Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Nội dung và ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.28 KB, 30 trang )

A. Mở đầu
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong có tổ chức là tổ chức cao nhất
của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng là ngời kế thừa nâng lên tầm cao mới
truyền thống của dân tộc kết hợp giá trị tinh thần Việt Nam với chủ nghĩa Mác-
Lênin, chủ nghĩa yêu nớc với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, t
tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng. Ngay từ khi mới ra đời Đảng đã trở thành ngời lãnh đạo duy nhất cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con ngời, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Vì mục đích vĩ đại
của dân tộc là độc lập tự do. Đảng là ngời đại biểu trung thành cho lợi ích cao nhất
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Hồ Chí Minh đã nói: Không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân
và của tổ quốc. Vì vậy, Đảng ta đã trở thành hình thức tổ chức cao nhất của
quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lơng tâm của dân tộc.
Đảng đợc nhân dân tin tởng, coi là đội tiên phong giác ngộ của mình.
Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam đợc thành lập. Từ khi ra đời đến
nay Đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội bằng Cơng lĩnh, chiến lợc, các
định hớng về chính sách và chủ trơng công tác, bằng tuyên truyền, thuyết phục vận
động, tổ chức và kiểm tra, bằng hành động tiên phong gơng mẫu của đảng viên, tr-
ớc hết là cơng lĩnh, chiến lợc cách mạng. Cơng lĩnh và chiến lợc cách mạng của
Đảng đợc xây dựng dới ánh sáng của lý luận Mác-Lênin và t tởng nhân văn truyền
thống Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nớc và quốc tế qua mỗi
thời kỳ cách mạng. Đảng luôn vận dụng lý luận vào thực tiễn, kết hợp những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin với tinh hoa truyền thống văn hoá dân tộc.
Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng của nhân dân ta thắng lợi bằng việc
hoạch định ra cơng lĩnh.
Các cơng lĩnh cách mạng của Đảng xác định các nguyên tắc và phơng hớng
chính trị, cùng với các chủ trơng, chính sách của Đảng phản ánh ngày càng đúng
đắn quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.


1
Cơng lĩnh là sự kết hợp lý luận Mác-Lênin với thực tiễn của đất nớc, là sự kết
hợp t tởng nhân văn truyền thống Việt Nam với chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã từng nói: Đảng đã truyền bá lý luận Mác-Lênin vào trong
nhân dân ta, có lý luận soi đờng thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát
triển đợc tài năng và lực lợng vô cùng tận của mình; Đảng kết hợp lý luận với kinh
nghiệm và thực hành của cách mạng Việt Nam; Đảng áp dụng lập trờng, quan điểm
và phơng pháp Mác-Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt
Nam; Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ
lịch sử xã hội phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tởng vào
lực lợng và sáng kiến của quần chúng, phải gom góp t tởng, kinh nghiệm, sáng kiến
và ý chí của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào quần
chúng.
Chính nhờ có chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng t tởng, có cơng lĩnh, đờng
lối và chính sách cách mạng đúng đắn, sáng tạo nên Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trở thành đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Đảng thật sự là hiện thân của trí tuệ, danh dự và lơng tâm của
dân tộc. Dới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đợc nhân dân tin tởng và thừa nhận là đội tiên phong của mình. Vì
vậy, phát huy đợc nội lực của dân tộc. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc
tế, không ngừng tiến lên giành đợc những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính
thời đại sâu sắc.
2
B. Nội dung
Chơng I: Hoàn cảnh lịch sử ra đời
Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1. Sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam 1925 1929.
- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và lần thứ hai của thực dân Pháp cùng
những chính sách khai thác với quy mô ngày càng rộng lớn đã làm cho xã hội Việt

Nam có những biến đổi hết sức to lớn để bù đắp những tổn thất nặng nề trong chính
trị thế giới thứ nhất đã làm cho xã hội Việt Nam có biến đổi hết sức to lớn. Mặc dù là
một nớc thắng trận thế nhng nớc Pháp vẫn phải chịu những tổn thất vô cùng to lớn về
kinh tế và tài chính. Hàng loạt các nhà máy, cầu cống, đờng xá và làng mạc trên khắp
đất nớc bị tàn phá, nhiều ngành sản xuất công nghiệp bị đình trệ, hoạt động thơng
mại thì bị sa sút nghiêm trọng. Sau chiến tranh nớc Pháp đã trở thành một con nợ lớn
của các nớc đặc biệt là của Mỹ. Đến năm 1920 số nợ đã lên tới 300 tỷ phơrăng, hàng
triệu phơrăng của Pháp đầu t ở nớc ngoài cũng bị phá huỷ.
Do tình hình đất nớc nh vậy và để nhanh chóng hàn gắn vết thơng chiến
tranh, khôi phục nền kinh tế. Thực dân Pháp đã một mặt ra sức đẩy mạnh sản xuất
và bóc lột nhân dân lao động ở trong nớc, mặt khác lại tăng cờng đầu t khai thác
bóc lột nhân dân các nớc thuộc địa, ở Đông Dơng và Châu Phi.
Những chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. xã hội Việt Nam
đã biến đổi rõ rệt. Từ một xã hội phong kiến độc lập (mọi quyền hành đều tập trung
trong tay triều đình phong kiến nhà Nguyễn) thành nớc thuộc địa nửa phong kiến
(mọi quyền lực nằm trong tay thực dân Pháp, còn triều đình phong kiến nhà
Nguyễn chỉ là bù nhìn, tay sai. Thực dân Pháp không xoá bỏ bộ máy cai trị phong
kiến mà vẫn sử dụng nó để làm công cụ cai trị và bó lột nhân dân ta).
Về kinh tế: Nền kinh tế nớc ta phát triển một cách què quặt do chính sách
đầu t của thực dân Pháp.
Nông nghiệp là ngành đợc thực dân Pháp chú trọng đầu t, khai thác nhiều
hơn cả từ 52 triệu phơrăng năm 1924 lên đến 400 triệu phơrăng năm 1927.
Với số vốn đầu t đó thì Pháp ra sức cớp đoạt ruộng đất của nhân dân ta để lập
đồn điền và vẫn thực hiện phơng thức canh tác, bóc lột phong kiến. Tuy nhiên các
kỹ thuật, phơng thức canh tác mới lại không đợc áp dụng nên tốc độ phát triển của
nền nông nghiệp nớc ta thời kỳ này vẫn tơng đối thấp.
Cùng với nông nghiệp, các ngành công nghiệp nớc ta cũng đợc tăng cờng
đầu t vốn và mở rộng quy mô sản xuất. T bản Pháp tiếp tục đẩy mạnh đầu t khai
3
thác mỏ và xuất khẩu nguyên liệu thôn. Pháp tập trung trớc hết vào khai thác than,

vì vậy mà chúng đẩy mạnh việc thăm dò khoáng sản ở Việt Nam. Ngoài than đá,
chúng còn tăng cờng vào các cơ sở khai thác thiếc, kẽm, sắt, chì, Apatít và đem
xuất khẩu chứ không sử dụng để chế biến ở Việt Nam. Vì nếu để chế biến ở Việt
Nam thì các ngành công nghiệp ở thuộc địa sẽ phát triển và cạnh tranh với ngành
công nghiệp ở chính quốc. Bên cạnh công nghiệp khai khoáng thì các ngành công
nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến vào thời kỳ này cũng khá phát triển. Tất cả các
cơ sở công nghiệp chế biến đều đợc nâng cấp và mở rộng quy mô sản xuất. Tuy
nhiên một ngành công nghiệp nặng (công nghiệp luyện kim, cơ khí) với đầy đủ tính
chất của nó thì lại cha thật sự đợc ra đời. Công nghiệp Việt Nam vẫn là một nền
công nghiệp dịch vụ và phục vụ, chủ yếu sản xuất các hàng tiêu dùng và cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chính quốc nên chịu sự lệ thuộc nặng nề vào thực dân
Pháp và thị trờng nớc ngoài.
Giao thông vận tải cũng tiếp tục đợc tăng cờng đầu t vốn và các trang thiết bị
để nhằm mục đích phục vụ cho những chính sách khai thác và bóc lột của thực dân
Pháp, thời gian này chính quyền thực dân đã cho xây dựng thêm một số đoạn trên
con đờng sắt xuyên Đông Dơng nh: các đoạn đờng Vinh - Đông hà, Đồng Đăng
Na Sầm. Đến 1931 thực dân Pháp đã xây dựng đợc 2389 km đờng sắt trên lãnh thổ
nớc ta. Chúng đã cho xây dựng nhiều các tuyến giao thông đờng bộ liên tỉnh và nội
tỉnh. Đến 1930 đã mở đợc gần 15.000km đờng quốc lộ và đờng liên tỉnh. Các hải
cảng đồng thời cũng đợc nạo vét, củng cố, xây dựng thêm nh cảng Hải Phòng, cảng
Sài Gòn. Giao thông đờng thuỷ trên sông Hồng, sông Cửu Long cũng tiếp tục đợc
khai thác để sử dụng vào việc chuyên chở hàng hoá, hành khách.
Do việc tăng cờng đầu t phát triển kinh tế, ngành thơng nghiệp mà trớc hết là
ngoại thơng vào thời kỳ này có bớc tiến bộ rõ rệt so với thời kỳ trớc chiến tranh. Với
chính sách độc quyền ngoại thơng mà t bản Pháp đã tạo điều kiện đa hàng hoá của
Pháp tràn ngập thị trờng Việt Nam. Cán cân xuất nhập khẩu thời kỳ này tơng đối ổn
định thậm chí còn có xu hớng xuất siêu thế nhng nền kinh tế Việt Nam vẫn không
phát triển. Đời sống nhân dân lao động vẫn cực khổ do thực dân Pháp chỉ khai thác
và xuất khẩu các nguyên liệu thô, chế biến và lại đa sản phẩm tinh đã chế biến dó
bán cho nhân dân ta để thu lợi mà không mở các xí nghiệp, nhà máy ở nớc ta để chế

biến các nguyên liệu đã khai thác đợc. Vì làm nh vậy một số ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế biến sẽ phát triển ở nớc ta sẽ cạnh tranh với các ngành công
nghiệp ở chính quốc mà chúng thì lại rất sợ điều đó.
4
Thực dân Pháp đã đa các yếu tố của phơng thức sản xuất t bản vào nớc ta.
Tuy nhiên chúng lại không du nhập đầy đủ vì vậy mà nền kinh tế Việt Nam thời
thuộc địa phát triển mất cân đối, nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ bên cạnh nền
công nghiệp mỏng manh, yếu ớt. Kinh tế bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ
thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Về chính trị: Chịu sự chi phối của quá trình phát triển kinh tế đồng thời chịu
ảnh hởng trực tiếp của các chính sách xã hội do chính quyền thực dân phong kiến
thi hành.
Chúng chủ trơng tiếp tục thực hiện việc sử dụng giai cấp địa chủ và tay sai
ngời Việt vào việc cai trị thế nhng những thành phần này lại không có quyền hành
gì đáng kể và chỉ nh là một công cụ khai thác, bóc lột của thực dân Pháp mà mọi
quyền lực lại tập trung cả trong tay bọn chúng. Chúng bóp nghẹt tự do dân chủ,
không thi hành các chính sách tự do dân chủ đối với nhân dân ta. Chúng còn thẳng
tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong biển máu.
Chúng thực hành triệt để chính sách chia để trị: chia nớc ta thành 3 kỳ, mỗi kỳ lại
đặt một chế độ cai trị riêng, thi hành các chính sách chia rẽ dân tộc phân biệt chủng
tộc một cách trắng trợn. Tất cả ngời Pháp đều đợc u tiên trong mọi vị trí, mọi công
việc và thời gian. Còn ngời Việt thì bị coi thờng, khinh rẻ.
Về văn hoá - Giáo dục: Thi hành triệt để chính sách văn hoá nô dịch, gây
tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, ngăn cấm các
hoạt động yêu nớc của nhân dân ta, bng bít, ngăn chặn các ảnh hởng của nền văn
hoá tiến bộ trên thế giới vào nớc ta. Thực dân Pháp sử dụng vũ khí văn hoá để phục
vụ cho mục đích khai thác thuộc địa, tuyên truyền, ca ngợi văn minh Pháp nh là nền
văn minh cao nhất của phơng Tây
Tuy chúng ra sức tìm cách bng bít ảnh hởng của nền văn hoá tiến bộ trên thế
giới nhng các yếu tố văn hoá mới vẫn du nhập phần nào vào nớc ta. Vì vậy mà nền

văn hoá, giáo dục nớc ta cũng đã có sự phát triển mới mạnh mẽ.
Về xã hội: Do những chính sách cai trị, khai thác, bóc lột của thực dân Pháp
mà xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến hết sức rõ rệt. Tính chất xã hội thay
đổi: Chính sách cai trị phản động của thực dân Pháp đã làm cho tính chất xã hội
Việt Nam thay đổi từ xã hội phong kiến thuần tuý (mọi quyền lực tập trung trong
tay triều đình phong kiến nhà Nguyễn không phải chia sẻ cho ai) sang xã hội thuộc
địa nửa phong kiến (mọi quyền lực tập trung trong tay thực dân Pháp, triều đình
phong kiến nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn tay sai) đã làm cho mâu thuẫn xã hội và kết
5
cấu giai cấp trong xã hội cũng thay đổi theo. Trong lòng xã hội Việt Nam lúc này
hình thành những mâu thuẫn mới bên cạnh những mâu thuẫn vốn có từ trớc. Mâu
thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lợc và tay sai phản động. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên sâu sắc cùng với
những chính sách cai trị phản động của thực dân Pháp. Trái lại là sự xung đột, đấu
tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ dân tộc lại đợc giảm thiểu và
không quyết liệt nh cuộc đấu tranh dân tộc.
Cùng với sự thay đổi mâu thuẫn xã hội là sự thay đổi kết cấu giai cấp ngoài 2
giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân đã tồn tại từ lâu trong lòng xã hội Việt
Nam thì một số giai cấp, tầng lớp xã hội mới xuất hiện. Giai cấp địa chủ phong kiến
đợc củng cố và phân hoá thành 3 bộ phận là Đại địa chủ, Trung, Tiểu địa chủ.
Giai cấp nông dân: Là thành phần chiếm đại đa số trong xã hội khoảng 90%
dân số trong quá trình sản xuất, giai cấp nông dân cũng bị phân hoá dần thành 3
tầng lớp: Trung nông, bần nông và cố nông.
Tầng lớp trung nông có tơng đối đủ ruộng đất và các công cụ sản xuất nh:
Trâu, bò, nông cụ để tự sản xuất và nuôi sống mình, không phải bán sức lao
động, nhng cũng không có khả năng tham gia vào việc bóc lột ngời khác. Còn một
số trung nông lớp dới vẫn phải bán sức lao động (tuỳ thời điểm) và một số tham gia
bóc lột qua việc cho lĩnh canh ruộng đất d hoặc phát canh lại ruộng lĩnh canh của
địa chủ nh ở Nam Kỳ.
Tầng lớp bần nông: Bao gồm những ngời thiếu ruộng đất canh tác; thiếu

trâu bò và nông cụ sản xuất nên phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, thuê mớn trâu
bò, nông cụ sản xuất và tiền vốn.
Tầng lớp cố nông: Là tầng lớp nghèo khổ nhất, bần cùng nhất trong giai cấp
nông dân. Họ thờng không có ruộng đất để cày cấy, không có trâu bò và nông cụ để
sản xuất. Vì vậy, nguồn sống chính của họ là lĩnh canh ruộng đất, đi làm thuê, làm
mớn, đi ở cho nhà giàu.
Bên cạnh các tầng lớp và giai cấp đại diện cho xã hội Việt Nam truyền thống,
những giai cấp mới cũng có sự phát triển và phân hoá rõ rệt hơn.
Giai cấp t sản: Hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Trớc chiến tranh thế giới thứ nhất, t sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp
nhỏ bé, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực thơng nghiệp, hoạt động sản xuất còn
hạn chế. Sau chiến tranh, t sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong
điều kiện bị t bản Pháp chèn ép, nên số lợng t sản Việt Nam không nhiều, thế lực
6
kinh tế nhỏ bé, chính trị yếu đuối. Trong quá trình phát triển, t sản Việt Nam phân
hoá thành hai bộ phận t sản dân tộc và t sản mại bản.
T sản mại bản là t sản lớn, có quyền lực kinh tế gắn liền với đế quốc. Bộ
phận này ngày càng đông đảo cùng với tốc độ đầu t của t bản Pháp nên là tầng lớp
đối lập với dân tộc. Còn t sản dân tộc chiếm số đông hơn muốn phát triển chủ nghĩa
t bản của dân tộc Việt Nam, nhng bị t sản Pháp chèn ép nên không thể phát triển đ-
ợc. Họ có mâu thuẫn với thực dân và phong kiến. Họ là lực lợng cách mạng không
thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Nhìn chung, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp t sản Việt Nam đã lớn
mạnh và trởng thành rõ rệt. Tuy nhiên, địa vị kinh tế của t sản Việt Nam còn rất nhỏ
yếu và thấp kém so với t bản nớc ngoài.
Giai cấp tiểu t sản Việt Nam: Bao gốm các bộ phận khác nhau nh: tiểu th-
ơng, tiểu chủ, thợ thủ công, học sinh, trí thức nhìn chung địa vị kinh tế còn bấp
bênh, bị đế quốc và phong kiến khinh rẻ, bóc lột nặng nề. Cho nên có mâu thuẫn
với đế quốc phong kiến, hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức rất nhạy
cảm với thời cuộc, dễ tiếp thu cái mới, cái tiến bộ. Khi đợc thức tỉnh, họ đóng vai

trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng. Tiểu t sản là một lực l-
ợng cách mạng quan trọng.
Giai cấp công nhân ngày càng đông đảo thêm theo đà phát triển đầu t vào
các ngành kinh tế. Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng. Giai cấp công
nhân Việt Nam đã hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp,
đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đã phát triển nhanh chóng từ 10 vạn năm
1941 lên 22 vạn năm 1929.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn trẻ, chiếm số lợng ít trong tổng số dân,
trình độ thấp, nhng sống khá tập trung tại các thành phố, các trung tâm công
nghiệp. Nên đã sớm giác ngộ đợc ý thức giai cấp và nhanh chóng vơn lên nắm lấy
ngọn cờ lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Các phong trào đấu tranh do
giai cấp công nhân tổ chức tham gia ngày càng nhiều. ý thức giác ngộ cách mạng
của giai cấp công nhân ngày càng đợc nâng cao theo đà của các cuộc đấu tranh và
của việc tăng cờng tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lợng xã hội tiên tiến, đại diện cho phơng
thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng
triệt để, lại mang bản chất quốc tế, bị thực dân Pháp chèn ép, bóc lột nên mâu thuẫn
7
với thực dân Pháp. Họ là động lực cách mạng mạnh mẽ và quan trọng nhất. Khi đợc
tổ chức lại, đợc trang bị lý luận tiên phong - chủ nghĩa Mác-Lênin thì giai cấp công
nhân sẽ trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.
Phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân ta thời kỳ này đã phát triển rất
mạnh mẽ và nó đặt ra một yêu cầu cấp bách là đòi hỏi phải có một tổ chức thống nhất,
một chính Đảng để đứng ra lãnh đạo phong trào của quần chúng đi đến thắng lợi.
Chiến tranh thế giới thứ nhất cùng với những hậu quả hết sức nặng nề mà nó
đã để lại cho toàn nhân loại khoảng 10 triệu ngời chết và 20 triệu ngời tàn phế do
chiến tranh. Các khoản chi trực tiếp cho chiến tranh của các nớc tham chiến đã lên
tới hơn 200 tỷ đô la. Chiến tranh đã tàn phá hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp, nhà
cửa, trờng học, đờng giao thông đồng thời đẩy nhiều n ớc t bảo vào tình trạng suy

kiệt về tài chính.
Các nớc thắng và bại trận của hai phe đồng minh đã họp tại Vecxây để phân
chia quyền lợi và ảnh hởng của mình trên phạm vi toàn thế giới.
Đầu những năm 20 trở đi, các nớc t bản bớc vào thời kỳ khôi phục và phát
triển kinh tế. Đây là thời kỳ ổn định cục bộ và tạm thời của chủ nghĩa t bản.
Chiến tranh thế giới đã làm thay đổi vị trí và tơng quan lực lợng giữa các nớc
đế quốc, đồng thời nó còn đa đến một hệ quả ngoài ý muốn của tất cả các nớc t bản.
Đó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời Nga năm 1917 thắng lợi dẫn đến
sự ra đời của Nhà nớc công nông đầu tiên trên thế giới.
Với thắng lợi của cách mạng tháng Mời Nga, hệ thống các nớc đế quốc chủ
nghĩa thế giới đã bị phá vỡ, và con đờng cách mạng vô sản đã đợc khai thông, nối
liền từ Tây sang Đông, ảnh hởng sang các nớc phơng Đông. J.Xtalin viết: Cách
mạng tháng Mời đã mở đầu một thời đại mới, thời đại cách mạng vô sản trong các
nớc đế quốc chủ nghĩa Cách mạng tháng M ời đã mở đầu một thời đại mới, thời
đại cách mạng thuộc địa, các nớc bị áp bức trên thế giới liên minh với giai cấp vô
sản dới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Cách mạng tháng Mời đã làm cho vấn đề
dân tộc trớc kia là một vấn đề hẹp hòi, cục bộ giữa các dân tộc văn minh Châu Âu
trở thành một vấn đề rộng lớn bao gồm các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu
tranh giải phóng khỏi ách áp bức chủ nghĩa. Cách mạng tháng Mời đã bắc một cái
cầu gắn liền cách mạng vô sản phơng Tây và cách mạng giải phóng dân tộc phơng
Đông lập thành một mặt trận cách mạng rộng lớn của giai cấp vô sản và các dân
8
tộc bị áp bức trên toàn thế giới dới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc
(1)
.
Dới ảnh hởng trực tiếp của cách mạng tháng Mời Nga và cuộc chiến tranh
thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống đế quốc ở các nớc t bản phơng Tây đã
dâng lên mạnh mẽ, sôi nổi nh: các cuộc đấu tranh của công nhân ở Anh, Pháp, ý,
Mỹ, Phần Lan, Hunggari nổ ra khá rầm rộ. Cách mạng tháng M ời là cuộc cách

mạng triệt để nhất đã chứng minh cho sự đúng đắn của con đờng cách mạng vô sản.
Nó tác động rất lớn đến phong trào cách mạng Việt Nam. Nó có tác động cổ vũ,
động viên, lôi kéo và mở ra con đờng hoàn toàn mới cho phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nớc thuộc địa.
Do sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng từ năm 1918 trở đi tại
nhiều nớc Châu Âu, các Đảng Cộng sản đã lần lợt đợc thành lập. Trớc yêu cầu mới
của sự nghiệp cách mạng, tháng 3/1919 Quốc tế cộng sản - đội tham mu chiến đấu
của giai cấp vô sản Quốc tế đã ra đời. Và ngay sau khi đợc thành lập Quốc tế III đã
tiến hành tuyên truyền t tởng Cộng sản, đồng thời đề ra đờng lối, phơng hớng và
trực tiếp chỉ đạo, giúp đỡ các nớc thuộc địa và phụ thuộc trong cuộc đấu tranh
chống ách nô dịch của chủ nghĩa t bản phơng Tây.
Tháng 3 năm 1919 khởi nghĩa của nhân dân Triều Tiên chống Nhật bùng nổ.
Tháng 5 năm 1919 phong trào ngũ tứ đã nổ ra và lan rộng khắp Trung
Quốc. Phong trào này mang tính chất dân tộc dân chủ, thu hút đợc hàng triệu ng-
ời tham gia.
Sau khi trở thành ngời Cộng sản (Bác tham gia Đại hội Tua và bỏ phiếu ủng
hộ Quốc tế III) và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đờng cứu nớc đúng đắn của
dân tộc. Nguyễn ái Quốc một mặt tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp,
tiếp tục nghiên cứu, học tập, bổ sung t tởng, con đờng cứu nớc của mình, một mặt
tìm mọi cách truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nớc, chuẩn bị những điều
kiện t tởng chính trị, tổ chức cho sự ra đời của chính đảng cách mạng.
Ngày 21/1/1924 Lênin mất, Nguyễn ái Quốc đi viếng Lênin và các dân tộc
thuộc địa. Khi còn sống, Ng ời là Ngời cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của
chúng ta. Ngày nay, Ngời là ngôi sao sáng chỉ đờng cho chúng ta đi tới cuộc cách
mạng xã hội.
(1)

Xtalin (J). Những vấn đề chủ nghĩa Lênin, Nxb Sự thật, H.1959.
9
Nguyễn ái Quốc ở lại Liên Xô một thời gian, làm việc tại Bộ phơng Đông

của Quốc tế Cộng sản và viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên
Xô, viết cho tạp chí Th tin quốc tế của Quốc tế Cộng sản để tiếp tục trình bày
những ý kiến của mình về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nớc thuộc địa. Tham
gia Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản (họp từ 17/6 đến 8/7/1924) sau đó dự
các cuộc Hội nghị Quốc tế công hội, thanh niên, phụ nữ
Sau khi ở lại Liên Xô một thời gian để nghiên cứu chế độ Xô Viết và kinh
nghiệm xây dựng Đảng theo học thuyết của Lênin. Nguyễn ái Quốc về đến Quảng
Châu (Trung Quốc) vào giữa tháng 12/1924. Với cái tên là Lý Thuỵ Ngời đã đi
bán báo, bán thuốc là để có tiền sinh sống và hoạt động cách mạng, tiếp xúc với các
nhà cách mạng Việt Nam, Ngời xúc tiến việc chuẩn bị về chính trị, t tởng và tổ
chức để thành lập một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.
Ngời mở các lớp huấn luyện chính trị để đào tạo những cán bộ cách mạng rồi
cho về nớc để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin trong giai cấp công nhân và nhân dân
ta. Ngời sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, một tổ chức tiền
thân của Đảng, xuất bản tờ báo Thanh niên cơ quan của Tổng bộ thanh niên.
Ngời còn tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông,
trong đó có Chi hội Việt Nam, để thống nhất hành động chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.
Tập hợp các bài giảng trong các lớp huấn luyện ở Quảng Châu in thành cuốn
sách Đờng Cách mệnh do Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở
á Đông xuất bản. Trong đó Bác vạch rõ đờng lối chiến lợc và sách lợc của cách
mạng Việt Nam.
Tháng 4 năm 1927, bọn Tởng Giới Thạch mở cuộc phản biến ở Quảng Châu,
Nguyễn ái Quốc đi Liên Xô, dự Hội nghị chống chiến tranh đế quốc họp ở Bơ-
ruých-xen (Bỉ). Sau đó Ngời qua các nớc Đức, Thuỵ Sĩ, ý, Thái Lan
Từ mùa thu năm 1928, Ngời hoạt động ở Thái Lan, đào tạo cán bộ, tuyên
truyền, giáo dục, tổ chức việt kiều, cho xuất bản tờ Thân ái , dùng làm cơ quan
tuyên truyền cách mạng trong kiều bào và gửi về nớc.
Do chịu tác động của trào lu t tởng mới, nhất là t tởng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, phong trào cách mạng của dân tộc Việt Nam sau chiến tranh đã dâng lên sôi

nổi và phát triển đến đỉnh cao vào những năm 1925 1926. Từ trong cao trào đấu
tranh yêu nớc ấy đã dần xuất hiện các tổ chức tiến bộ và cách mạng, tiêu biểu là
10
Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, Tân Việt cách mạng Đảng và
Việt Nam Quốc dân Đảng. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng này đánh dấu bớc
phát triển mới của phong trào dân tộc, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy công cuộc
giải phóng đất nớc tiếp tục tiến lên.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Ngay từ giữa những năm 1923, trớc khi dời Pháp đi Liên Xô Bác đã gửi th
cho các bạn cùng hoạt động và nói rõ ý định của mình là: Đối với tôi, câu trả lời
đã rõ ràng: trở về nớc, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập
(1)
.
Tháng 11 năm 1924 Nguyễn ái Quốc trở về Quảng Châu (Trung Quốc) để
xúc tiến việc chuẩn bị cho sự ra đời của một chính Đảng Mác-xít ở Việt Nam.
Sau khi về Quảng Châu, Nguyễn ái Quốc tìm hiểu tình hình hoạt động của
những ngời yêu nớc Việt Nam đang sinh sống tại đây. Ngời tìm gặp nhóm thanh
niên yêu nớc trong tổ chức Tâm tâm xã và chọn một số thanh niên tích cực trong
Tâm tâm xã, tổ chức tuyên truyền, giác ngộ họ.
Tháng 6 năm 1925, Nguyễn ái Quốc thành lập một tổ chức cách mạng có
tính chất quần chúng rộng rãi hơn là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và công
bố chơng trình, điều lệ thể hiện lập trờng chính trị, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của hội.
Sau khi thành lập, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phái ngời về nớc vận
động, lựa chọn và đa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, huấn
luyện, và bồi dỡng về chính trị, tổ chức và cho xuất bản tờ báo thanh niên làm công
cụ truyền bá t tởng Mác-Lênin và cơ quan phát ngôn của hội. Nhờ đó t tởng cách
mạng đợc truyền bá mạnh mẽ vào trong nhân dân, góp phần quan trọng chuẩn bị về
mặt t tởng, chính trị cho sự ra đời của một chính Đảng Cộng sản ở nớc ta.

Khác với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Tân Việt cách mạng Đảng là
một tổ chức yêu nớc đã trải qua nhiều thay đổi, cải tổ mà tiền thân của nó là Hội
Phục Việt đợc thành lập ngày 14/7/1925 tại Vinh (Nghệ An).
Ngoài công tác giáo dục, huấn luyện đảng viên, Tân Việt cách mạng đảng
còn tiến hành nhiều hoạt động nh lập các lớp học ban đêm, phổ biến các sách báo
Mác-xít góp phần quan trọng vào việc khơi dậy lòng yêu n ớc, truyền bá t tởng
cách mạng trong các tầng lớp nhân dân.
(1)

Hồ Chí Minh, toà tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tập 1, tr.174.
11
Bên cạnh hai tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách
mạng Đảng còn có tổ chức Việt Nam quốc dân Đảng là tổ chức tiêu biểu nhất của
khuynh hớng cách mạng dân chủ t sản ở nớc ta trong những năm 20. Với hoạt động
chủ yếu là xây dựng lực lợng và phát triển cơ sở của Đảng ở các địa phơng mà ít
chú trọng tới công tác tuyên truyền và huấn luyện đảng viên.
Phong trào cách mạng thời kỳ này phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt là phong
trào công nhân.
Từ năm 1925 do có sự xuất hiện và tăng cờng hoạt động của tổ chức cách
mạng Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, các t tởng của cách mạng tháng Mời
Nga mà chủ nghĩa Mác-Lênin (chủ nghĩa cộng sản) đã đợc truyền bá sâu rộng vào
trong công nhân và nhân dân lao động. Nhờ vậy, phong trào công nhân ngày càng
phát triển mạnh mẽ và chuyển biến nhanh về chất. Các cuộc bãi công, đình công
liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi. Chỉ trong hai năm 1926 1927 đã nổ ra 27 cuộc đấu
tranh của công nhân. Tiêu biểu nh: Bãi công của công nhân Bu điện Sài Gòn, công
nhân đồn điền Cam Tiên, công nhân dệt Nam Định (1926), đấu tranh của công
nhân đồn điền ở Đà Lạt, Thái Nguyên (1927) Các cuộc đấu tranh này nhằm vào
hai mục tiêu chung là đòi tăng lơng từ 20% - 40% và đòi thực hiện ngày làm 8 giờ
nh công nhân bên Pháp.
Điều này chứng tỏ rằng công nhân không còn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề

vào các yêu cầu và lợi ích cục bộ, địa phơng nữa mà đã biết chú ý đến lợi ích chung
của giai cấp, bằng cách đề ra các yêu sách phù hợp về cơ bản với nguyện vọng của
đông đảo công nhân.
- Năm 1928, phong trào vô sản hoá của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên và Tân việt cách mạng Đảng đã có tác động thúc đẩy và nâng cao nhanh chóng
ý thức giác ngộ và lập trờng cách mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy mà phong
trào công nhân đã nổ ra mạnh mẽ, sôi nổi, và đều khắp ba kỳ trong cả nớc. Số lợng
các cuộc đấu tranh của công nhân trong hai năm 1928 1929 đã tăng gấp 25 lần
so với hai năm 1926 1927 lên tới 40 cuộc. Trong đó, tiêu biểu là các cuộc bãi
công của công nhân mỏ than Mạo Khê (Quảng Ninh), công nhân nhà máy xi măng
Hải Phòng, công nhân nhà máy tơ Nam Định, nhà máy của Bến Thuỷ (Vinh), công
nhân đồn điền Lộc Ninh (1928) đấu tranh của công nhân hãng xe tay Hải Phòng,
dệt Nam Định, nhà máy xe Tràng Thi (Vinh), nhà máy Avia (Hà Nội), đồn điền cao
su Phú Riềng, hãng dầu Hải Phòng, đồn điền cao su Cam Tiên, nhà máy gang Hng
Kí (Bắc Ninh) (1929) Đặc biệt trong cuộc bãi công của 200 công nhân x ởng sửa
12
chữa ôtô Avia (Hà Nội) tháng 5/1929 đã có sự lãnh đạo của kì bộ Hội Việt Nam
cách mạng thang niên và Chi bộ cộng sản đầu tiên, mà ngời đóng vai trò chỉ đạo
trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự.
Để chỉ đạo công nhân đấu tranh, một uỷ ban bãi công đã đợc thành lập. Uỷ
ban bãi công đã phát truyền đơn kêu gọi công nhân và lao động Hà Nội hởng ứng
và ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Avia. Nhờ vậy cuộc bãi công đã nhận đợc
sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của công nhân nhiều nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn Hà
Nội và một số tỉnh xung quanh nh Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.
Tháng 7 năm 1929, Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ đợc thành lập và đã đề ra ch-
ơng trình, điều lệ, quyết định xuất bản tờ Lao động làm cơ quan ngôn luận của
mình. Sự kiện này đã vừa thể hiện bớc trởng thành của phong trào công nhân, vừa
tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức, có lãnh
đạo thống nhất.
Năm 1926 1929 nhìn chung phong trào công nhân đã có những bớc tiến

bộ so với trớc. Các cuộc bãi công nổ ra rầm rộ, sôi nổi và quyết liệt hơn. Những
cuộc đấu tranh tự phát giảm đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức, có
tổ chức với quy mô ngày càng lớn. Công nhân lúc này đấu tranh không chỉ nhằm
đòi các quyền lợi về kinh tế (nh tăng lơng, giảm giờ làm, đòi cải thiện điều kiện
sinh hoạt), mà còn nhằm cả mục đích chính trị (chống lại các chính sách áp bức bóc
lột của bọn chủ t bản và chính quyền thực dân phong kiến). Họ cũng đã đoàn kết
nhau lại để đấu tranh có phơng pháp, có tổ chức và có kế hoạch. Chính bọn thực
dân Pháp đã phải thừa nhận Từ đây, hành động tập thể của những ng ời lao động
đã thay thế cho những vụ âm mu của các hội kín.
Cùng với các cuộc đấu tranh ngày càng trở nên quyết liệt, giai cấp công nhân
còn có nhiều hoạt động biểu lộ tinh thần cách mạng, ý thức quốc tế của mình, nh tổ
chức mít tinh, treo cờ đỏ, rải truyền đơn tuyên truyền cách mạng trong các dịp kỉ
niệm ngày quốc tế lao động (1/5) và cách mạng tháng Mời Nga 7/11.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân ngày càng có sức thu hút,
lôi cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông dân, đi vào
cuộc đấu tranh chống đế quốc phong kiến.
Năm 1927 1929 đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của nông dân chống su cao
thuế nặng, chống các thủ đoạn cớp đoạt ruộng đất của bọn cờng hào ác bá. Điển
hình có cuộc đấu tranh của nông dân Bình Giang, Thanh Hà, Vĩnh Bảo, Từ Kỳ (Hải
Dơng), Tú Đôi, Kiến Thuy (Kiến An), Tam Sơn (Bắc Ninh). ở các tỉnh Thái Bình,
13
Nghệ An, ngoài các cuộc đấu tranh chống su cao thuế nặng, nông dân còn lập ra
các hội tơng tế, Hội hát, Hội lợp nhà, để đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc
khó khăn.
Phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân và các lớp thị dân
càng phát triển thì càng đòi hỏi phải có ngời tổ chức và lãnh đạo. Nhu cầu thành lập
một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lợng dân tộc và gánh vác vai
trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc đợc đặt ra và ngày càng trở nên bức xúc
đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
2. Hội nghị Hợp nhất thành lập Đảng.

Lúc này trên đất nớc ta đã có sự xuất hiện của 3 tổ chức Cộng sản là Đông
Dơng Cộng sản Đảng thành lập ngày 17/6/1929, An Nam Cộng sản Đảng thành lập
ngày 25/7/1929 và Đông Dơng Cộng sản Liên đoàn thành lập ngày (1/1/1930)
9/1929.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản này khẳng định bớc phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ hệ t tởng cộng sản đã giành đợc u thế trong
phong trào dân tộc. Sự kiện đó cũng chỉ ra rằng những điều kiện để thành lập Đảng
Cộng sản đã hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nớc.
Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản này đều tự nhận mình là Đảng cách mạng
chân chính và đều đa ra những biện pháp để vận động, lôi kéo quần chúng đi theo
tổ chức của mình, tranh giành ảnh hởng, công kích lẫn nhau.
Nếu tình hình đó cứ kéo dài sẽ gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong
trào cách mạng, vừa gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng.
Do vậy mà ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi cho những ngời Cộng
sản Đông Dơng một bức th, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt
sự chia rẽ công kích lẫn nhau, đồng thời xúc tiến hợp nhất thành lập một chính
Đảng duy nhất ở Đông Dơng.
Trớc nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nớc và đợc sự uỷ
nhiệm của Quốc tế Cộng sản. Đầu tháng 1/1930, Nguyễn ái Quốc đã đến Hơng
Cảng để triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản
duy nhất ở Việt Nam.
Từ 3 đến 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng đã đợc tiến hành tại
nhà một công nhân trong xóm lao động nghèo ở Cửu Long, gần Hơng Cảng (Trung
Quốc). Than dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dơng Cộng sản Đảng là Trịnh
Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu
14
Văn Liêm và Nguyễn Thiệu. Đông Dơng Cộng sản Liên đoàn vì thành lập muộn
hơn nên không kịp cử đại biểu đến dự. Hội nghị tiến hành dới sự chủ trì của đồng
chí Nguyễn ái Quốc với t cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Sau một quá trình làm việc khẩn trơng Hội nghị đã nhất trí hợp nhất Đông D-

ơng Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra một Đảng duy nhất lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị uỷ nhiệm cho đồng chí Nguyễn ái Quốc
dự thảo chánh cơng vắn tắt, sách lợc vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Hội nghị thống nhất hai bên bỏ mọi thành kiến sung đột cũ, thành lập hợp tác
với nhau để hợp nhất.
Ngày 7/2/1930, Hội nghị đã thông qua Chánh cơng vắn tắt của Đảng, sách l-
ợc vắn tắt của Đảng, chơng trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng và lời kêu gọi
của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
Hội nghị còn nhất trí về việc hợp nhất các đoàn thể quần chúng và thông qua
Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên Cộng sản, Hội phụ nữ,
Hội phản đế đồng minh (tức là Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc) và Hội
cứu tế đỏ do Nguyễn ái Quốc soạn thảo.
Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các tổ chức cơ sở Đảng và tổ
chức quần chúng ở trong nớc, thể thức cử Ban chấp hành Trung ơng lâm thời và bàn
việc liên hệ để thu nạp Đông Dơng Cộng sản Liên đoàn.
Hội nghị thống nhất phơng pháp làm việc tiếp theo là: Khi về nớc các đại
biểu đều lấy danh nghĩa của đại biểu quốc tế, mà tiến hành công việc của hội nghị
hợp nhất.
Hội nghị hợp nhất còn quyết định công bố các Văn kiện đầu tiên của Đảng
nhằm động viên, cổ vũ đảng viên và quần chúng hăng hái, phấn khởi bớc vào giai
đoạn mới sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Với sự hoạt động không mệt mỏi của các đại biểu dự Hội nghị thành lập
Đảng chỉ trong một thời gian ngắn, các Đảng bộ bên dới của hai Đảng cũ đã hợp
nhất thành hệ thống tổ chức thống nhất. Các tổ chức quần chúng cũng thống nhất
theo điều lệ mới. Lâm thời cấp uỷ Đảng ở các tỉnh và Ban chấp hành Trung ơng lâm
thời đợc thành lập.
Ngày 21/2/1930, một Hội nghị quan trọng đợc tổ chức ở Sài Gòn để xem xét
yêu cầu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam của Đông Dơng Cộng sản Liên đoàn.
15

Dự Hội nghị có 2 đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái Quốc - đại biểu Quốc tế
Cộng sản là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu, 2 đồng chí của Ban chấp hành
Trung ơng lâm thời là Phạm Hữu Lầu và Hoàng Quốc Việt và đồng chí Ngô Gia
Tự, Bí th lâm thời cấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ. Hội nghị nhất trí công nhận Đông
Dơng Cộng sản Liên đoàn đợc gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Về mặt tổ chức,
Hội nghị quyết định Đông Dơng Cộng sản Liên đoàn cử một ngời vào lâm thời cấp
uỷ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ.
Nh vậy, chỉ sau nửa tháng kể từ ngày Hội nghị hợp nhất kết thúc, 3 tổ chức
cộng sản ở Đông Dơng đã thống nhất trong một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng thành công đánh dấu mốc kết thúc thời kỳ
chia rẽ trong nội bộ những ngời cộng sản, ngăn chặn đợc nguy cơ phân tán, cục bộ
trong bộ máy lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ đó ngăn chặn đợc nguy cơ phong
trào cách mạng Việt Nam phân tán, chia rẽ theo nhiều tổ chức khác nhau.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam 2/1930 là một Hội nghị
nhng với công việc mà nó thực hiện, với nhiệm vụ mà nó hoàn thành thì nó có thể
đợc coi nh Đại hội thành lập Đảng vì nó đã giải quyết đợc những vấn đề quan trọng
nhất của Đảng đó là vấn đề về đờng lối, điều lệ và bầu Ban chấp hành Trung ơng
cơ quan đại diện cho toàn Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng trong nhiệm kỳ
giữa 2 đại hội.
Sự kiện quan trọng này cắm cột mốc lịch sử, chẳng những đánh dấu nhiệm
vụ Quốc tế cộng sản giao đã đợc hoàn thành, mà điều cơ bản nhất là Hội nghị đã
vạch ra đợc một đờng lối chiến lợc cách mạng và đờng lối xây dựng Đảng đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện xã hội một nớc thuộc địa nửa phong kiến.
Với Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở nớc ta. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời và đờng lối đúng đắn của nó là sự cổ vũ to lớn đối với phong trào cách
mạng đang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Các Văn kiện của Đảng đợc công bố sau
Hội nghị hợp nhất trở thành tiến kèn tập hợp các lực lợng quần chúng, chuẩn bị cho
cuộc đấu tranh tự giải phóng của dân tộc ta.
16

Chơng II: Nội dung và ý nghĩa của
Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1. Nội dung chủ yếu.
Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội bằng cơng lĩnh, chiến lợc, các
định hớng về chính sách và chủ trơng công tác, bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức và kiểm tra, bằng hành động tiên phong gơng mẫu của đảng viên, tr-
ớc hết là cơng lĩnh, chiến lợc cách mạng.
Cơng lĩnh và chiến lợc cách mạng của Đảng đợc xây dựng trên nền tảng ánh
sáng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng nhân văn truyền thống Việt Nam phù
hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nớc và quốc tế qua mỗi thời kỳ cách mạng.
Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã là sự thể hiện những quan điểm, đ-
ờng lối chiến lợc và sách lợc cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Bác.
Để đánh giá tình hình và tính chất cách mạng Việt Nam. Cơng lĩnh đầu tiên
của Đảng đã phân tích sâu sắc tính chất xã hội nớc ta là một nớc thuộc địa nửa
phong kiến. Trong xã hội đó, chủ nghĩa đế quốc Pháp thực hiện chính sách độc
quyền làm cho t bản bản xứ đã thuộc t bản Pháp, vì t bản Pháp hết sức ngăn trở
sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang đợc
(1)
.
Kinh tế nông nghiệp chiếm phần lớn trong nền kinh tế quốc dân. Từ khi xâm
lợc và thống trị nớc ta, đế quốc Pháp đã chiếm ruộng đất của nông dân ta để lập
đồn điền, làm cho nông dân bị mất hết ruộng đất và lâm vào cảnh tuyệt vọng.
Chúng ta tìm cách để bóp nặn nhân dân ta
(2)
. Chúng còn khám xét nhà cửa, bắt bờ,
giam cầm và giết hại những ngời cách mạng.
Thực trạng xã hội đó dẫn đến hai mâu thuẫn cơ bản ngày càng gay gắt đó là
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và mâu thuẫn giữa quần chúng
đông đảo, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Muốn đa nớc ta đi đến tự do thì phải giải quyết hai mâu thuẫn trên.

Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam nó bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Cơng lĩnh đã khẳng định con đờng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam dới
sự lãnh đạo của Đảng là chủ trơng làm t bản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản mà sau này Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai
(1)

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.1.
(2)

Lời kêu gọi, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990, tập 2, tr.14-15.
17
(2/1951) đã hoàn chỉnh khái niệm này thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
tiến lên xã hội chủ nghĩa. Việc xác định con đờng xuyên suốt của cách mạng này
đã chứng tỏ rằng Đảng ta mới ra đời nhng đã nhìn xuyên suốt đợc con đờng cách
mạng Việt Nam là vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-
Lênin là làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân xong sẽ tiến lên làm cuộc
cách mạng thứ hai ngay là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về mục tiêu chiến lợc của cách mạng Việt Nam là độc lập, dân chủ trong đó
cơ bản là ruộng đất cho nhân dân. Cơng lĩnh xác định: Chủ tr ơng làm t sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản
(1)
là giành độc lập
cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày.
Đó là sự xác định tính chất của cuộc cách mạng hiện tại và phơng hớng đi tới
của cách mạng Việt Nam sau khi đã hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, dựa
trên cơ sở phân tích điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ và đặt
trong bối cảnh chung của thời đại. Mục tiêu ấy cho thấy rõ cách mạng Việt Nam là
cuộc cách mạng dân chủ nhân dân thuộc phạm trù cách mạng vô sản gắn giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, gắn độc lập dân tộc với

chủ nghĩa xã hội.
Về nhiệm vụ cách mạng: Cơng lĩnh nêu rõ là chống đế quốc và phong kiến,
nhấn mạnh trớc mắt đánh đổ bọn địa chủ phong kiến.
Chánh cơng vắn tắt của Đảng ghi rõ: Đánh đổ đế quốc làm chủ Pháp và bọn
phong kiến; làm cho nớc Nam đợc hoàn toàn độc lập; dựng ra Chính phủ công
nông binh; tổ chức ra quân đội công nông
(2)
và thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu
hết sản nghiệp lớn (nh công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v ) của t bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất
của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ su thuế cho dân
cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám
giờ
(3)
.
Việc xác định nhiệm vụ cách mạng này đã vận dụng đợc quan điểm của
Lênin và quốc tế cộng sản đó là cách mạng thuộc địa phải chống đế quốc và phong
kiến. Điều này rất phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam là giải quyết hai mâu thuẫn cơ
bản dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và nông dân với địa chủ phong kiến.
(1)

Chánh cơng vắn tắt của Đảng: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.12.
(2)

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.12.
(3)

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.13.
18
Về lực lợng cách mạng: Cơng lĩnh xác định chủ lực quân của cách mạng lấy

công nông là nòng cốt, chủ trơng đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lợng tiến bộ,
các nhà yêu nớc để tập trung chống đế quốc và tay sai. Sách lợc vắn tắt của Đảng có
ghi rõ: Đảng phải thu phục cho đ ợc đại bộ phận giai cấp mình, phải thu
phục cho đợc đại bộ phận dân cày Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu t sản, trí
thức, trung ơng, thanh niên, Tân Việt phú nông, trung, tiểu địa chủ và t bản An
Nam mà cha rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập
(1)
. Nghĩa là Đảng chủ trơng thu phục, tập hợp đông đảo quần chúng công
nhân và nông dân khỏi ảnh hởng của t sản dân tộc, hết sức liên lạc với tiểu t sản, trí
thức, trung nông, tập hợp lôi kéo phú nông, t sản, trung và tiểu địa chủ còn bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng nh Đảng lập hiến thì phải đánh đổ.
Về phơng pháp cách mạng: Cơng lĩnh khẳng định phải sử dụng con đờng
cách mạng bạo lực chứ không thể cải lơng, thoả hiệp với kẻ thù.
Phát huy sức mạnh của quần chúng Đảng có sách lợc cách mạng để thích
hợp để lôi kéo các tầng lớp trung gian ngả về phái giai cấp vô sản, còn bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng thì kiên quyết đánh đổ. Để giải quyết tận gốc vấn đề
chính quyền cách mạng xoá bỏ chính quyền thực dân phong kiến, thiết lập chính
phủ công nông binh và quân đội công nông.
Về quan hệ quốc tế: Cơng lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận khăng khít của cách mạng thế giới: Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu n ớc
An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân
tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp
(2)
.
Với t cách là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam nằm
trong xu thế vận động chung của cách mạng thế giới, khai thác sức mạnh thời đại
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng dân tộc. Mặt khác, sự phát triển của phong trào
dân tộc Việt Nam lại có đóng góp vào tiến trình cách mạng thế giới. điều đó chứng
tỏ chủ nghĩa yêu nớc chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng đã kết hợp chặt

chẽ ngay từ khi Đảng ta mới thành lập.
Cơng lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định cho mọi
thắng lợi của cách mạng nớc ta. Trong quá trình thành lập Đảng không chỉ kết nạp
những công nhân tiên tiến mà còn kết nạp cả những ngời thuộc tầng lớp lao động
khác có lòng yêu nớc nồng nàn và tinh thần cách mạng triệt để.
(1)

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990, tập 2, tr.14.
(2)

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.15.
19
Để xác định rõ bản chất giai cấp của Đảng. Đảng đã vạch cho đảng viên và
quần chúng thấy rõ: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho
đợc đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo đợc dân
chúng
(1)
.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng ta là
một khối thống nhất ý chí và hành động, tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
lấy tự phê bình và phê bình làm nguyên tắc phát triển. Việc thống nhất 3 tổ chức
cộng sản đã nói lên t tởng đoàn kết chiến đấu và thống nhất ý chí của giai cấp công
nhân Việt Nam.
Việc xác định đúng đắn tính chất giai cấp của Đảng, việc xác lập vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng và chủ trơng đoàn kết toàn dân trong
mặt trận dân tộc trên cơ sở liên minh công nông, trí thức là những vấn đề then chốt
làm cho Đảng ta có đầy đủ những khả năng nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt
Nam và đa cách mạng đến toàn thắng.
Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã thể hiện một đờng lối cách mạng

triệt để. Tính cách mạng triệt để ấy đợc thể hiện trong việc xác định đúng những
vấn đề cơ bản của cách mạng là: tính chất, mục đích cách mạng, đối tợng, nhiệm vụ
cách mạng, xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến, xác định mối quan hệ giữa 2 giai đoạn của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định vai trò lãnh đạo của Đảng và
giai cấp công nhân đối với cách mạng, đánh giá đúng lực lợng to lớn của giai cấp
nông dân, vị trí của khối liên minh công nông trí thức và mặt trận dân tộc thống
nhất trong cách mạng, giữ vững nguyên tắc trong khi mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất. Xác định phơng pháp cách mạng bạo lực, xác định cách mạng Việt
Nam là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
Ngày 14 31/10/1930 Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng lâm thời đã diễn
ra tại Hơng Cảng (Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì. Theo sự chỉ đạo của
Quốc tế cộng sản. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Đông Dơng. Ban chấp hành Trung ơng chính thức của Đảng đợc
thành lập do đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí th. Từ những vấn đề về tính chất, mục
tiêu, nhiệm vụ, lực lợng, phơng pháp cách mạng của Đảng ta lại đợc xác định lại
một lần nữa trong luận cơng chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dơng 10/1930 do
(1)

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.14.
20
đồng chí Trần Phú soạn thảo. Tuy nhiên nó cũng có một số điểm hạn chế so với c-
ơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam 2/1930.
Luận cơng vạch rõ sau chiến tranh thế giới thứ nhất hệ thống t bản chủ nghĩa
đã không thể duy trì sự ổn định tạm thời nữa mà đã bớc vào một cuộc khủng hoảng
mới. Đông Dơng là một xứ thuộc địa của đế quốc Pháp. Nền kinh tế Đông Dơng
hoàn toàn bị lệ thuộc vào nền kinh tế của chính quốc. Công nghiệp không phát
triển, nông nghiệp là chủ yếu. Đồn điền phần lớn nằm trong tay t bản Pháp. Đại bộ
phận đất đai do địa chủ chiếm hữu và bóc lột theo lối phong kiến. Nông dân bị phá
sản, không có việc làm, công nhân bị áp bức, bóc lột rất dã man. Tình hình đó đã

làm cho sự mâu thuẫn giai cấp ngày càng quyết liệt.
Đặc điểm kinh tế xã hội và mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dơng nh vậy đã
quy định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở Đông Dơng.
Luận cơng khẳng định cuộc cách mạng ở Đông Dơng lúc đầu là cuộc cách
mạng t sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế.
Về nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng t sản dân quyền là phải đấu tranh để
đánh đổ các di tích phong kiến, thực hiện cách mạng ruộng đất và đánh đuổi đế
quốc chủ nghĩa Pháp làm cho Đông Dơng hoàn toàn độc lập. Luận cơng đã nhấn
mạnh nhiệm vụ đánh phong kiến giành ruộng đất cho dân cày hơn là nhiệm vụ
đánh đế quốc.
Về lực lợng của cách mạng, luận cơng xác định vô sản giai cấp và nông dân
là hai lực lợng chính của cách mạng, nhng vô sản giai cấp có nắm quyền lãnh đạo
thì cách mạng mới thắng lợi đợc. Giai cấp vô sản là động lực chính và rất mạnh của
cách mạng đồng thời là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Còn giai cấp nông dân chiếm
số đông trong dân chúng là một động lực mạnh của cách mạng. Để giành quyền
lãnh đạo nông dân, giai cấp vô sản phải lãnh đạo nông dân tiến hành cách mạng
ruộng đất triệt để. Vì vậy, vấn đề ruộng đất là cái cốt của cách mạng t sản dân
quyền. Ngoài công nông ra còn có những ngời lao động nghèo khổ ở thành thị là
ngời bán hàng rong đờng phố, ngời làm nghề thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp
Vì đời sống cực khổ nên phải đi theo cách mạng. Còn các tầng lớp tiểu t sản nh các
nhà thủ công nghiệp thì do dự, nhà thơng nghiệp thì không tán thành cách mạng, trí
thức, học sinh có xu hớng quốc gia chủ nghĩa và chỉ hăng hái tham gia chống đế
quốc lúc đầu mà thôi. T sản thơng nghiệp vì quyền lợi giai cấp của họ nên đứng về
phía đế quốc và địa chủ. T sản công nghiệp có khuynh hớng quốc gia cải lơng, song
cuối cùng cũng đi theo đế quốc chủ nghĩa.
21
Khác với cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) là xác định lực lợng
của cách mạng: công nông là gốc cách mạng thấy đợc tinh thần hăng hái cách
mạng của các bộ phận, tầng lớp nhân dân khác mà cơng lĩnh chủ trơng thu phục
đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lợng tiến bộ khác để tập trung chống đế quốc và

tay sai thì luận cơng chính trị 10/1930 lại chỉ nhấn mạnh công nhân và nông dân là
hai lực lợng chính của cách mạng còn các giai cấp còn lại thì nhìn chung là không
có tinh thần cách mạng vì vậy mà không có chủ trơng thu phục, lôi kéo họ về phía
cách mạng.
Về phơng pháp đấu tranh cách mạng, luận cơng nêu rõ trong lúc định chiến
lợc, Đảng phải xem xét kỹ tình hình trong nớc và th giới, lực lợng địch và sự tranh
đấu của quần chúng, thái độ các giai cấp đối với cách mạng mà định ra phơng thức
đấu tranh. Luận cơng xác định rõ con đờng giành chính quyền phải là con đờng đấu
tranh vũ trang của quần chúng. Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) cũng
xác định con đờng bạo lực cách mạng đẻ giành chính quyền chứ không phải là con
đờng cải lơng thoả hiệp.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng cũng giống nh cơng lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng. Luận cơng khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhân tố quyết định
đa cách mạng đi đến thắng lợi. Luận cơng nhấn mạnh: Điều kiện cốt yếu cho sự
thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dơng là cần phải có một Đảng cộng sản có
một đờng chính trị đúng, có kỷ luật, tập chung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và
từng trải tranh đấu mà trởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chính và lâu dài, chung cho cả
giai cấp vô sản ở Đông Dơng và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dơng ra tranh đấu
để đạt đợc mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản
(1)
.
Muốn làm tròn sứ mệnh lịch sử ấy, trớc hết Đảng cần phải tổ chức ra các
đoàn thể quần chúng của Đảng nh công hội đỏ, nông hội đỏ phải thu phục cho đ -
ợc đại đa số công nhân và nông dân, cơng quyết đánh bại chủ nghĩa quốc gia cải l-
ơng, không để cho quần chúng chịu ảnh hởng của họ, tạm thời hợp tác với các đảng
phái quốc gia cách mạng nhng luôn luôn giữ cho phong trào cách mạng công nông
có tính chất giai cấp rõ rệt và phải đấu tranh phê phán những hành động cách mạng
không triệt để về t tởng quốc gia hẹp hòi của nó.
Về quan hệ quốc tế: Cũng giống nh cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

2/1930 luận cơng khẳng định phải thực hiện đoàn kết quốc tế để tạo nên một mặt
(1)

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.100.
22
trận cách mạng thế giới nhằm chống lại kẻ thù chung của giai cấp vô sản và các dân
tộc thuộc địa là chủ nghĩa đế quốc. Luận cơng chỉ rõ vô sản Đông D ơng phải liên
lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhứt là vô sản Pháp để làm mặt trận vô sản mẫu
quốc và thuộc địa cho sức tranh đấu cách mạng đ ợc mạnh lên
(1)
.
Trong công tác, Đảng Cộng sản Đông Dơng phải liên lạc mật thiết với Đảng
cộng sản Pháp, Trung Quốc và ấn Độ.
Để chống lại nguy cơ chiến tranh đế quốc đang đến gần, Đảng phải tuyên
truyền và tổ chức đấu tranh phản đối chiến tranh đế quốc, nêu khẩu hiệu chuyển
chiến tranh đế quốc thành chiến tranh cách mạng, đánh đổ đế quốc và các giai cấp
bóc lột, ủng hộ Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới.
Những nội dung cơ bản đã trình bày ở trên cho thấy luận cơng chính trị đã
trình bày những t tởng cơ bản về con đờng cách mạng Việt Nam nh: tiến hành cách
mạng t sản dân quyền chống đé quốc và chống phong kiến nhằm giành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho nông dân, thiết lập Nhà nớc công nông, sau đó tiến lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân và nông dân là hai động lực
chính của cách mạng, xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong cách mạng của nó là Đảng cộng sản, cách mạng Việt Nam phải liên kết
với giai cấp vô sản vạn các nớc thuộc địa trên thế giới. Luận cơng còn xác định rõ
con đờng giành chính quyền phải là con đờng đấu tranh vũ trang của quần chúng.
Tuy nhiên luận cơng chính trị đã không thấy đợc đặc điểm và khả năng cách mạng
của các tầng lớp tiểu t sản, mặt tích cực của t sản dân tộc, của một số ngời trong
tầng lớp trung và tiểu địa chủ nh ở cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Luận cơng
còn nhấn mạnh quá mức những hạn chế của t sản dân tộc và tiểu t sản, cha thấy hết

đợc vai trò của liên minh dân tộc rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và
tay sai. Nói cách khác luận cơng chính trị cha phân tích sâu sắc và làm rõ tính chất
và đặc điểm của cách mạng ở một nớc thuộc địa trong đó yếu tố dân tộc là yếu tố
cơ bản quyết định tính chất và tính độc đáo của nó mà đề cao nhiệm vụ giai cấp.
Trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng các nhợc điểm, hạn chế mang tính tả
khuynh giáo điều của luận cơng chính trị (10/1930) đã đợc các Hội nghị Ban chấp
hành Trung ơng Đảng khắc phục trong những năm về sau.
2. ý nghĩa lịch sử của Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch sử nớc ta thời
đại giai cấp công nhân và Đảng của nó đứng ở vị trí lãnh đạo, tập hợp mọi phong
(1)

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.103.
23
trào cách mạng dới ngọn cờ của mình, quyết định nội dung, phơng hớng phát triển
của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo cách mạng trớc hết bằng cơng lĩnh, chiến
lợc. Nó giúp cho Đảng xác định các nguyên tắc và phơng hớng chính trị, cùng với
các chủ trơng, chính sách để lãnh đạo phong trào cách mạng trong suốt các giai
đoạn lịch sử. Vì vậy mà cơng lĩnh có tầm quan trọng rất to lớn.
Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý
luận Mác-Lênin vào thực tiễn của đất nớc.
Giải đáp đúng yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam, yêu cầu thực tiễn của
cách mạng là xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến phản động để thay vào đó là
một chế độ tiến bộ hơn bằng việc tập trung giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội
là mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc Pháp, giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
Cơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thể hiện một đờng lối cách mạng triệt
để qua việc xác định đợc con đờng xuyên suốt của cách mạng là t sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng đi tới xã hội cộng sản.
+ Mục tiêu của cách mạng độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày.
+ Nhiệm vụ của cách mạng là chống đế quốc và phong kiến, trong đó nhấn

mạnh nhiệm vụ trớc mắt là đánh đổ bọn đại địa chủ phong kiến.
+ Lực lợng cách mạng lấy công nông là gốc cách mạng, học trò, nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của cách mệnh, của công nông.
+ Phơng pháp cách mạng là sử dụng con đờng cách mạng bạo lực chứ không
thể cải lơng, thoả hiệp với kẻ thù.
+ Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới. Vì vậy phải liên kết với cách mạng chính quốc và cách mạng
vô sản thế giới.
+ Vai trò lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
cho mọi thắng lợi của cách mạng nớc ta.
Cơng lĩnh đã đáp ứng đợc nguyện vọng cơ bản của cả dân tộc là độc lập, dân
chủ, hạnh phúc.
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng đã phản ánh đúng quy luật vận động khách
quan của xã hội Việt Nam. Nó không giống đờng lối cách mạng dân chủ t sản ở
một nớc độc lập hay một nớc nửa thuộc địa. Nếu quy luật cách mạng dân chủ t sản
kiểu cũ có những biểu hiện khác nhau nh ở Pháp khác ở Đức thì quy luật cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một dạng
của quy luật cách mạng vô sản, diễn ra ở một nớc thuộc địa nửa phong kiến.
24
Cơng lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã trả lời đúng những vấn đề cấp
bách mà phong trào cách mạng nớc ta đặt ra. Nó là vũ khí sắc bén chống lại những
t tởng và hành động trái với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng là cơ sở để thống nhất t tởng và hành động
trong toàn Đảng, toàn dân làm cho cách mạng Việt Nam sớm có đờng lối đúng,
sớm có tập hợp lực lợng của toàn Đảng, toàn dân cùng một ý chí đi lên, tránh tổ thất
cho cách mạng.
Cơng lĩnh đầu tiên là nền tảng t tởng và kim chỉ nham cho đờng lối đổi mới
của Đảng, dẫn đờng thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua cơng lĩnh chính trị đầu tiên đã chứng tỏ rằng Đảng ta mới ra đời nhng đã
nhìn xuyên suốt đợc con đờng cách mạng Việt Nam là vận dụng lý luận cách mạng

không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin đó là làm cuộc cách mạng này xong thì tiến
lên làm cuộc cách mạng sau ngày. Khắc phục đợc những sai lầm mà các Đảng cộng
sản ở thuộc địa đều mắc phải là t tởng tả khuynh hoặc hữu khuynh.
Cơng lĩnh vận dụng đúng lý luận Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa đó là
vấn đề độc lập dân tộc và ruộng đất của nông dân.Nó đúng với thực tiễn Việt Nam
là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và nông dân với phong kiến.
Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới nhìn thấy mục tiêu cách mạng có tính khách quan
đó, các tổ chức yêu nớc khác của dân tộc ta không ai nhìn thấy điều này mà chỉ
nhìn thấy vấn đề độc lập dân tộc, không nhìn thấy vấn đề ruộng đất cho nông dân
do đó không tập hợp đợc đông đảo quần chúng. Xác định rõ bạn bè quốc tế của
cách mạng Việt Nam mà các lực lợng yêu nớc khác trớc đây không thấy đợc.
25

×