Lời nói đầu.
Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh
đạo cách mạng; đồng thời, với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái ( 9-
2-1930), đánh dấu sự chấm dứt ảnh hởng của hệ t tởng t sản, xác lập ảnh h-
ởng của hệ t tởng vô sản trong cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch sử nớc
ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung
tâm, kết hợp với phong trào yêu nớc và cách mạng, quyết địng nội dung,
phơng hớng phát triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân Việt
Nam không chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình, mà còn góp phần vào sự
nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội.
Tiểu luận môn học của em trình bày về vấn đề Cơng lĩnh đầu tiên của
Đảng cộng sản Việt Nam. Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng đợc thông qua
trong Hội nghị hợp nhất đã định hớng cho các hoạt động của Đảng trong
thời kỳ mới thành lập. Do thời gian và kiến thức có hạn cho nên bài viết
không tránh khỏi những thiết sót .Em xin chân thành cảm ơn cô đã cho
em nhiều kiến thức quí báu qua môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Mục lục
Trang
Chơng I: Hoàn cảnh lịch sử và sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 2
1.Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam 2
2.Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930 5
Chơng II: Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng 7
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
1.Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng đợc thể hiện thông qua
chính cơng vắn tắt của Đảng 7
2.Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện qua sách lợc vắn tắt
của Đảng 9
Chơng III: Đánh giá, kết luận và bài học kinh nghiệm 11
Chơng I
Hoàn cảnh lịch sử và sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
1.Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Vào đầu năm 1929, trớc sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng
Việt Nam, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội không còn đủ sức lãnh
đạo. Trong khi đó, số lợng cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí
hội ngày thêm nhiều. Cần phải thành lập một đảng cộng sản để lãnh đạo phong
trào, đó là một yêu cầu khách quan và đã có những tiền đề nhất định.
Tháng 3 năm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ thanh niên cách mạng
đồng chí hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí : Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu,
Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn
2
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
Tuân, Dơng Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ Hàm Long, Hà Nội, quyết định
thành lập chi bộ cộng sản và chủ trơng tiến tới thành lập Đảng cộng sản thay thế
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội để lãnh đạo cách mạng.
Ngày 1 tháng 5 năm 1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội, kiến nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ về việc giải
tán Hội nghị để thành lập Đảng cộng sản không đợc chấp nhận. Đoàn đại biểu
Bắc Kỳ rút khỏi Đại hội về nớc, ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân dân ủng hộ chủ trơng thành lập Đảng cộng sản.
Ngày 17 tháng 6 năm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đẵ
họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dơng
cộng sản đảng, cử ra ban chấp hành trung ơng lâm thời, thông qua Tuyên ngôn
và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và
các đoàn thể quần chúng.
Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội
bế mạc, 6 uỷ viên mới đợc bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu,
Châu Văn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Văn Đồng đã họp bàn
việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng
bộ nói trên. Thực hiên chủ trơng này, những cộng sản đoàn còn lại trong Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã hình thành các chi bộ cộng sản.
Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ còn có chi bộ cộng sản ngời
Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc).
Thợng tuần tháng 8 năm 1929, An Nam cộng sản đảng đợc thành lập tại căn
phòng số 1, lầu 2 Phong cảnh khách lâu ở đờng Bônác Philippin Sài Gòn. Hội
nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí Châu Văn
Liêm (tức Việt), Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn
Sĩ Sách do đồng chí Châu Văn Liêm làm bí th.
Sau Đông Dơng cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân
Việt cách mạng đảng chịu ảnh hởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dơng cộng sản liên đoàn vào ngày
1 tháng 1 năm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chơng, Nguyễn Khoa Văn
(tức Hải Triều), Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đề, Ngô Đình
Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội cha kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền
3
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
Pháp bắt. Do vậy, Đông Dơng cộng sản liên đoàn ra đời những cha có Ban chấp
hành trung ơng.
Đông Dơng cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng sau khi ra đời đã có sự
tranh giành ảnh hởng, tranh giành quần chúng và công kích lẫn nhau. Đây là
những mâu thuẫn trong quá trình phát triển và đi lên của phong trào cộng sản
Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ va khuynh hớng biệt phái, tiểu t sản
trong phong trào công nhân và phong trào yêu nớc.
Những ngời cộng sản và những ngời yêu nớc chân chính đều nhận thấy cần
phải sớm khắc phục tình trạng trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
2. Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930
Đợc sự uỷ nhiệm của quốc tế cộng sản, mùa thu năm 1929, đồng chí Nguyễn
ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hơng Cảng chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ hợp nhất
các phần tử cộng sản chân chính lại để thành lập một đảng duy nhất. Từ ngày 3
đến 7/2/1930 , hội nghị hợp nhất đợc tiến hành tại nhà một công nhân ở xóm thợ
đờng Cửu Long gần Hơng Cảng (Trung Quốc). Tham dự hội nghị có các đồng
chí Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dơng cộng sản
đảng; Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm, đậi biểu của An nam cộng sản đảng.
Hội nghị tiến hành dới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của
Quốc tế cộng sản.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trơng, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành
ý kiến của đồng chí Nguyễn ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành
một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua
Chính cơng vắn tắt, Sách lợc vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt
Nam do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự thảo. Hội nghị còn thông qua Lời kêu gọi
của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản
Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả
nớc nhân dịp thành lập Đảng.
Ngày 24 tháng 2 năm 1930, hai đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu
thay mặt quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt thay mặt Ban
chấp hành trung ơng lâm thời cung với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí th lâm thời chấp
uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dơng cộng sản
liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
4
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
Nh vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức
cộng sản ở Đông Dơng đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng
cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 năm 1930 có ý
nghĩa nh Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đờng lối cách mạng
và đờng lối xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nớc
thuộc địa nửa phong kiến. Đờng lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để
ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ
mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đờng lối chiến lợc đúng đắn là sự cổ vũ
to lớn cho phong trào cách mạng đang ở thời kỳ sôi sục. Đờng lối của Đảng đợc
công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lợng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Chính cơng vắn tắt, Sách lợc vắn tắt và Lời kêu gọi đợc Hội nghị hợp nhất
thông qua là Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng.
Chơng II
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng
1.Cơng lĩnh đầu tiên thể hiện qua Chính cơng vắn tắt của Đảng
Chính cơng vắn tắt của Đảng nhận định rằng Việt Nam là một xứ thuộc
địa, nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển vì t bản Pháp hết sức
ngăn trở sức sinh sản, lại làm cho công nghệ bản xứ không thể nào mở
mang đợc.
Kinh tế nông nghiệp chiếm u thế, nông nghệ ngày một tập trung đã phát
sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Tình hình đó đa đến
5
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có công
nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai
của chúng. Đánh giá hai giai cấp t sản và địa chủ là những đối tợng cần xoá
bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: T bản bản xứ không có thế lực gì, ta không
nên nói cho họ đi về phe đế quốc đuợc, chỉ có bọn đại địa chủ mới có thế
lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó,
nhân dân Việt Nam phải làm t sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đây là một thể loại cách mạng vô sản ở
các nớc thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả Quốc tế cộng sản
cũng cha nói đến. Sau này, Đảng ta hoàn chỉnh tên gọi của thể loại cách
mạng này là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lợc
và tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục
đích cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản ở Việt Nam.
Theo t tởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng t sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận
động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất
nớc độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động
này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hởng và thúc đảy lẫn nhau, cuộc vận
động trớc thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi.
Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội không có bức tờng nào ngăn cách, không phải tiến hành
một cuộc cách mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề chính quyền
nh cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách
mạng thế giới, thấu suốt con đờng phát triển tất yếu của cách mạng Việt
Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng là giơng cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
6
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
Nhiệm vụ cách mạng mà Cơng lĩnh vạch ra là đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, bọn phong kiến, làm cho nớc Việt Nam đợc hoàn toàn độc
lập, Tổ chức ra quân đội công nông, Thu hết sản nghiệp lớn của t bản
đế quốc, Thu hết ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công
cách mạng đem chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo,
đem mọi quyền tự do cho dân chúng, thực hiện ngày làm 8 giờ, mở
mang công nghiệp và nông nghiệp, thực hành giáo dục toàn dân, thực
hiện nam nữ bình quyền v.v
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã
hội chủ nghĩa. Song nổi bật nhất là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của
chúng (đại địa chủ, đại t sản phản cách mạng và vua quan phong kiến)
giành độc lập, tự do, dân chủ chon toàn dân tộc.
Về lực lợng cách mạng, Cơng lĩnh của Đảng chủ trơng đoàn kết tất cả
các giai cấp cách mạng, các lực lợng tiến bộ và cá nhân yêu nớc, tập trung
lực lợng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và
tay sai, mở đờng cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Về vấn đề ruộng đất, xơng sống của cách mạng thuộc địa, Đảng chủ
trơng tiến hành từng bớc với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ
cách mạng. ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn
điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia
cho nông dân nghèo, hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ đại cách
mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đối với chủ nghĩa t bản
thì thu hết sản nghiệp lớn ( nh công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của t
bản đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông binh. Đối với các tầng
lớp phú nông, trung tiểu địa chủ và t sản Việt Nam cha rõ mặt phản cách
mạng, thì sử dụng, ít nhữnữa là làm cho họ trung lập. Sau khi cách mạng
giải phóng dân tộc giành thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng
sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và
phân phối lợi nhuận giữa những nhà t sản và những ngời vô sản một cách
công bằng hơn.
2.Cơng lĩnh đầu tiên thể hiện qua Sách lợc vắn tắt của Đảng
Trong khi khẳng định công nông là gốc cách mạng, Sách lợc vắn tắt
của Đảng vạch rõ phải hết sức liên lạc với tiểu t sản, trí thức, trung nông
7
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
( Thanh niên, Tân Việt, phái Nguyễn An Ninh v.v.) để lôi kéo họ về phe vô
sản giai cấp.
Về nguyên tắc liên minh, Sách lợc vắn tắt đã viết : Trong khi liên lạc
tạm thời với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhợng bộ một
chút lợi ích gì của công nông đi vào đờng lối thoả hiệp.
Cơng lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo
lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng
con đờng cải lơng.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới,
đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công
nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lợc
vắn tắt ghi rõ: Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nớc Việt Nam độc
lập, lại phải đồng thời tuyên truyền vừa thực hành liên lạc với giai cấp bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp.
Cơng lĩnh đầu tiên cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng thu phục cho đợc đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo đợc dân chúng, phải thu phục cho đợc đại đa số dân cày
và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại đại chủ, phong kiến ,
đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nớc
khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giải phóng dân tộc và để đi
tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Chơng III
Đánh giá, kết luận và bài học kinh nghiệm
8
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nớc thuộc địa, giai cấp công nhân
chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có cơng lĩnh cách mạng đúng đắn ngay từ đầu.
Điều đó chứng minh rằng Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu
tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc
một cách sáng tạo; gắn chủ nghĩa yêu nớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế
vô sản, phát huy đợc truyền thống yêu nớc, đánh giá đúng vị trí của từng
giai cấp cách mạng, đoàn kết đợc các lực lợng yêu nớc, nhờ đó mà Đảng đã
nắm đợc quyền lãnh đạo cách mạng.
Cơng lĩnh đầu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học
thuyết Mác-Lênin, đờng lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách
mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nớc ta, là sự thể hiện tập trung t tởng cơ
bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nớc thuộc địa nửa phong kiến.
Tuy nhiên, tại Hội nghị Ban chấp hành trung ơng Đảng tháng 10 năm
1930 đã phê phán những sai lầm của Hội nghị hợp nhất và quyết định
thủ tiêu Chính cơng vắn tắt, Sách lợc vắn tắt và Điều lệ của Đảng, thông
qua Luận cơng chính trị theo tinh thần chỉ thị của Quốc tế cộng sản, đổi tên
đảng là Đảng cộng sản Đông Dơng.
Sở dĩ có vấn đề cha thống nhất giữa cơng lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành
lập Đảng vạch ra với Luận cơng chính trị và các văn kiện của Hội nghị
trung ơng Đảng tháng 10 năm 1930 là không chỉ do kết hợp hay tách rời
yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do xác nhận đúng hay cha đúng
vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể nớc ta. đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, đánh giá đúng hơn và
đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán nhng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự
đúng đắn, sáng tạo của cơng lĩnh đầu tiên.
Sau 30 năm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết Cơng lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha
của đại đa số nhân dân ta Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết đợc những lực lợng
cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các
giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo
9
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng đợc sự củng cố và
tăng cờng.
Đờng lối chiến lợc và sách lợc cách mạng của Đảng đợc thể hiện trong
Chính cơng vắn tắt, Sách lợc vắn tắt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng
và toàn dân.Cơng lĩnh đầu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực
lợng và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng đợc thành lập.
Thực tiễn cách mạng nớc ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng
tạo của những t tỏng chiến lợc và sách lợc trên đây của đồng chí Nguyễn ái
Quốc . Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định:
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng và
kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong
giai đoạn hiện nay.
Tài liệu tham khảo
1) Bộ GD-ĐT(1992), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản
Giáo Dục- Hà Nội
2) Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh-Khoa Lịch sử Đảng(1995), Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -Hà Nội
3) Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ơng(1977), Văn kiện Đảng 1930-1935,
Hà Nội
10