơn người khác một chút. Rõ ràng, trong cùng một thước đo để đo lao
động xã hội, sự khác bịêt của lượng lao động cá nhân đưa đến sự khác biệt về
số lượng thù lao, sự khác biệt của số nhân khẩu phải nuôi dưỡng sẽ dẫn đến
sự khác biệt về lượng sử dụng thực tế hàng tiêu dùng. Trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, trình độ lực lượng sản xuất xã hội, với đặc điểm là sự ít ỏi về hàng tiêu
dùng tồn tại ở một mức độ nhất định, làm cho sự khác biệt và bất bình đẳng
này trở thành không thể tránh khỏi vì quyền của một xã hội vĩnh viễn không
thể vượt ra ngoài kết cấu kinh tế xã hội và sự phát triển văn hóa xã hội do kết
cấu kinh tế kiềm chế”
4
.
Thứ hai, phân phối theo vốn, tài sản, cổ phần: là sự xác định thu nhập
mang lại cho người sở hữu tư liệu sản xuất, vốn tiền tệ, kỹ thuật – công nghệ
(sở hữu công nghiệp)…đó tham gia vào sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc
phân phối này được biểu hiện dưới nhiều hình thức phân phối và thu nhập
khác nhau, chẳng hạn lợi tức cho vay, lợi tức cổ phần và trỏi khoỏn, tiền thuê
tư liệu sản xuất,…Tất cả tài sản mang lại thu nhập ở đây thực chất là những
yếu tố về vốn là những hình thái cụ thể của lao động quá khứ tham gia vào
sản xuất, kinh doanh. Vậy phân phối theo vốn, tài sản, cổ phần chính là quá

trình tham gia phân phối lợi nhuận của các yếu tố sản xuất thuộc về lao động
quá khứ, chứ không phải thuộc về lao động hiện tại. Đõy chớnh là nguyên
nhân của bất bình đẳng. Nếu hai người có năng lực làm việc như nhau mà một
người được hưởng thừa kế từ gia đình là một số lượng lớn cổ phần trong công
ty mà cả hai người cùng làm thì điều gì sẽ sảy ra? Tất nhiên là người có thừa
kế sẽ có thu nhập cao hơn, nói điều này không có nghĩa là phê phán thừa kế
mà chỉ ra rằng đó là bất bình đẳng. Chớnh là lao động quá khứ của hai gia
đình đang ảnh hưởng đến thu nhập của hai người hôm nay, như vậy là không
công bằng vì không có ai chọn nơi sinh ra cho mình. Và cứ như vậy sự bất
bình đẳng kéo dài từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Thứ ba, phân phối qua các quỹ phúc lợi xã hội là hình thức phân phối
nhằm nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là
các tầng lớp nhân dân lao động. Hình thức này phân phối này bản thân nó là
một biện pháp làm giảm bất bình đẳng nhưng trên thực tế do công tác quản lý
4
(1-Tr 412-413)
và thực hiện yếu kém nên có nhiều nơi để sảy ra hiện tượng sai trái trong
công tác phân phối đến từng hộ gia đình.
3. TÁC HẠI XÃ HỘI CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG THU NHẬP
Sự bất bình đẳng trong thu nhập không phải là không có những mặt tích
cực.Việt Nam không chỉ đang trong quá trình chuyển đổi, mà còn là nước mới
bắt đầu công nghiệp hóa, còn là một nước nghèo, có thể cân một sự chênh
lệch phát triển đủ để tạo ra động lực cho sự phát triển. Với ý nghĩa này thì bất
bình đẳng trong thu nhập là một tất yếu (như đã trình bày ở trên) và có ý
nghĩa tích cực. Nhưng sự bất bình đẳng này lại đang là nguyên nhân chính
gây nên sự bất ổn trong xã hội.
3/1. Về kinh tế
Theo bản báo cáo Nhận Định Về Bất Bình Đẳng Xã Hội Ở Việt-Nam “ những
"hố sâu" ngăn cách của sự bất bình đẳng trong giàu nghèo và trong cơ hội, kể
cả trong nội bộ và giữa các quốc gia, đã góp phần dẫn đến sự nghèo khổ cùng

cực kéo dài dai dẳng đối với một bộ phận lớn dân số. Điều này làm lãng phí
tiềm năng con người và trong nhiều trường hợp, nó làm chậm lại tốc độ tăng
trưởng kinh tế bền vững”
5
. Đúng như vậy con người là nhân tố năng động
nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Hiệu quả suy cho đến cùng là
kết quả của việc người lao động thúc đẩy tư liệu sản xuất hoạt động, nâng cao
hiệu quả cũng cần phải dựa vào sự phát huy đầy đủ tính tích cực của người
lao động. Còn tính tích cực có phát huy được đầy đủ hay không, lại quyết
định ở sự cảm thụ của người lao động đối với lợi ích kinh tế của bản thân có
5
Nhận Định Về Bất Bình Đẳng Xã Hội Ở Việt-Nam
Ngày tháng: 06/04/2005 BBC, 04.04.2005
thực hiện được công bằng hay không, đặc biệt khi mà lao động vẫn chủ yếu là
thủ đoạn mưu cầu sự sống, mức công bằng trong thu nhập hầu như là nhân tố
ràng buộc đầu tiên với sự dao động tính tích cực cuả đa số người lao động.
Nên nếu bất bình đẳng trong thu nhập tức là sẽ làm giảm sút tính tích cực của
những người không được hưởng sự công bằng, hậu quả là hiệu quả thấp kém,
kinh tế phát triển chậm chạp.
3/2. Về chính trị -xã hội
Thứ nhất, vấn đè gia tăng dân di cư từ những vùng kém phát triển đến
những vùng phát triển hơn hoặc đến những vùng có điều kiện thuận lợi hơn.
Ở Tõy Nguyờn, dân nhập cư tăng nhanh đã gây áp lực về đất và sảy ra nhiều
tranh chấp về đất giữa người nhập cư và các lâm trường. Những tranh chấp
này đến nay vẫn còn tồn tại và cú lỳc gõy căng thẳng giữa các dân tộc. Ở
thành phố, những người nhập cư thường không có hộ khẩu, không được
hưởng những lợi ích mà dân nghèo thành phố được hưởng như thẻ khám chữa
bệnh, miễn học phớ…Sự phân biệt đối xử giữa những người nhập cư không
có hộ khẩu và những người có hộ khẩu là một trong những nguyên nhân dẫn
tới các vấn đề xã hội nghiêm trọng ở các đô thị lớn. Hơn nữa dân nhập cư vào

thành phố thường có thu nhập thấp hơn dõn cú hộ khẩu thường trú ở đây, do
vậy cũng đã tạo ra những vấn đề xã hội bất lợi.
Thứ hai, vấn đề dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số nói chung có mức
sống, mức thu nhập thấp xa so với các dân tộc Kinh và Hoa. Hiện hơn 50%
dân tộc thiểu số sống dưới ngưỡng nghèo. Sự phát triển của các nông trường
đó đõỷ người dân tộc thiểu số vào sâu hơn, đất đai cằn cỗi hơn và do đó họ
ngày càng nghèo hơn. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho các dân
tộc thiểu số Tõy Nguyờn dễ bị các phần tử xấu kích động, xúi giục, tập hợp
trong các tổ chức “Ful-rụ”, “Đề-Ga”, gây mất ổn định nhiều năm nay .
3/3. Về văn hóa
Khi sự bất bỡnh đẳng gia tăng, một mặt người nghèo sẽ có khuynh
hướng sùng bái hang hóa, tiền tệ coi lợi nhuận là trên hết, bất chấp mọi đạo lý
chỉ coi trọng giá trị vật chất mà coi thường các giá trị nhân văn, tiêu biểu là
hiện tượng tội phạm ngày càng gia tăng (ma túy, mại dâm, buôn lậu). Mặt
khác, giới trẻ thuộc các gia đình giàu có coi thường đồng tiền, không biết sự
vất vả để làm ra tiền và vì vậy sa vào các hoạt động vô bổ, không có lý tưởng
sống, làm suy thoái cả một thế hệ về mặt đaọ đức.
Chương 2. THỰC TRẠNG THU NHẬP CÁC TẦNG LỚP DÂN CƯ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Trên đây đã đề cập khái niệm và cơ sở kinh tế của bất bình đẳng cũng
như tác hại xã hội của nó. Nước ta hiện nay có hệ số Gini là 0.391, ở mức
trung bình. Bất bình đẳng ở nước ta vì thế không gay gắt như một số nước
khỏc trờn thế giới, nhưng vẫn là một vấn đề bức xúc vì bất bình đẳng trong
thu nhập ngày càng gia tăng giữa các khu vực thành thị- nông thôn, giữa cỏc
vựng kinh tế và các thành phần kinh tế. Tuy nước ta đã có nhiều biện pháp cải
thiện tình hình này và đạt những kết quả khả quan (tiêu biểu là tỉ lệ nghốo đó
giảm hẳn) song mức độ chênh lệch thu nhập lại ngày càng gia tăng. Dưới đây
người viết xin đề cập thực trạng đang diễn ra trong điều kiện nước ta hiện
nay.
1. THU NHẬP PHÂN THEO KHU VỰC

1/1. Khu vực vùng kinh tế
Nước ta có tất cả 8 vùng kinh tế, mỗi vựng cú một trình độ phát triển
kinh tế khác nhau và do đó mức thu nhập cũng khác nhau.Trước tiờn xột số
lượng hộ nghèo giữa cỏc vựng để thấy được sự phân hóa này.
1998 2002 2004 2006
Tỷ lệ nghèo chung 37,4 28,9 19,5 16,0
Đồng bằng sông Hồng 29,3 22,4 12,1 8,8
Đông Bắc 62,0 38,4 29,4 25,0
Tây Bắc 73,4 68,0 58,6 49,0
Bắc Trung Bộ 48,1 43,9 31,9 29,1
Duyên hải Nam Trung Bộ 34,5 25,2 19,0 12,6
Tây Nguyên 52,4 51,8 33,1 28,6
Đông Nam Bộ 12,2 10,6 5,4 5,8
Đồng bằng sông Cửu Long 36,9 23,4 19,5 10,3
Tỷ lệ nghèo chung được tính theo mức chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng với
chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới cho các năm như
sau: 1998: 149 nghìn đồng; 2002: 160 nghìn đồng; 2004: 173 nghìn đồng;
2006: 213 nghìn đồng.
Qua số liệu trên cho thấy tỉ lệ nghèo ở cỏc vựng cú sự khác biệt đáng
kể. Qua số liệu trên ta thấy vùng Tây Bắc là vùng có tỉ lệ nghèo cao nhất
với 49%, trong khi đó tỉ lệ này ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông
Hồng lần lượt chỉ là 5,8% và 8,8%.Ở đõy cú sự chênh lệch giữa vựng cú tỉ lệ
nghèo cao nhất và vựng cú tỉ lệ nghèo thấp nhất đến 8.4 lần. Người nghèo tập
trung nhiều nhất ở vùng Tây Bắc(49,0%), rồi đến Bắc Trung Bộ(29,1%), Tõy
Nguyên(28,6%) và Đông Bắc(25,0%), cả bốn vùng còn lại chỉ chiếm 37,5%.
Năm 1998, thu nhập đầu người ở khu vực sung túc nhất của VN, vùng
Đông Nam Bộ (bao gồm TP. HCM) cao gần gấp đôi so với vùng đồng bằng
sụng Hụ̀ng (bao gồm cả Hà Nội), và cao gần gấp ba khu vực miền núi phía
bắc. Nếu so sánh thu nhập của 20% số hộ có thu nhập cao nhất với 20% số hộ
có thu nhập thấp nhất, thu nhập của 10% số hộ có thu nhập cao nhất với 10%

số hộ có thu nhập thấp nhất, thu nhập của 5% số hộ có thu nhập cao nhất với
5% số hộ có thu nhập thấp nhất giữa vùng Đông Nam Bộ giàu nhất và vùng
Tây Bắc Bộ nghèo nhất thì chỉ số ấy tương ứng là 2,18 lần; 3,15 lần và 3,14
lần (2001). Báo cáo về phát triển con người của Việt Nam năm 2001 đưa một
số nhận định như sau các thành phố như Hà Nội, Thành Phố Hồ CHí Minh và
các tỉnh như Lào Cai, Lai Chõu có sự phõn húa lớn về thu nhập đến mức như
là hai thái cực. Khi toàn bộ nền kinh tế đều được hưởng lợi từ tăng trưởng
kinh tế thì những người nghèo được hưởng ít hơn (chỉ bằng 75,6%) cuả bình
quõn trong khi đó người giàu hưởng lợi nhiều hơn hẳn (bằng 115%).

1/2. Khu vực thành thị- nông thôn
Nếu tính thời kỳ 1990-1996, GDP bình quân đầu người ở khu vực nông
thôn tăng trung bình là 2,7%, trong khi khu vực thành thị có mức tăng trung
bình là 8,8% (xem bảng 2 phần phụ lục). Hệ số chênh lệch về mức sống giữa
thành thị và nụng thụn(1996) là khoảng từ 5-7 lần
6
.
Theo kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2002, của Tổng cục thống
kê, thu nhập bình quân đầu người năm 2002 theo giá thực tế đạt 357 nghỡn
đồng/thỏng, tăng 21% so với năm 1999, trong đó khu vực thành thị đạt 626
nghìn đồng, tăng 21,1% và khu vực nông thôn đạt 275 nghìn đồng, tăng
22,2%. Sự chênh lệch giữa hai khu vực là 2,3 lần. Theo số liệu của Tổng cục
thống kê, khoảng cách về thu nhập bình quân 1 người 1 tháng giữa dân cư
khu vực thành thị và khu vực nông thôn có xu hướng gia tăng: năm 1994 là
2,55 lần; 1995 là 2,63 lần; 1996 là 2,7 lần, 1999 là 3,7 lần và 2002 là 2,3 lần.
Khoảng cách chênh lệch về chi tiêu giữa 2 khu vực này dao động ở mức 2,5
lần đến 3 lần trong những năm gần đây, cụ thể: năm 1995 là 2,5 lần; 1996 là
2,57 lần; 1999 là 3,1 lần và 2002 là 2,2 lần,năm 2006 là 2 lần ( xem phụ lục
bảng 4). Ở vùng đô thị, nơi có 20% dân số sinh sống chiếm khoảng 60%GDP
được phát triển với nhịp độ nhanh (10-12%/ năm) thì ở vùng nông thôn, nơi

có 80% dân số sinh sống chỉ chiếm khoảng 40% GDP lại đang phát triển
chậm hơn (dưới 10%/năm). Xột riêng trong khu vực Đông Nam Bộ, năm
2002, 5% hộ gia đình giàu nhất có thu nhập cao gṍp 25 lần so với 5% nghèo
nhất (chủ yếu ở ngoại thành và nông thôn).
Khoảng cách chênh lệch về thu nhập và chi tiêu của các hộ trong hai khu vực
6
Nguyễn Hữu Dũng “ Định hướng chiến lược việc làm và xóa đói giảm ngheò trong chiến lược phát triển
nông thôn Việt Nam đến năm 2000. Hội thảo tạo đàm về chuyển đổi nông nghiệp nông thôn Việt Nam .Việc
làm và xóa đói giảm nghèo ,Bộ LDĐTB-XH,1999
không những cao mà còn có xu hướng tăng dần theo thời gian do tốc độ tăng
thu nhập dân cư thành thị hàng năm thường cao hơn dân cư nông thôn.
1/3. Khu vực kinh tế (thành phần kinh tế)
Phần lớn người làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước có mức sống
thuộc nhóm 20% giàu nhất hoặc rơi vào hai nhúm trờn (75-80%). Tình hình
cũng tương tự như vậy ở nhóm làm việc trong doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ
có 1/3 số lao động trong doanh nghiệp tư nhân và gần 1/5 lao động trong hộ
sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc vào nhóm 20% giàu nhất. Khoảng 40% những
người lao động ở các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân và hộ sản xuất kinh
doanh nhỏ thuộc vào nhúm cú mức sống dưới trung bình. 3/4 số người thuộc
nhóm 20% nghèo nhất là lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, trong
khi 60% người thuộc nhóm 20% giàu nhất làm việc trong ba khu vực của nhà
nước
2. THU NHẬP PHÂN THEO NHÓM DÂN CƯ
2/1. Thu nhập theo nhóm giàu nghèo
Theo kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2002, của Tổng cục thống
kê thu nhập của nhóm 20% hộ giàu (thu nhập cao nhất) đạt 877 nghìn đồng,
tăng 18,2%, nhóm 20% hộ nghèo đạt 108 nghìn đồng, tăng 11,7% Mức chi
tiêu của nhóm 20% hộ nghèo tăng 11%, nhóm 20% hộ giàu tăng 18% so với
năm 1999. Vậy mức tăng của người nghèo thường thấp hơn của người giàu.
Nhóm hộ gia đình thuộc loại trung bình, khá và giàu chi nhiều hơn cho các

nhu cầu ngoài ăn uống như: mua sắm đồ dùng từ 3,8% năm 1999 lên 8% năm
2002; tương tự, chi chăm sóc sức khỏe từ 4,6% lên 5,7%; giáo dục từ 4,6%
lên 6,1%; đi lại từ 6,7% lên 10%. Tuy nhiên có sự chênh lệch giữa các nhóm
hộ giàu, nghèo về khoản chi này. Nhóm 20% hộ giàu có mức chi không phải
ăn uống gấp 7,6 lần so với nhóm 20% hộ nghèo, trong đó chi về nhà ở, điện,
nước gấp 10,6 lần, chi thiết bị đồ dùng gia đình gấp 7,8 lần, chi đi lại và bưu
điện gấp 16 lần, chi văn hóa, thể thao, giải trí gấp 104 lần…
“Nếu xét theo nhóm dân cư, xét theo nhóm 20% dân cư, khoảng cách
giàu nghèo này giữa nhúm cú thu nhập thấp nhất và cao nhất đang ngày một
cách biệt. Khoảng cách này năm 1996 là 7,31 lần; năm 2001-2002 lên đến 8,1
lần (xem thêm phụ lục bảng 1 ), năm 2003-2004 là 8,34 lần. Nếu so sánh thu
nhập của 10% số hộ có thu nhập cao nhất với 10% số hộ có thu nhập thấp
nhất thì hệ số chênh lệch giữa 2 nhóm năm 2001-2002 chung cả nước là 13,86
lần, trong đó khu vực thành thị là 14,22 lần, khu vực nông thôn là 9,4 lần. Sự
chênh lệch về thu nhập như trên dẫn đến gia tăng tình trạng bất bình đẳng
giữa nhúm nghốo trong xã hội, thể hiện qua hệ số GINI. Ở hệ số GINI năm
1999 là 0,39, năm 2002 đã tăng lên 0,42 (xem phụ lục bảng 3).
Ở thời điểm hiện nay, cùng với việc gia nhập WTO và động thái của thị
trường thế giới sắp tới, khoảng cách giàu nghèo có thể còn tiếp tục nới rộng ra
nhanh hơn nữa. Tập đoàn truyền thông hàng đầu thế giới BBC nhận định, số
người giàu có đủ sức mua bất cứ món hàng gì đắt tiền mới chiếm khoảng 2%
dân số Hà Nội và TPHCM. Sức mua trung bình trên 20.000 – 23.000 USD/hộ
gia đình mới chiếm khoảng 20% – 30% dân số hai thành phố này. Trong khi
đó, theo tiêu chí giai đoạn 2006 – 2010, hộ có thu nhập dưới là 230.000
đồng/người/thỏng ở thành thị và 200.000 đồng/thỏng ở nông thôn là thuộc hộ
nghèo. Ở thời điểm cuối năm 2007, cả nước còn 14,8% hộ nghèo. Đặc biệt,
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Ngân đưa ra những con số day dứt: Đến cuối
năm 2006 cả nước cũn cú 58 huyện có tỉ lệ nghốo trờn 50%. Trong đó có 27
huyện có tỉ lệ hộ nghốo trờn 60%, 10 huyện trên 70% và 1 huyện có tỉ lệ hộ
nghốo trờn 80%”

7
.
2/2. Thu nhập theo nhóm dân tộc
Trong thời kỳ 1993-1998, tỉ lệ nghèo đói ở các dân tộc ít người đã
giảm từ 86% xuống còn 75%, trong khi đó tỉ lệ nghèo của người Kinh giảm từ
54% xuống còn 31%. Năm 1993, cỏc nhúm dõn tộc ít người tuy chỉ chiếm
13% tổng dân số nhưng lại chiếm tới 20% tổng số người nghèo. Năm 1998 tỉ
lệ trong tổng dân số của họ là 14% thì lại chiếm tới 29% số người nghèo. Nếu
lấy thu nhập của người Kinh là 100 thì thu nhập của người Mường là 59
người Thái là 55, người Dao 46, H’mụng(41), ấ-đờ(72), Xờ-đăng(30),
Khơme(50). Vậy thu nhập của người thiểu số chỉ bằng ẵ thu nhập của người
Kinh. Đặc biệt là vùng Tõy Nguyên, hơn 80% số đồng bào dõn tộc ở đõy
sống dưới mức nghèo. Tỷ trọng dõn tộc thiểu số trong số người nghèo ngày
càng gia tăng từ 20% năm 1993 lên hơn 30% năm 2002 và theo một số dự báo
có thể lên đến 37% vào năm 2010
7
Nhận Định Về Bất Bình Đẳng Xã Hội Ở Việt-Nam
Ngày tháng: 06/04/2005 BBC, 04.04.2005
Chương 3. GIẢI PHÁP THU HẸP BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG
THU NHẬP
Trên đây người viết đã trình bày sơ lược về thực trạng bất bình đẳng
trong thu nhập ở nước ta hiện nay. Trong khi nước ta đang hướng đến chủ
nghĩa xã hội với sự bình đẳng cho tất cả các thành viên về mọi mặt, nờn dự
phải chấp nhận sự bất bình đẳng trên một số mặt nào đó (trong đó có thu
nhập) thì chúng ta cũng phải từng bước thu hẹp bất bình đẳng thực hiện công
bằng xã hội tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, chính trị ổn định. Làm được
điều đó chúng ta cũng dần tiến tới một xã hội: “khụng cú chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động, ai làm nhiều thì
hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng”
8

. Để đạt được
điều này, từ thực tiễn nước ta cần tiến hành các biện pháp đồng bộ, cụ thể là:
1. GIẢI PHÁP VỀ KINH TẾ
Arther đã viết trong “Phồn vinh đến từ cạnh tranh” rằng: luôn mồm
tranh luận không ngừng về việc phân phối của cải quốc dân, chẳng thà tập
trung tất cả sức người để làm tăng của cải quốc dân sẽ thức thời biết bao
nhiờu…Cỏo một chiếc bánh ngọt tương đối lớn thì sẽ đễ dàng phân cho mỗi
người một miếng tương đối to, nếu chỉ có một cái bánh nhỏ, cho dù có thảo
luận cách chia như thế nào thì cũng không thể làm cho phần của mỗi người
nhiều thờm”(Tr 13). Thuyết bánh ngọt của Arther không phải không có lý,
vậy nhằm đến mục tiêu phân phối công bằng trước hết phải làm cho của cải
xã hội nhiều thêm thông qua các giải pháp về kinh tế .
1/1. Phát triển lực lượng sản xuất
8
: HỒ CHÍ MINH toàn tập, NXB CTQG 2000, T19, Tr23
Thu nhập là một phần của quan hệ phân phối. Mà quan hệ phân phối
phụ thuộc lớn vào trình độ của lực lượng sản xuất. Vì vậy phát triển lực lượng
sản xuất ở mức tương đối cao và sản phẩm phải tương đối nhiều thì mới có
thể đảm bảo một sự công bằng tương đối. Có thể đưa ra một số giải pháp như
sau.
1. Dân chủ hóa đời sống kinh tế. Đây là tiền đề đầu tiên đảm bảo
cho sự công bằng giữa các thành phần kinh tế trong xã hội. Cụ thể là : Hỗ trợ
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp đỡ họ về vốn (hình thức tín dụng
ưu đãi), công nghệ, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cải cách mạnh mẽ
khu vực kinh tế nhà nước theo hướng độc lập tương đối với ngân sách nhà
nước nhằm tăng tớnh cạnh tranh của khu vực này, tăng cường hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh. Kiểm soát có hiệu quả khu vực kinh tế tư nhân (đặc
biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ) trong lĩnh vực phúc lợi
cho cụng nhõn(theo quy định của nhà nước) và bảo vệ môi trường.
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,

tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật mới cho nông thôn .
3. Hoàn thiện cơ chế quản lý theo hướng trong sạch bộ máy nhà
nước. Đây là tiền đề để chống tham nhũng một cách hiệu quả bằng cách quy
định rõ trách nhiệm của từng cá nhân trong bộ máy nhà nước, có chế tài
nghiêm khắc với những sai phạm của cán bộ công nhân viên.
4. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao bằng cách tiếp tục thực
hiện phổ cập giáo dục các cấp, tăng cường giáo viên cho vựng sõu vựng xa,
cải cách chương trình theo nội dung mới có tính thiết thực và gần gũi với đời
sống, nâng cao hiệu quả của chi tiêu cho giáo dục dần tiến tới “xã hội hóa”
giáo dục.
1/2. Hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công
Tiền công tiền lương ở nước ta đã có nhiều đổi mới song vẫn còn
những bất cập. Các giải pháp được đưa ra là
1. Tăng năng suất lao động bằng việc áp dụng công nghệ mới vào
sản xuất đảm bảo tăng tiền lương không làm giảm lợi nhuận.
2. Cải thiện mức lương tối thiểu để đảm bảo tái sản xuất mở rộng
sức lao động.
3. Thực hiện thị trường lao động linh hoạt tránh hiện tượng phân
biệt đối xử với người không có hộ khẩu như một số nơi hiện nay.
2. GIẢI PHÁP VỀ PHÂN PHỐI
Là các giải pháp nhằm điêu tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá
đáng về mức thu nhập. Theo đó cần điều tiết thu nhập theo hướng hạn chế thu
nhập của người có thu nhập quá cao. Điều tiết được thực hiện chủ yếu thông
qua hình thức thuế thu nhập cá nhân. Hiện Pháp lệnh Thuế thu nhập cao đã
được sửa đổi, bổ sung nhiều lần theo hướng giảm thuế, đồng thời tăng mức
khởi điểm chịu thuế (từ trên 3.000.000 đồng/thỏng lờn hơn 5.000.000
đồng/thỏng đối với người Việt Nam. Thu nhập về chuyển giao công nghệ trên
15.000.000 đồng/lần, thuế suất 5% tổng số thu nhập.Thu nhập về trúng
thưởng xổ số trên 15.000.000 đồng/lần, thuế suất 10% tổng số thu nhập.Điều

10 luật thuế thu nhập cá nhân quy định “biểu thuế lũy tiến từng phần đối với
thu nhập thường xuyên được quy định như sau:
1. Đối với công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt NaĐơn vị
tính: 1000 đồng
Bậc Thu nhập bình quân tháng/người Thuế suất (%)
1 Đến 5.000 0
2 Trên 5.000 đến 15.000 10
3 Trên 15.000 đến 25.000 20
4 Trên 25.000 đến 40.000 30
5 Trên 40.000 40
:
3. GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
3/1. Tạo việc làm, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo
Đây là giải pháp tích cực và cơ bản nhất để thực hiện công bằng xã hội.
Mặc dù chính phủ đã có nhiều biện pháp thực hiện (các chính sách quốc gia
về việc làm và xúa đúi giảm nghèo) song còn nhiều hạn chế. Để đạt được mục
tiêu đã đặt ra cần thực hiện các giải pháp sau.
1. Thực hiện nghiêm túc chủ trương kiềm chế tốc độ tăng dân số,
đây là vấn đề cốt lõi của chính sách việc làm và xóa đói giảm nghèo nhất là ở
vựng sõu vựng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Phải tìm mọi cách duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững, tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, từ đó tạo việc làm, thu
hút lao động, nhất là đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
3. Tổ chức tốt công tác đào tạo nghề nhằm xây dựng đội ngũ lao
động có tay nghề phục vụ yêu cầu của nền kinh tế và yêu cầu xuất khẩu lao
động.
4. Xóa đói giảm nghèo ở cỏc vựng khó khăn phải gấn liền với phát
triển sản xuất, phát triển thị trường khu vực nông thôn.
3/2. Hình thức bảo hiểm
Bảo hiểm xã hội là lớp lá chắn quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội

mà tất cả các nước có nền kinh tế thị trường đều tận dụng tối đa. Ở nước ta
hình thức này đã thu được một số kết quả song vẫn còn nhiều bất cập. Để phát
huy hết vai trò của công cụ này chúng ta hiện nay phải thực hiện các giải pháp
sau.
1. Mở rộng lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Hiện nay, phạm vi bảo
hiểm xã hội còn hẹp và chủ yếu là bảo hiểm bắt buộc. Trong giai đoạn tới cần
khắc phục tình trạng này. Trong đó cần sớm triển khai hình thức bảo hiểm
thất nghiệp và có chính sách khuyến khích mở rộng hình thức bảo hiểm tự
nguyện.
2. Thay đổi cơ cấu đóng bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã
hội được hình thành theo nguyên tắc người sử dụng lao động đóng góp 15%
tổng quỹ lương, người lao động đóng góp 5% tiền lương. Đõy là một bất hợp
lý cần được khắc phục theo hướng giảm tỉ lệ đóng góp của người sử dụng lao
động xuống tối đa còn 50%, tăng tỉ lệ đóng góp của người lao động lên tương
ứng (tuy nhiên điều đó phải đi kèm với cải cách tiền lương để không ảnh
hưởng tới tiền lương thực tế của người lao động).
3. Điều chỉnh mức đóng góp bảo hiểm xã hội tránh dẫn đến
sự chênh lệch lớn giữa tốc độ tăng thu và tốc độ tăng chi bảo hiếm xã hội (tốc
độ tăng thu giai đoạn 1995-2000 là 19,8%, tốc độ tăng chi là 37,8%).Với xu
hướng này, trong tương lai, quỹ bảo hiểm xã hội sẽ bị mất cân đối (do thu lớn
hơn chi).
4. Tăng cường pháp chế trong thu nộp bảo hiểm xã hội tránh
tình trạng trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động
còn phổ biến, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
5. Đổi mới phương thức phục vụ, nâng cao chất lượng các
hoạt động bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm y tế.
3/3. Trợ cấp và chính sách xã hội
Trợ cấp và chính sách xã hội chính là hình thức giúp đỡ những người
khó khăn nâng cao đời sống thông qua ngân sách nhà nước . Cụ thể
1. Về thực hiện chính sách đối với người có công, cần phải có

chính sách ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm mức sống của những người có công
với cách mạng, ít nhất là ngang bằng với mức sống trung bình ở địa phương.
Cùng với việc nâng mức lương tối thiểu, mức trợ cấp cho các đối tượng
chính sách cũng phải được nâng lên.
2. Về chính sách trợ cấp xã hội giúp những người yếu thế và dễ bị
tổn thương bao gồm những người già không nơi nương tựa, trẻ em lang
thang, mồ côi. Cần phát triển mạnh các lọai hình dịch vụ phục vụ những
người già cô đơn (kể cả người có con nhưng muốn ở riêng) như mở các trại
dưỡng lão (có sự hỗ trợ của nhà nước và sự đóng góp của những người vào
trại); phát triển các trại nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em mồ côi, trẻ lang thang. Ở
đây, giải pháp quan trọng nhất để chấm dứt tình trạng này là phát trển kinh tế
hộ gia đình ở cỏc vựng nông thôn, miền núi, vì số trẻ em lang thang ở các
thành phố (chủ yờỳ là hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh) là từ vùng nụng thôn, miền núi.
3. Chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương
thân tương ái “lỏ lành dựm lỏ rỏch” trong cộng đồng để vượt qua khó khăn
xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, thông qua các hình thức như đóng
góp cho quỹ Vì người nghèo, phong trào xóa nhà tranh vỏch nỏt dưới những
tên gọi như “xúa mái tranh nghốo”, “nhà tình thương”, “nhà đoàn kết”.
3/4. Các biện pháp khác
1. Quan tâm thích đáng đến vấn đề giới nhất là phát triển nguồn lực,
đào tạo nghề cho phụ nữ, chăm sóc giáo dục trẻ em gái về vấn đề sức khỏe
sinh sản, ưu tiên tạo việc làm tăng thu nhập cho phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ
nữ tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội cơ bản, nâng cao vai trò và vị thế của
phụ nữ trong tham gia quản lý lãnh đạo.
2. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội như tham ô tham nhũng làm thất
thoát tài sản của nhà nước. Đõy là nguyên nhân làm suy kiệt đất nước, làm gia
tăng bất bình đẳng một cách thái quá. Cần có chế tài nghiêm khắc với loại
hình tội phạm này.
3. Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo bằng cách kết hợp với

các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong chiến lược phát triển chung từ
trung ương đến địa phương.
4. Trợ giúp pháp lý cho người nghèo, giúp người nghèo có những
hiểu biết phổ thông về pháp luật lien quan đến đời sống hằng ngày của mình.

×