Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Các nguyên tắc cần tuân thủ quản lý hoạt động đầu tư và biểu hiện của các nguyên tắc này trong công tác quản lý hoạt động đầu tư hiện nay.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.42 KB, 26 trang )

Các nguyên tắc cần tuân thủ quản lý hoạt động đầu tư và biểu hiện
của các nguyên tắc này trong công tác quản lý hoạt động đầu tư hiện
nay
I) Khái niệm quản lý hoạt động đầu tư
Quản lý đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng mục tiêu
vào quá trình đầu tư và các yếu tố đầu tư, bằng một đồng bộ các biện pháp
kinh tế-xã hội, tổ chức kĩ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được các kết
quả và hiệu quả cao nhất, trong điều kịên cụ thể xác định và trên cơ sở vận
dụng sáng tạo những quy luật khách quan và các quy luật đặc thù của đầu tư.
II) Các nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư ở việt nam
1) Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và hoạt động kinh trong
quản lý hoạt động đầu tư
- Ở Việt Nam chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau. Chính sách của
đảng là cơ sở của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế
- Đảng vạch ra đường lối chủ trương phát triển kinh tế xã hội. Đảng chỉ rõ
con đường biện pháp và phương tiện thực hiện chủ trương đường lối đặt
ra mà chính phủ là người thực hiện
- Đảng động viên quần chúng đông đảo đoàn kết tham gia thực hiện đường
lối chủ trương
- Nhà nước biến đường lối chủ trương của đàng thành kế hoạch và kiểm
tra, tổng kết việc thực hiện kế hoạch
2) Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương
và vùng lãnh thổ
- Nguyên tắc này là sự kết hợp một cách khách quan từ xu hướng chuyên
môn hoá theo ngành và theo vùng lãnh thổ
- bất cứ hoạt động đầu tư của cơ sở, doanh nghiệp nào cũng phải chịu sự
quản lý theo ngành và theo địa phương
- Cụ thể:
+ Địa phương sẽ quản lý hành chính và xã hội với mọi đối tượng nằm
trên địa phương
+ Ngành sẽ quản lý vấn đề kỹ thuật của mình


1
Do đó chúng ta có thể kết hợp quản lý theo 3 dạng sau
Dạng 1: Tham quản
Vấn đề nào đó do một chủ thể ngành hoặc địa phương chủ quản có thẩm
quyền quyết định nhưng tham khảo ý kiến của bên kia để quyết định của
mình được sáng suốt
Dạng 2: Hiệp quản
giống như hiệp quản nhưng ý kiến của bên kia là điều kiền cần phải có để
tạo nên tính hợp pháp cho quyết định quản lý nào đó
Dạng 3: Đồng quản
Hai cơ quan theo ngành và theo địa phương cùng liên tịch giao văn bản ,
quyết định quản lý
Thực tế trong văn kiện đại hội đảng IX đã vạch ra phương hướng nhiệm
vụ của chúng ta trong kế hoach phát triển kinh tế 2001-2010.
3) Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Theo nguyên tắc này khi giải quyết bất kỳ vấn đề phát sinh quản lý đầu
tư thì một mặt phải dựa vào ý kíên, tập trung chủ động sáng tạo của đối
tượng bị quản lý
- Đòi hỏi phải có trung tâm quản lý tập trung thống nhất với mức độ phù
hợp để không xảy ra tình trạnh tự do vô chính phủ và tự do vô chủ trong
quản lý nhưng cũng đảm bảo không ôm đồm.
Biểu hiện là:
Tất cả các hoạt động không phải diễn ra tuỳ tiện mà phải tuân thủ hệ
thống pháp luật và phù hợp kế hoạch đầu tư của nhà nước
Biểu hiện của dân chủ: phân cấp trong thực hiện đầu tư, xác định vị trí
trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các chủ thể tham gia đầu tư. chấp
nhận cạnh tranh trong đầu tư
4) Nguyên tắc phát triển kinh tế với phát triển kinh tế xã hội
- Phát triển kin tế phải đi đôi với công bằng xã hội. Khắc phục tình trạng
phân hoá giầu nghèo. đầu tư để phát triển kinh tế nhưng không được diễn

ra chênh lệch quá đáng vể mức sống và chiến lược phát triển kinh tế vùng,
tầng lớp Dan cư
2
- Nguyên tắc thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động
trong các dự án đầu tư nhưng cố gắng không để dẫn đến phân hoá xã hội
hay phân hoá
5) Nguyên tắc kết hợp lợi ích trong đầu tư
- Trong thực tế có rất nhiều loại lợi ích kinh tế- xã hội, lợi ích của nhà
nước-tập thể và cá nhân. lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. hoạt động
đầu tư chỉ có thể diễn ra khi có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích của mọi đối
tượng bởi vì chỉ có khi đó mới tạo động lực cùng chiều cho mọi người
dân trong xã hội mới làm cho nền kinh tế phát triển vững chắc và ổn định
6) Nguyên tắc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hoạt
động kinh tế
- Mọi vi phạm đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật dựa
trên xác lệnh của nhà nước. Nguyên tắc này không cho phép các cơ quan
nhà nước thực hiện đầu tư một cách chủ quan mà phải nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, giáo dục pháp luật cho người dân và xử lý nghiêm minh trong mọi
hành vi vi phạm pháp luật trong đầu tư
7) Nguyên tắc mở rộng hợp tác đầu tư với các nước
- Hợp tác trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, không xâm phạm độc lập
chủ quyền lãnh thổ của nhau. Đa phương hoá quan hệ hợp tác đầu tư với
các nước trong mọi lĩnh vực
8) Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
- Với một lượng vốn đầu tư nhất định phải đem lại hiệu qủa kinh tế xã hội
dự kiến với chi phí thấp nhất
Nguyên nhân của sự lãng phí:
• Không có quy hoạch
• Thất thoát lãng phí trong xác định chủ trương đầu tư

• Nhập công nghệ cũ tràn lan, thất thoát trong thẩm định, phê duyệt thiết
kế kỹ thuật trong tổng dự toán
• Trong kế hoạch hoá hoạt động đầu
• Trong đấu thầu xây dựng
3
• Trong thiết kế xây dựng
• Trong chuẩn bị xây dựng
• Trong cơ chế quản lý giá
• Tổ chức thực hiện
Biện pháp khắc phục
• Đầu tư có trọng điểm tránh phân tán. Coi trọng tính hệ thống, đồng bộ
của đầu tư xây dựng cơ bản để có được hiệu quả tối đa
• Khi đầu tư phải lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương án đầu tư
• Trong đầu tư cần giảm chi phí đầu tư bởi tiết kiệm đầu tư là tương
đương với mở rộng cơ sở nguyên vật liệu trong công nghiệp khai thác
mà không cần đầu tư thêm
• Tiết kiệm trong việc sử dụng tài nguyên
• Đổi mới chính sách và đòn bẩy kinh tế nhằm khuyến khích sử dụng có
hiệu qủa và tiết kiệm các nguồn lực
• Kiểm tra kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng công quỹ công tác của dự án
III) Biểu hiện của các nguyên tắc này trong hoạt động quản lý đầu tư ở
Việt Nam
1 Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và hoạt động kinh tế trong
quản lý đầu tư
- Vai trò quản lý của Nhà nước: Ở Việt Nam chính trị và kinh tế luôn đi cùng
nhau thể hiện trong tất cả chủ trương chính sách của Đảng và Chính Phủ.Cơ chế
đó thể hiện ở việc Đảng vạch ra đường lối chủ trương phát triển kinh tế- xã
hội,Đảng chỉ rõ con đường biện pháp và phương tiện để thực hiện đường lối đã
đề ra và Chính Phủ là người đôn đốc, kiểm tra viêc thực hiện

Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2008 được Quốc hội thông qua:
Các chỉ tiêu về kinh tế
* Về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP):
Theo đề nghị của Chính phủ, GDP tăng từ 8,5-9% và phấn đấu đạt hoặc
cao hơn 9% để Chính phủ linh hoạt trong điều hành, giải quyết các vấn đề xã
4
hội, môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững trong những năm tiếp theo
Về tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chính phủ đề nghị chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế để linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá
7%.
* Các chỉ tiêu về xã hội
- Về chỉ tiêu đào tạo cao đẳng nghề và trung cấp nghề:
Chính phủ đề nghị chỉ tiêu đào tạo cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng
18%.
- Về vấn đề an toàn giao thông:
Phấn đấu giảm tai nạn giao thông cả về số lượng người tử vong và người
bị thương so với năm 2007
* Các chỉ tiêu về môi trường
Cơ bản giữ các chỉ tiêu về môi trường như đã trình Quốc hội
Theo đó Chính Phủ chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Quốc
hội đã thông qua:
Nhóm nhiệm vụ thứ nhất trong Chương trình hành động của Chính phủ là
phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả các loại thị trường, nhất là thị trường
bất động sản, thị trường vốn, thị trường các loại dịch vụ, thị trường lao động và
thị trường khoa học - công nghệ
Nhóm nhiệm vụ thứ hai là tập trung khai thác mọi nguồn lực, thực hiện
các giải pháp, chính sách đồng bộ để tạo bước đột phá, đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm nâng cao hiệu quả, tính bền vững, sức cạnh tranh; xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Nhóm nhiệm vụ thứ ba là phát triển mạnh mẽ giáo dục, khoa học và công
nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chú trọng chăm sóc sức khỏe nhân
dân; đẩy mạnh công tác tạo việc làm và giảm nghèo; đặc biệt quan tâm công tác
bảo vệ môi trường.
Nhóm nhiệm vụ thứ tư là đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực
và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và tăng cường công tác
phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
5
Nhóm nhiệm vụ thứ năm là tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội
- Chính sách đối với người lao động trong lĩnh vực đầu tư
* Đảm bảo mức thu nhập
Cải cách cơ bản tiền lương đối với cán bộ, công chức nhà nước. Tiền tệ
hóa đầy đủ tiền lương, điều chỉnh tiền lương bảo đảm mức sống tương ứng với
nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội. Hệ thống thang, bậc lương bảo đảm tương
quan hợp lý, khuyến khích người giỏi, lao động có năng suất cao. Thay đổi cơ
chế tài chính đối với khu vực sự nghiệp, tạo điều kiện đổi mới chế độ tiền lương
của khu vực này. Thông qua cải cách chế độ tiền lương, thúc đẩy việc tinh giản
biên chế bộ máy công quyền.
Theo Nghị định mới được Chính phủ ban hành ngày 12/9, từ ngày
1/10/2008, mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng sẽ
tăng thêm 15% đối với 4 nhóm đối tượng
.
Thứ trưởng Thường trực Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Huỳnh
Thị Nhân cho biết, việc điều chỉnh này nằm trong lộ trình cải cách tiền lương
nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt đối với các đối tượng khó khăn
như cán bộ, công nhân, viên chức có thu nhập thấp, người nghỉ hưu. Việc điều
chỉnh này cũng nhằm giảm bớt khó khăn do trượt giá gây ra
.
* Tạo môi trường làm việc thuận lợi

- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
ra pháp lệnh số 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày 24/4/1999 nhằm nâng cao trách
nhiệm tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ trong việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
Ngày 24/4/2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành
Nghị định số 55/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng. Nghị định gồm 6 chương, 36 điều. Đối tượng áp dụng của
Nghị định: Người tiêu dùng; Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; Tổ
chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng. Các cơ quan, tổ chức khác có liên quan đến hoạt
6
động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của Nghị định này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan
2 Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo vùng lãnh thổ
2.1 Định hướng phát triển ngành kinh tế
Định hướng này được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X: Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày ngày
10/4/2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006
– 2010 như sau
• Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn
Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng
một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có
năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh
lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch; phấn
đấu giá trị tăng thêm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Tốc
độ phát triển công công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn tốc độ

bình quân cả nước. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp
phần giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế
cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các loại quy
trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn
định; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an toàn dịch bệnh và
bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập
trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến, khắc phục tình
trạng sản xuất manh mún, tự phát.
Phát huy lợi thế khí hậu nhiệt đới, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình
bảo vệ và phát triển rừng. Nâng cao chất lượng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng,
7
phát triển mạnh việc trồng mới và khai thác bền vững rừng sản xuất để nâng cao
khả năng đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài về nguyên liệu gỗ cho chế biến
hàng tiêu dùng và xuất khẩu; bảo đảm lợi ích thoả đáng của người được giao
kinh doanh, chăm sóc và bảo vệ rừng.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, phục vụ xuất
khẩu và thị trường nội địa đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; chuyển đổi cơ
cấu khai thác qua việc lựa chọn ngư trường, loại hình nghề nghiệp và sản phẩm
để nâng cao giá trị hàng hoá, sử dụng hợp lý nguồn lợi, giảm chi phí. Nâng cao
sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong sản xuất, chế biến và xuất
khẩu thuỷ sản.
Quy hoạch và có chính sách phát triển nghề làm muối và cải thiện đời sống diêm
dân.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những ngành
nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc làm
mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Phát triển mạnh công nghệ
bảo quản, chế biến, giảm nhanh tổn thất sau thu hoạch, đồng thời nâng cao

nhanh giá trị gia tăng cho các loại nông, lâm, thuỉy sản, nhất là sản phẩm xuất
khẩu chủ lực.
Thực hiện các giải pháp đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là: đưa nhanh khoa học
và công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; có chính sách đủ mạnh để
khuyến khích phát triển nhanh các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông
thôn; tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông
thôn; tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc và xây dựng nông thôn
mới.
Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ; tăng cường hệ
thống khuyến nông, lâm, ngư, thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật
khác ở nông thôn, tạo sự đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong nông,
lâm, ngư nghiệp. Triển khai chương trình ứng dụng công nghệ sinh học, nâng
cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, kể cả giống thuỷ, hải sản đến cơ sở;
chuyển giao nhanh và đồng bộ công nghệ tiên tiến trồng trọt, chăn nuôi gia súc,
8
gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản và công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản; chú ý
áp dụng công nghệ cao để sản xuất nông sản, thực phẩm sạch theo tiêu chuẩn
quốc tế và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao. Nâng cao khả năng
phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là gia
súc, gia cầm và thuỷ sản. Xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản để chủ động bù
đắp thiệt hại khi bị thiên tai hoặc khi giá cả biến động bất lợi, nhất là đối với
lương thực.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn để giúp nông dân chuyển sang làm ngành nghề và
dịch vụ. Tiếp tục điều chỉnh chính sách khuyến khích để các doanh nghiệp và
hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhất là công nghiệp chế
biến nông, lâm, thuỷ sản; giảm nhanh và hết sức hạn chế việc xuất khẩu nông,
lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến. Chú trọng phát triển kinh tế trang trại, các loại
hình kinh tế hợp tác; đẩy nhanh việc sắp xếp lại và đổi mới quản lý các nông,
lâm trường; phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp

nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; phát triển các làng nghề.
Khuyến khích nông dân bằng đóng góp quyền sử dụng đất và lao động của mình
hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các chủ trang trại để phát triển sản
xuất hàng hoá, ổn định và cải thiện đời sống. Khuyến khích hơn nữa đầu tư nước
ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng các nguồn vốn để phát triển
mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn; thúc đẩy cơ giới hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thuỷ lợi đồng bộ, đi đôi với đổi
mới và nâng cao hiệu quả quản lý để khai thác có hiệu quả các công trình đã đưa
vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu về nước cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản,
cho công nghiệp, dịch vụ và nước cho sinh hoạt ở nông thôn. Củng cố hệ thống
hồ, đập, đê, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động
phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường nước.
Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng để hoàn thành có chất lượng chương trình cụm
tuyến dân cư vùng ngập lũ ở đồng bằng Sông Cửu Long. Tiếp tục đầu tư phát
triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm,
9
từng bước phát triển đường ô tô tới thôn, bản; phấn đấu đến năm 2010, trên 90%
hộ dân cư nông thôn có điện sinh hoạt, trên 75% dân cư nông thôn có nước sạch.
Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động nông thôn,
nhất là các vùng Nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển
các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn
theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao
động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc
làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu
vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài. Nhà nước đầu tư nhiều hơn và phát huy khả
năng trợ giúp của xã hội để thực hiện tốt xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn, đặc
biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Giải quyết ổn định vấn đề lương thực cho các hộ
thuộc diện nghèo, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, gắn với việc giao khoán
rừng.

Xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tổ
chức chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm xây dựng các làng, xã, ấp, bản
có cuộc sống văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị
hoá. Phát huy dân chủ đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, bài trừ các tệ nạn
xã hội ở nông thôn; gìn giữ và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của
các dân tộc.
• Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng
cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá
Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở
hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề
phù hợp với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương. Nâng
cao sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm,
giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp
và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường.
Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây dựng 10 -
10,2%/năm.
Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao,
công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp quốc phòng, góp
10
phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng tự chủ
của nền kinh tế. Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công
nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao
động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ gia
dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết
bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp cơ -
điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất phần
mềm. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng
phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng

lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp
dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
Việc phát triển các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng chủ
yếu là dựa vào nguồn lực của các thành phần kinh tế, bao gồm cả đầu tư trực
tiếp của nước ngoài. Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung đầu
tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế,
như: lọc hoá dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hoá chất, xi măng,
khai thác bô - xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng, một số sản
phẩm cơ khí chế tạo.
Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước;
hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với
bảo đảm nhà ở và các điều kiện sinh hoạt cho người lao động. Chuyển các cơ sở
công nghiệp trong nội thành, nội thị, gần khu đông dân cư không bảo đảm tiêu
chuẩn môi trường vào các khu công nghiệp tập trung hoặc các vùng ít dân cư.
Huy động các nguồn lực (nhà nước, doanh nghiệp, nhân dân, cộng đồng) để xoá
nhà ở dột nát, nhà ở tạm bợ cho người nghèo; phát triển nhanh quỹ nhà để đáp
ứng cơ bản nhu cầu nhà ở cho công chức, viên chức, người lao động, sinh viên,
học sinh, nhất là công nhân các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Tăng cường hợp tác liên kết, đưa ngành công nghiệp và xây dựng nước ta hội
nhập vào khu vực và quốc tế, trước hết thông qua việc thu hút mạnh đầu tư và
11
công nghệ nguồn của các công ty đa quốc gia tham gia phát triển công nghiệp và
xây dựng ở Việt Nam.
• Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại
Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên dành vốn ngân
sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết
cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để
phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Chú trọng các công

trình quan trọng, thiết yếu, phát huy nhanh tác dụng. Khắc phục tình trạng đầu
tư dàn trải, thất thoát, lãng phí.
Tập trung huy động các nguồn lực để ưu tiên hoàn chỉnh một bước cơ bản kết
cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường
hàng không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và xây
dựng mới các công trình thuỷ lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thuỷ
điện, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, nước sinh hoạt
của dân cư và giảm nhẹ thiên tai.
Phát triển nhanh nguồn điện với cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống truyền tải,
bảo đảm sự vận hành an toàn, hiệu quả, đáp ứng đủ điện cho yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội, cả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Nhà nước
tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư để phát triển
nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị
trường về giá bán điện, đồng thời có chính sách trợ giúp hợp lý đối với các hộ
nghèo.
Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn thông; tiếp tục đẩy mạnh
phát triển kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định đáp ứng cho
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm sự cạnh tranh bình
đẳng trong lĩnh vực dịch vụ thông tin.
Rà soát, bổ sung và nâng cao chất lượng quy hoạch, tiếp tục tổ chức thực hiện
các định hướng phát triển đô thị đến năm 2020, hình thành hệ thống đô thị phù
hợp trên địa bàn cả nước; đặc biệt chú trọng phát triển các đô thị vừa và nhỏ,
12
hạn chế tập trung dân cư vào một số ít thành phố lớn; xây dựng đồng bộ và từng
bước hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, chú trọng hoàn thiện mạng lưới
giao thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, cung cấp đủ nước sạch và giải quyết cơ
bản vấn đề thoát nước và xử lý chất thải ở các đô thị, các khu công nghiệp; quản
lý chặt chẽ việc thực hiện qui hoạch và các qui chế về đô thị.
Nhà nước tăng tỉ trọng đầu tư ngân sách cho phát triển kết cấu hạ tầng xã hội,
nhất là cho giáo dục, y tế.

• Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ
Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm
năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng
tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực
dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn
đấu đạt 7,7 - 8,2%/năm.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như
vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển mạnh
các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông
thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm
lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Trong sự phát triển nhanh hơn của
dịch vụ vận tải, cần tạo lập và phát triển mạnh dịch vụ vận tải đa phương thức và
dịch vụ hỗ trợ các phương thức vận tải. Tiếp tục phát triển mạnh thương mại
trong nước trên tất cả các vùng và gia tăng nhanh xuất khẩu. Phát triển mạnh và
nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình
du lịch. Hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát
triển thị trường tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển các dịch
vụ pháp luật, kiểm toán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,
y tế, văn hoá, thông tin, thể thao; tăng số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ
việc làm, an sinh xã hội.
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng
trên thị trường dịch vụ.
13
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng là khâu đột phá quan trọng để đưa tiến trình xã hội hoá các lĩnh vực văn
hoá - xã hội lên một bước phát triển mới.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã

hội cơ bản của nhân dân, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách; đồng thời,
không xem nhẹ việc đáp ứng những nhu cầu của bộ phận ngày càng đông dân cư
có thu nhập cao hơn. Nhà nước tăng thêm ngân sách tiếp tục đầu tư phát triển cơ
sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm
cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người
nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển các cơ sở dịch vụ tư nhân và cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài.
Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập cung ứng dịch vụ công cộng
theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán thu - chi không vì
lợi nhuận; Nhà nước không bao cấp tràn lan.
Dịch vụ công cộng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân và
là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội; vì vậy, việc chuyển đổi phương
thức cung ứng các loại dịch vụ này cần được thực hiện một cách kiên định và
tích cực, nhưng phải theo một kế hoạch đồng bộ và một lộ trình phù hợp.
• Tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế
đối ngoại
Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Thực
hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại,
đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Thực hiện các cam kết của Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN và tích cực tham gia quá trình xây dựng Cộng đồng kinh tế
ASEAN. Chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các cam kết khi nước
ta gia nhập WTO.
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích
quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế. Tiếp tục cải thiện môi
14
trường đầu tư, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập
những điều kiện thuận lợi hơn nữa để khai thác lợi thế của đất nước và khắc
phục những vướng mắc ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn quốc tế, như

vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp dưới nhiều hình thức, tín dụng thương
mại và các nguồn vốn quốc tế khác.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình
thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn
kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất
lượng, hiệu quả nguồn FDI; tranh thủ nguồn vốn ODA đi đôi với việc đẩy nhanh
tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch đảm bảo trả nợ.
Từng bước mở rộng đầu tư gián tiếp của nước ngoài và có chính sách hiệu quả
hơn để thu hút kiều hối vào phát triển kinh tế. Tạo điều kiện thuận lợi và có cơ
chế khuyến khích các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam.
Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động và khẩn trương chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, phát huy lợi thế so sánh,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại
thị trường trong nước và trên thế giới. Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập
khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu; phấn đấu tăng nhanh tỉ trọng xuất
khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, giàu hàm lượng công nghệ,
có sức cạnh tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hết sức hạn
chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua
chế biến. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho
các mặt hàng có khả năng cạnh tranh; tăng thêm thị phần ở các thị trường lớn và
khai mở các thị trường còn nhiều tiềm năng. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất
khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5 năm trước.
Phát huy tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Từng doanh nghiệp phải khẩn trương đổi mới từ tư duy
đến phong cách quản lý, đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh. Xúc tiến mạnh thương mại và
15
đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến

khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác, liên doanh với các doanh nghiệp
nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
2.2 định hướng phát triển ngành kinh tế
Song song với chiến lược phát triển ngành kinh tế đảng ta cũng đưa ra chiến
lược phát triển ngành kinh tế luôn luôn thống nhất quản lý theo vùng và theo
ngành
Trên cở sở phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng trong cả nước tạo nên
thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu của thị trường trong
và ngoài nước. Nhà nước tiếp tục thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy
vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng
hơn cho vùng nhiều khó khăn. Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước,
giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại,
đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật và nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ dân trí và đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực.
Gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc
phòng, an ninh, coi trọng chiến lược phát triển các vùng biên giới. trong chiến
lược phát triển ngành kinh tế từ 2001-2010 đảng đã đưa ra phương hướng như
sau:

• Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đưa nhiều lao động nông
nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ và đi lập nghiệp nơi khác.
Phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng. Cùng với lương thực, đưa vụ đông
thành một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt, hoa;
mở rộng nuôi, trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và cơ khí
phục vụ nông nghiệp, các cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông
thôn.
Trong vùng kinh tế trọng điểm, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ
cao, công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp điện tử, thông tin và một số cơ sở cơ
khí đóng tàu, luyện kim, phân bón; các dịch vụ có hàm lượng tri thức cao; các

16
trung tâm mạnh của vùng và cả nước về đào tạo, khoa học và công nghệ, thương
mại, y tế, văn hoá, du lịch.
Hoàn thiện và nâng cấp kết cấu hạ tầng, trước hết là các tuyến trục quốc lộ, các
cảng khu vực Hải Phòng, Cái Lân, các sân bay.
• Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Hình thành và phát huy vai trò các trung tâm thương mại, xuất khẩu, viễn thông,
du lịch, tài chính, ngân hàng, khoa học và công nghệ, văn hoá, đào tạo đối với
khu vực phía Nam và cả nước. Đẩy mạnh công nghiệp khai thác dầu khí; sản
xuất điện, phân bón và hoá chất từ dầu khí. Hoàn chỉnh và nâng cấp các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Mở mang công nghiệp ở các
tỉnh, không tập trung quá mức vào các đô thị lớn.
Phát triển mạnh cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều, mía đường, bông ), cây
ăn quả, chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, hình thành các vùng
chuyên canh tập trung gắn với công nghiệp chế biến, tạo điều kiện thu hút thêm
lao động từ đồng bằng sông Cửu Long.
Nâng cấp các tuyến quốc lộ nối với các vùng và quốc tế; nâng cấp và xây dựng
mới một số cảng biển, sân bay. Xây dựng đô thị trên các trục phát triển gắn với
khu công nghiệp. Giải quyết tốt hệ thống giao thông đô thị, cấp và thoát nước,
khắc phục ô nhiễm môi trường.
• Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung
Phát huy lợi thế biển và ven biển, khai thác có hiệu quả các tuyến đường trục
Bắc - Nam, các tuyến đường ngang, các tuyến đường xuyên á, các cảng biển.
Hình thành các khu công nghiệp ven biển, các khu công nghiệp - thương mại
tổng hợp và phát triển kinh tế trên các cửa khẩu và hành lang dọc các tuyến
đường. Phát triển các ngành công nghiệp lọc, hoá dầu, vật liệu xây dựng, công
nghiệp chế biến và chế tạo khác, các loại hình dịch vụ. Xây dựng theo quy
hoạch một số cảng nước sâu với tiến độ hợp lý. Đẩy nhanh việc xây dựng khu
kinh tế Dung Quất - Chu Lai. Phát triển mạnh du lịch biển và ven biển, gắn liền

với các khu di tích, danh lam thắng cảnh của cả vùng, đặc biệt là trên tuyến Huế
- Đà Nẵng - Hội An - Nha Trang.
17
Phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tăng nhanh
sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, kết hợp với công
nghiệp chế biến, đẩy mạnh trồng rừng. Có giải pháp hạn chế tác hại của thiên tai
lũ lụt, hạn hán nặng, kết hợp với bố trí lại sản xuất và dân cư. Phát triển kinh tế -
xã hội gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường toàn dải ven biển. Khai thác có
hiệu quả vùng đất phía Tây, chú ý xây dựng các hồ chứa nước chống lũ và làm
thủy điện.
Từng bước tạo điều kiện để vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ liên kết
với Tây Nguyên tham gia có hiệu quả việc hợp tác kinh tế với Lào, Campuchia,
nhất là các tỉnh biên giới.
• Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc)
Phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản, chăn
nuôi đại gia súc gắn với chế biến. Tạo các vùng rừng phòng hộ đầu nguồn sông
Đà, rừng nguyên liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ.
Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng thủy điện Sơn La. Phát triển công nghiệp khai
thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản, chú trọng chế biến xuất khẩu.
Hình thành một số cơ sở công nghiệp lớn theo tuyến đường 18 gắn với vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phát triển nhanh các loại dịch vụ, chú trọng thương
mại. Nâng cấp các tuyến đường trục từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới, hoàn thành
các tuyến đường vành đai biên giới và các đường nhánh. Phát triển thủy lợi nhỏ
gắn với thủy điện nhỏ, giải quyết việc cấp nước sinh hoạt và điện cho đồng bào
vùng cao. Phát triển các đô thị trung tâm, các đô thị gắn với khu công nghiệp.
Nâng cấp các cửa khẩu biên giới và phát triển kinh tế cửa khẩu.
Thực hiện tốt chính sách dân tộc, định canh, định cư vững chắc, ổn định và cải
thiện đời sống cho đồng bào dân tộc.
• Tây Nguyên
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước cả về kinh tế - xã hội

và quốc phòng - an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản
xuất hàng hoá lớn kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp
năng lượng và công nghiệp khai thác khoáng sản. Có chiến lược và quy hoạch
xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến
18
tới thành vùng kinh tế động lực.
Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây công nghiệp gắn
với thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông ), chăn nuôi đại gia súc,
trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công nghiệp chế biến nông,
lâm sản. Phát triển thủy điện lớn và vừa, các hồ chứa nước cho thủy lợi. Khai
thác và chế biến quặng bôxít. Phát triển công nghiệp giấy. Nâng cấp, khai thác
tốt các tuyến đường trục và đường ngang nối xuống vùng Duyên hải. Phát triển
sự hợp tác liên kết kinh tế - thương mại - dịch vụ với các nước láng giềng Lào,
Campuchia. Có chính sách thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư và lao động và đất
đai theo quy hoạch, nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính
sách dân tộc, thật sự cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào dân
tộc.
• Đồng bằng sông Cửu Long
Tiếp tục phát huy vai trò của vùng lúa và nông sản, thủy sản xuất khẩu lớn nhất
cả nước; đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng lương thực, rau quả, chăn
nuôi, thủy sản hàng hoá. Phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông
nghiệp, các ngành, nghề tiểu, thủ công nghiệp và các dịch vụ. Triển khai xây
dựng các cụm công nghiệp sử dụng khí Tây Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ.
Hoàn chỉnh mạng lưới đường bộ và mạng giao thông thủy. Nâng cấp và mở rộng
quốc lộ 1A, mở thêm một số tuyến trục để phát triển giao thông phía Tây Nam.
Nâng cấp các quốc lộ đến các tỉnh lỵ. Xây dựng cầu qua sông Hậu và có đủ cầu
trên các tuyến này. Phát triển mạng đường liên huyện và giao thông nông thôn,
xây cầu kiên cố thay "cầu khỉ". Hoàn chỉnh các cảng sông, nâng cấp các sân bay.
Quy hoạch và xây dựng khu dân cư, kết cấu hạ tầng phù hợp với điều kiện

chống lũ hàng năm và ngăn mặn.
3 Nguyên tắc tập trung dân chủ
* Biểu hiện của tập trung trong quản lý đầu tư: Tất cả các hoạt động
đầu tư không phải diễn ra một cách tùy tiện mà phải tuân thủ hệ thống
pháp luật, quy hoạch và được triển khai từ kế hoạch đầu tư của cả nước.
* Biểu hiện của dân chủ:
19
Phân cấp trong thực hiện đầu tư, có xác định rõ vị trí trách nhiệm và
quyền hạn của các cấp và các chủ thể tham gia đầu tư.
Chấp nhận cạnh tranh trong đầu tư. Hình thành về cơ bản hệ thống thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện thực
tế của nước ta và với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tác
dụng tích cực và khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường. Trọng tâm hướng vào
hoàn thiện khung pháp lý cho sự thiết lập đồng bộ các yếu tố thị trường và môi
trường kinh doanh lành mạnh, có trật tự, bảo đảm cho các thành phần kinh tế
không bị phân biệt đối xử trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn, đất, công nghệ,
thông tin Nhà nước khuyến khích cạnh tranh theo pháp luật, hạn chế và kiểm
soát độc quyền kinh doanh, xóa bao cấp, giảm dần hàng rào bảo hộ, buộc các
doanh nghiệp từ bỏ thói quen ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, chủ động đổi mới
công nghệ và quản lý, nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Đồng
thời, Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, giảm chi phí sản
xuất thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin định hướng cho kinh doanh, đơn
giản hóa thủ tục hành chính, kiểm soát giá độc quyền và giảm chi phí giao
dịch
Chấp nhận cho mở cửa trong đầu tư. Hiện nay nhiều lĩnh vực đã cho tư
nhân tham gia.
4 Nguyên tắc phát triển kinh tế gắn với phát triển kinh tế xã hội
Khắc phục những nhận thức sai lầm về quản lý kinh tế của chúng ta trước đây
đảng ta đã khẳng định và quán triệt thực hiện một số điểm sau trong việc kết hợp

phát triển kinh tế với thực hiện mục tiêu công bằng xã hội
Một là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội có thể và cần phải làm tiền đề và điều kiện cho
nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra điều kiện vật chất để thực hiện công bằng xã
hội, ngược lại thực hiện tốt công bằng xã hội lại trở thành động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế
thiếu hụt chỉ đủ cung cấp cho dân chúng một cuộc sống "giật gấu vá vai", "khéo
20
ăn mới no, kheo co mới ấm". Cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, có hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số dân chúng thấp
kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất và một bộ phận đáng kể lực lượng lao động
thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra ngoài lề xã hội.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tăng
trưởng kinh tế đến đâu phải thực hiện ngay công bằng xã hội đến đấy. Không
thể chờ đợi đến khi kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao mới thực hiện công
bằng xã hội, càng không hy sinh công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh
tế đơn thuần vì lợi ích của một thiểu số. Muốn vậy, mỗi chính sách kinh tế đều
phải hướng tới bảo đảm công bằng xã hội; mỗi chính sách bảo đảm công bằng
xã hội đều phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián
tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.
Ba là, thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân phối
bình quân, "cào bằng", chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất
lượng, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh và sự đóng góp công sức, trí tuệ, tài
sản của mỗi người cho sự phát triển chung của đất nước, như sai lầm của thời kỳ
trước đổi mới. Càng không thể dồn phần lớn của cải làm ra để thực hiện các
chính sách bảo đảm công bằng xã hội vượt quá khả năng mà nền kinh tế cho
phép. Bởi như vậy sẽ làm giảm những điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, khiến cho kinh tế trì trệ, suy thoái và rốt cuộc không thực hiện
được các chính sách xã hội theo hướng công bằng. Do đó, trong mỗi bước đi,

mỗi thời điểm cụ thể của quá trình phát triển phải tìm ra đúng mức độ hợp lý
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sao cho hai mặt này không cản trở,
triệt tiêu lẫn nhau mà trái lại chúng có thể hỗ trợ cho nhau.
Bốn là, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời với phát triển văn hóa. Nhiệm
vụ rất quan trọng đặt ra hiện nay là phải làm sao đưa các nhân tố văn hóa thấm
sâu vào mọi lĩnh vực hoạt động và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời
sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất, kinh
21
doanh, phải tập trung xây dựng và hình thành cho được một đội ngũ đông đảo
những nhà kinh doanh có văn hóa.
Năm là, để thực hiện được tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã
hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý và
điều tiết vĩ mô của Nhà nước là hết sức quan trọng. Do tác động của các quy
luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, kinh tế thị trường có mặt mạnh cơ bản là luôn
kích thích việc cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quy trình sản xuất kinh doanh.
Nhưng vì bị chi phối bởi động cơ lợi nhuận, kinh tế thị trường không tránh khỏi
các yếu tố tự phát vô chính phủ, dẫn đến suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế chu
kỳ và nhất là không thể tự động dẫn đến công bằng xã hội. Do đó, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải biết tận dụng mặt mạnh của cơ chế thị trường để giải phóng
và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phải kết hợp sử dụng các
công cụ pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và sức mạnh vật chất của
khu vực kinh tế nhà nước để khắc phục những thất bại của cơ chế thị trường
nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững; đồng thời, phải bảo đảm công
bằng xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân.
5 Nguyên tắc kết hợp lợi ích trong đầu tư
Hiện nay, đảng ta vẫn đang tiếp tục chỉ đạo hoạt động đầu tư sao cho cân
bằng hài hoà giữa các nhóm lợi ích. Điều này được thể hiện rõ trong xu thế xã
hội hoá trong hầu hết các hoạt động đầu tư. Thực hiện xã hội hoá nhằm mục tiêu

tăng cường lợi ích cho xã hội. Kết hợp thỏa mãn giữa lợi ích và tập thể
6 Nguyên tắc tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý hoạt động đầu

Việt Nam đã ban hành hệ thống pháp luật về đầu tư như: Luật Đầu tư, Luật
Đấu thầu, các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng chính phủ và
các văn bản hướng dẫn của các Bộ, các ngành liên quan về việc thi hành các
luật, nghị định của Chính phủ; và các Luật khác có liên quan đến hoạt động đầu
tư như: Luật thương mại, Luật Ngân sách, Luật Ngân hàng, Luật môi trường,
Luật thuế VAT
- Tuy vậy, hệ thống pháp luật đó vẫn còn những bất cập hạn chế của nó. Xét
hạn chế của luật Đầu Tư mà cụ thể là cách hiểu khác nhau khi đưa vào thi hành
22
gây khó khăn cho công tác của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép
đầu tư cũng như các nhà đầu tư.
Nhìn chung, phân loại dự án đầu tư theo Luật Đầu tư là khá phức tạp; là
sự kết hợp của các yếu tố về quy mô, tính chất sở hữu, ngành nghề kinh doanh,
địa điểm đầu tư và thẩm quyền quyết định về chủ trương đầu tư. Kinh nghiệm
thực tế cho thấy về phân loại và khái niệm dự án đầu tư đang nổi lên một số vấn
đề sau đây:
Một là, không phân biệt dự án đầu tư xây dựng công trình và dự án đầu tư
không xây dựng công trình. Tuy vậy, các hướng dẫn và biểu mẫu liên quan đến
đăng ký đầu tư, thẩm tra và cấp giấy chứng nhận đầu tư đều được thiết kế theo
hướng áp dụng cho dự án đầu tư xây dựng công trình. Điều này đã thực sự gây
lúng túng cho các nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước có liên quan trong việc
đăng ký, thẩm tra và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án đâu tư không xây
dựng công trình.
Hai là, bản thân nội dung khái niệm “dự án đầu tư” là khá giản đơn và
bộc lộ một số bất hợp lý. Như trên đã trình bày, khái niệm “dự án đầu tư” theo
Khoản 8 Điều 3 LĐT có ba đặc điểm cơ bản. Đó là :
(i) là đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn

(ii) thực hiện trên một địa bàn cụ thể
(iii) trong thời hạn nhất định.
Khái niệm dự án đầu tư nói trên rõ ràng không bao quát hết phạm vi điều
chỉnh của LĐT như trình bày trên đây. Bởi vì, trong không ít các dự án đầu tư,
nhà đầu tư hoàn toàn không bỏ vốn trung và dài hạn, mà chỉ là vốn ngắn hạn,
hoặc thậm chí không bỏ vốn; hoạt động của nhiều dự án đầu tư không có địa điểm
cụ thể xác định ranh giới của nó; và nhiều hoạt động đầu tư không có thời hạn cụ
thể định trước. Rõ ràng, khái niệm nói trên không bao quát hết các oại dự án đầu
tư, nhất là dự án đầu tư kinh doanh trong các ngành dịch vụ.
Ba là, chưa xác định và quy định cụ thể để thống nhất nội dung khái niệm
“dự án có vốn đầu tư nước ngoài” và “dự án đầu tư trong nước”. Vì vậy, có
không ít cách hiểu và áp dụng khác nhau trên thực tế. Có ý kiến cho rằng nếu theo
đúng “câu, chữ” của Luật và Nghị định, thì về nguyên tắc dự án có một US$,
23
thậm chí nhỏ hơn, là vốn đầu tư nước ngoài, thì dự án đó thuộc loại dự án đầu tư
có vốn đầu tư nước ngoài. Với cách hiểu này, thì dự án với 1 US$ vốn nước ngoài
sẽ thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký, thẩm tra đầu tư hoàn toàn giống như dự án
đầu tư hoàn toàn 100% vốn nước ngoài và của doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Cách hiẻu và áp dụng theo cách nói trên có thể nói là “máy móc”, quá thiên
về câu chữ; chưa phù hợp với thực tế và gây không ít bức xúc cho các nhà đầu tư
có liên quan.
Thêm vào đó, chưa có thống nhất về khái niệm “vốn đầu tư” nước ngoài;
đó là vốn chủ sở hữu hay cả vốn vay. Ví dụ, dự án có quy mô 1,5 triệu US$, của
doanh nghiệp có hơn 51% sở hữu của người nước ngoài; và vồn điều lệ của công
ty này là 500.000 US$; Công ty này sử dụng 500.000 US$ vốn góp đó và vay
thêm 1triệu US$ từ một ngân thương mại trong nước để thực hiện dự án. Về thực
chất, vốn nước ngoài ở đây chỉ có 255.000 US$; còn lại là vốn đầu tư trong nước.
Ngược lại, có doanh nghiệp trong nước sử dụng 1 triệu $ vốn chủ sở hữu và vay
thêm 2 triệu $ từ ngân hàng nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư. Hai dự án nói
trên đèu có thể coi là dự án có vốn đầu tư nước ngoài với khả năng áp dụng các

quy định pháp luật rất khác nhau giữa chúng và giữa hai dự án đó với các dự án
khác.
Trình bày nói trên chỉ hàm ý rằng những khái niệm với nội dung thiếu cụ
thể với nhiều cách hiểu khác nhau đã dẫn tới áp dụng tuỳ ý, tuỳ tiện; gây không ít
khó khăn, và thậm chí rủi ro và tốn kém cho cả nhà đầu tư và cơ quan,công chức
nhà nước có liên quan.
Bốn là, chưa xác định và quy định rõ về “dự án đầu tư có điều kiện”, các
điều kiện đầu tư tương ứng đối với các dự án đó. Chưa xác định rõ nội dung và
hình thức thể hiện của “dự án đầu tư” theo quy định của Luật Đầu tư. Trên thực
tế, có ba cách hiểu và áp dụng khác nhau. Cách hiểu thứ nhất là dự án đầu tư được
được hiểu là “Giấy đề nghị đăng ký đầu tư” đối với các dự án có quy mô dưới
300 tỷ đồng; và đối với các dự án trên 300 tỷ đồng, thì giấy đề nghị đăng ký đầu
tư và giải trình kinh tế kỹ thuật. Cách hiểu thứ hai là nghiên cứu khả thi và cách
hiểu thứ ba là gồm thiết kế cơ sở và thuyết minh dự án như quy định của pháp
luật về xây dựng công trình. Cách hiểu chưa thống nhất đương nhiên áp dụng
24
không thống nhất, tuỳ ý và thậm chí trái vơi tinh thần của luật.
7 Nguyên tắc mở rông hợp tác đầu tư với các nước
Việt Nam luôn luôn mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với các nước trên thế
giới không xâm phạm chủ quyền dân tộc của bất cứ nước nào. Cho đến nay
chúng ta đã có quan hệ hợp tác đầu tư với rất nhiều nước như các nước ASEAN,
các nước đông Á, một số nước châu ÂU và Mỹ. Thu hút vốn FDI của Việt Nam
liên tục tăng trong những năm qua đặc biệt năm 2007 chúng ta thu hút được 20.6
tỷ USD. Dự tính năm nay chúng ta thu khoảng 50 tỷ USD FDI con số này thể
hiện quan hệ trong đầu tư của Việt Nam với các nước là rất tốt và Việt Nam
luôn là điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư trong khu vực và thế giới
8 Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Sự quán triệt nguyên tắc này của chúng ta con chưa được tốt. cho đến nay
thất thoát lãng phí vốn trong hoạt động đầu tư vẫn là căn bệnh trầm kha của nền
kin tế. Thực tế là qua kiểm tra đã phát hiện tình trạng thất thoát và lãng phí diễn

ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực, nhiều cấp; tỷ lệ thất
thoát và lãng phí của những công trình có mức lãng phí và thất thoát thấp cũng
tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Đó là chưa
tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản
xuất ra các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành công và không tiêu thụ
được Đúng là sờ đâu trúng đó, thanh tra tới đâu thì phát hiện sai phạm đến đó.
Trên phạm vi cả nước, mỗi năm có không dưới 500 cuộc thanh tra, kiểm tra quy
mô khác nhau và kết quả là không có cuộc thanh tra, kiểm tra nào là không tìm
ra được những sai phạm.
Nếu chỉ lấy con số thất thoát, lãng phí là 15% với dao động 3% như đề tài
đánh giá tỉ lệ lãng phí, thất thoát do Tổng hội Xây dựng Việt Nam báo cáo, thì
con số lên tới hàng chục ngàn tỉ đồng/năm.
Đặc biệt trong số này là các công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Thực tế hiện nay tình trạng sử dụng Ngân sách Nhà nước sai mục đích, chi sai
chế độ, chi vượt dự toán xảy ra khá phổ biến tại nhiều địa phương, gây thất
thoát, lãng phí lớn đối với Ngân sách Nhà nước, tức là tiền đóng thuế của người
25

×