Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam – Chi nhánh Phúc Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.6 KB, 73 trang )

MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ 4
LỜI MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY 7
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về nguồn vốn của ngân hàng thương mại 7
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Vai trò của nguồn vốn đối với NHTM 7
1.1.3. Phân loại 9
1.1.4. Đặc điểm 14
1.2. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại 17
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn của NHTM 17
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả huy động vốn NHTM 18
1.2.3. Phương pháp xác định chi phí huy động vốn 22
1.2.4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của NHTM 30
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của NHTM 34
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan 34
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan 37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH PHÚC
YÊN 40
2.1. Tổng quan về chi nhánh ngân hàng hàng thương mại cổ phần công thương
Việt Nam – Chi nhánh Phúc Yên 40
2.1.1. Tên gọi và trụ sở 40
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng TMCP công thương 40
Việt Nam – chi nhánh Phúc Yên
2.1.3. Cơ cấu nhân sự 43
2.1.4. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Phúc Yên 43
2.1.5. Kết quả hoạt động của chi nhánh ngân hàng TMCP công thương 44


Phúc Yên trong những năm qua
1
2.2. Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại NHTMCPCT Phúc Yên 49
2.2.1. Tình hình chung về công tác huy động vốn tại chi nhánh 49
2.2.2. Chiến lược huy động vốn tại NHTMCP CT VN – CN Phúc Yên 49
trong những năm qua
2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn tại NHTMCPCT 50
Phúc Yên
2.2.4. Phân tích hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh từ năm 2007 đến 54
năm 2009
2.2.5. Đánh giá hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh 59
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CN PHÚC YÊN 61
3.1. Định hướng phát triển của chi nhánh trong thời gian tới 61
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho NHCTMCP Phúc Yên
3.2.1. Thực hiện tốt công tác phân tích thị trường huy động vốn và cơ cấu 61
nguồn hợp lý
3.2.2. Đẩy mạnh công tác tiếp thị, thu hút khách hang 63
3.2.3. Đa dạng hoá giá trị gia tăng của sản phẩm huy động vốn 63
3.2.4. Đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng 64
3.2.5. Nâng cao và hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin 65
3.2.6. Chính sách khách hàng 66
3.2.7. Nâng cao và hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin 66
3.3. Kiến nghị thực hiện các giải pháp 67
3.3.1. Kiến nghị đối với NHTMCP công thương Việt Nam 67
3.3.2. Kiến nghị đối với NH Nhà nước 68
3.3.3. Kiến nghị đối với Chính Phủ 70
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
2

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Cụm từ
Vietinbank Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
CNH - HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CKH Có kỳ hạn
GTCG Giấy tờ có giá
KKH Không kỳ hạn
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
TG Tiền gửi
TCKT Tổ chức kinh tế
CN Chi nhánh

3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHTMCP Công thương Phúc Yên
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của CN Phúc Yên từ năm 2005 - 2009
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng của CN Phúc Yên 2007-2009
Bảng 2.4: Cơ cấu vốn theo kỳ hạn của NHTMCP CT Phúc Yên từ 2007-2009
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn theo loại tiền tệ của NHTMCP CT Phúc Yên từ 2007-2009
Bảng 2.6: Chi phí huy động vốn của chi nhánh Phúc Yên từ 2007-2009
4
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất
của hệ thống tài chính quốc gia; Nếu đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia,
nguồn vốn được xem như là máu trong một cơ thể sống thì hệ thống các ngân hàng
thương mại là các mao mạch chính. Hoạt động của các ngân hàng thương mại là những
thể hiện sâu sắc nhất những diễn biến của thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài

chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại,
chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia trong
từng thời kì cũng như sự hưng thịnh hay trên đà suy vong của nền kinh tế kinh tế quốc
gia đó.
Xuất phát từ vai trò trên, mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận
hành và phát triển; vốn là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong toàn xã hội nói chung
và của mỗi ngân hàng nói riêng. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh này thường xuyên đòi
hỏi phải không ngừng được bổ sung một số lượng vốn nhất định nhằm đáp ứng nhu
cầu về tái sản xuất mở rộng, về thanh toán, về dự trữ phát sinh ở mọi thời điểm. Trong
lĩnh vực ngân hàng lượng vốn huy thể hiện thế lực và sức cạnh tranh của ngân hàng và
có vai trò quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của ngân hàng trên thị trường
tài chính.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong hoạt động của
Ngân hàng, với những kiến thức đã học và qua thực tế tại NHTMCP Công thương Việt
Nam – Chi nhánh Phúc Yên, em xin mạnh dạn chọn đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu
quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam – Chi
nhánh Phúc Yên”.
5
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được
trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về nguồn vốn và huy động vốn tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần
công thương Việt Nam – Chi nhánh Phúc Yên
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng TMCP công
thương Việt Nam- Chi nhánh Phúc Yên
6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm

Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới các hình thức như huy động, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng
thương mại – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân
hàng. Nguồn vốn trong NHTM được định nghĩa là toàn bộ tài sản bên Nợ trong
bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Nó bao gồm vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi
vay, trong đó nguồn vốn đi vay là chủ yếu và đóng vai trò quan trọng bởi đây chính là
nguồn tạo lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ có các NHTM mới được quyền huy động vốn
dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đặc thù riêng vốn có của NHTM. Đây cũng
chính là điểm khác biệt cơ bản giữa NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Thông thường kết cấu nguồn vốn của các NHTM là như nhau nhưng xét về số lượng
các thành phần thì khác nhau. Sư khác biệt đó xuất phát từ cách thức, mục tiêu huy
động vốn của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, thông qua đó người ta có thể đánh giá được
nhiều điều về hoạt động cũng như về khả năng quản trị của Ban lãnh đạo của ngân
hàng đó.
1.1.2. Vai trò của nguồn vốn đối với ngân hàng thương mại
- Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh: Bất kỳ một loại
hình doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều cần có vốn. Bởi vốn
phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh của doanh nghiêp;
Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng, do tính chất đặc thù – kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn
là cơ sở để NHTM tiến hành mọi hoạt động kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng nói
riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh, mà còn là đối tượng kinh doanh chủ
yếu; Chính vì vậy, có thể nói rằng nguồn vốn là yếu tố đầu tiên và quan trọ ng nhất
quyết định hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng muốn mở rộng kinh
doanh, thu nhiều lợi nhuận, tăng uy tín thì ngoài vốn điều lệ theo luật định, ngân hàng
phải thường xuyên quan tâm đến việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động
của mình.
7
- Vốn đầu tư của ngân hàng sẽ quy định quy mô hoạt động tín dụng trung,
dài hạn và các hoạt động khác của ngân hàng: Vốn của ngân hàng quyết định đến
việc mở rộng hay thu hẹp quy mô khối lượng tín dụng. Thông thường, nếu so với các

ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có các khoản mục đầu tư kém đa dạng hơn, khối
lượng và phạm vi tín dụng cũng nhỏ hẹp hơn. Trong các ngân hàng lớn có nhiều vốn
đầu tư trung và dài hạn cho vay được cả thị trường trong nước và quốc tế, thì ngân
hàng nhỏ thiếu vốn nói chung và vốn trung, dài hạn nói riêng sẽ bị giới hạn trong phạm
vi cho vay hẹp, chủ yếu trong cộng đồng. Bên cạnh đó khả năng vốn hạn hẹp nên ngân
hàng nhỏ không phản ứng nhạy với những biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng đến
khả năng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư. Ngân hàng có lượng vốn nhỏ
sẽ có ít điều kiện mở rộng đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ. Mặt khác, ngân hàng
cũng sẽ không tham gia vào các danh mục đầu tư dài hạn như mua trái phiếu nhà nước,
trái phiếu công trình…nhằm thu đượclợi nhuận cao. Với xu thế ngân hàng đa năng như
hiện nay, việc tham gia của ngân hàng vào thị trường chứng khoán là quan trọng, quy
mô về vốn của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn thậm trí có vai trò quyết định tới sự
thâm nhập của ngân hàng vào thị trường này.
- Vốn quyết định năng lực thanh toán của ngân hàng, đảm bảo uy tín của
ngân hàng trên thương trường, từ đó quyết định năng lực cạnh tranh của ngân
hàng đó: Để đáp ứng nhu cầu chi trả của ngân hàng cho các khoản vay đến hạn, ngoài
dự trữ bắt buộc, ngân hàng còn phải đảm bảo khả năng thanh toán dưới dạng tiền mặt,
tín phiếu kho bạc, các giấy tờ có giá hoặc tài sản có tính lỏng hơn. Bên cạnh đó, để tồn
tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng phải giữ được chữ tín. Uy tín
được thể hiện bằng khả năng chi trả của ngân hàng khi đáo hạn. Vốn khả dụng càng
cao thì khả năng thanh toán càng lớn. Nói cách khác, khả năng thanh toán tỷ lệ thuận
với nguồn vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng nói riêng.
- Nguồn vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để
vươn tới kinh doanh đa năng:Với xu hướng ngân hàng đa năng như hiện nay, hoạt
động ngân hàng không chỉ đơn giản như hoạt động ngân hàng truyền thống, mà ngân
hàng đã vươn tới nhiều lĩnh vực khác như mở rộng các hình thức liên kết liên doanh,
hoạt động bảo lãnh, mua bán nợ, kinh doanh trên thị trường chứng khoán…Hình thức
8
kinh doanh đa năng giúp ngân hàng phân tán được rủi ro trong hoạt động kinh doanh,
tạo thêm vốn, cơ hội lợi nhuận cho ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân

hàng trên thị trường.
Tóm lại vốn đối với nền kinh tế nói chung, và nguồn vốn đối với NHTM nói
riêng là rất quan trọng. Có thể nói, huy động vốn là việc làm cần thiết hàng đầu của
ngân hàng. Nguồn vốn của NHTM không chỉ giúp NHTM tồn tại, phát triển mà còn
cho phép NHTM mở rộng quy mô hoạt động, vươn tới nhiều lĩnh vực mới, giúp ngân
hàng có đủ uy tín và sức mạnh để tồn tại và phát triển trên thương trường.
1.1.3 Phân loại
1.1.3.1 Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hang (được pháp luật cho phép) chủ ngân hang phải
có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hang có thể sử dụng lâu dài, hình
thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hang. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành
loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân
hang, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
1.1.3.1.1 Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hang mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu
khác nhau. Nếu ngân hang thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp vốn (vốn
của Nhà nước). Nếu là NH cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần
hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; NH tư nhân là vốn
thuộc sở hữu tư nhân.
1.1.3.1.2 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, NH gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức
khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
- Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ NH có
xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn
đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chủ NH về tích luỹ và tiêu dùng.
Những NH lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao so với
vốn của chủ hình thành ban đầu.
- Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để mở rộng
quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng
9

vốn cùa chủ do NHNN quy định…Đặc điểm của hình thức huy động vốn này là không
thường xuyên, song giúp cho NH có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
1.1.3.1.3 Các quỹ
NH có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn
thất. Quỹ này được trích lập hang năm và được tích luỹ lạ nhằm bù đắp những tổn thất
xảy ra. Quỹ bảo toàn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ
thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của NH và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ
phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân
hang còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc…
1.1.3.1.4 Nguồn vay nợ có thể chuyền đổi thành cổ phần
Một số khoản vay trung và dài hạn của NHTM được NH quy định có thể chuyển
đổi thành vốn cổ phần. Đây là khoản nợ lưỡng tính. Do tính chất này mà NHTW nhiều
nước xếp chúng vào vốn chủ sở hữu loại 2 với tỷ lệ 50% để tính tỷ lệ an toàn vốn chủ
sở hữu.
1.1.3.2 Vốn nợ
1.1.3.2.1 Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi
một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để
giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của
các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy
động khác nhau.
* Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch, hoặc tiền gửi thanh toán)
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngânhàng để nhờ ngân hàng
giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh
nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh
nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn
chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài

khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài
khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể phát séc) cho khách hàng. Thủ tục mở rất
đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong
10
phạm vi số dư. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản
cho vay (thấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số
ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khỏan thanh toán để nâng lãi
suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
* Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi
trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động
thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân
hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng các hình
thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu
cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu
dùng bằng tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy
theo độ dài của kỳ hạn.
* Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các
khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có
thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản
tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm,
các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền
mặt tại nhà, bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa
dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết
kiệm bằng ngoại tệ, vàng…). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm khoản mục
tiết kiệm (hoặc sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm
này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể cầm cố để vay vốn nếu
được ngân hàn cho phép.
* Tiền gửi của các ngân hàng khác

Nhằm mục đích thanh toán hộ và cho một số mục đích khác, NHTM này có thể
gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường không lớn.
1.1.3.2.2 Vốn vay từ NHNN và các tổ chức tín dụng khác
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng
thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ
giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai
11
đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị
hạn chế.
* Vay NHNN (vay Ngân hàng trung ương)
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), NHTM
thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc tái
cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở
thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái
chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ
(tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách
chặt chẽ; NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông
thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo
hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ.
Trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
* Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có
kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn
long cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.
Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi
trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn

từ NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp
với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc NHNN). Khoản vay có
thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết
quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và ngân hàng đi vay tăng lên.
12
* Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách
phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều
NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho
vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các
nguồn tiền gửi, đáp ưng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn Thông thường đây
là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ
vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng
cách này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của
Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị
trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để
quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề
chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ…cũng được các ngân hàng quan tâm.
1.1.3.2.3 Nguồn vốn khác
Loại này bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác.
* Tiền ủy thác
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy
thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác
tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức
kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử
dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình
thành nguồn ủy thác, làm gia tăng vốn của ngân hàng.
* Tiền trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh

toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C…). Những ngân hàng là ngân
hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên
chuyển về để thực hiện cho vay.
13
* Tiền khác
Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả.
1.1.4 Đặc điểm
1.1.4.1 Đặc điểm Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu hay vốn tự có chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn huy
động của ngân hàng nhưng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà
cửa cho ngân hàng và đặc biệt là được dùng để đảm bảo tính thanh khoản của NH.
Vốn tự có càng lớn thì sức chịu đựng của NH càng lớn khi tình hình kinh tế và hoạt
động kinh doanh của ngân hang gặp khó khăn. Vốn tự có lớn, khả năng tạo ra lợi
nhuận lớn vì có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ NH, có cơ hội thu được nhiều lợi nhuân.
Tuy nhiên, không phải vốn tự có càng lớn càng tốt vì nếu nó quá lớn thì lợi nhuận chia
cho các cổ đông sẽ giảm, giá cổ phiếu sẽ giảm theo. Ngược lại, vốn tự có quá nhỏ sẽ
cản trở hoạt động của NH. Như vậy, Vốn tự có/Tổng nguồn bao nhiêu là hợp lý? Theo
thoả ước Basel vào năm 1992, các NH phải đạt hệ số vốn tự có so với tài sản có dựa
trên cơ sở rủi ro là 8% (còn gọi là hệ số Cook). Đây được coi là tỷ lệ chuẩn để đánh giá
mức vốn tự có của các NH. Nếu theo tỷ lệ này thì hầu như không có NH nào tại Việt
Nam có thể đáp ứng được vì phần lớn tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản rủi ro ở các NH này
đều ở mức 5% đến 6%. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng điều kinh tế của mỗi quốc
gia trên thế giới là khác nhau; do vậy, nếu đem áp dụng 1 tỷ lệ chung cho tất cả thì
không hợp lý vì nhiều NH có hệ số Cook <8% nhưng vẫn hoạt động tốt. Do đó, tỷ lệ
chuẩn trên chỉ mang tính chất tương đối, quan trọng hơn là cơ cấu vốn tự có trong tổng
nguồn của mỗi NH phù hợp với hoạt động của chính nó, đáp ứng được yêu cầu trong
hoạt động kinh doanh của NH>
1.1.4.2 Đặc điểm Vốn nợ
1.1.4.2.1 Đặc điềm tiền gửi
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu

cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi
ngắn hạn, làm thay đổi yêu cầu thanh khoản của ngân hàng.
14
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này
chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân
hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao
hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước (trong đó có Việt Nam), ngân hàng phải mua bảo
hiểm cho tiền gửi.
Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến động về lãi
suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu, và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân
tố kích thích các doanh nghiệp, tầng lớp dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm
phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi
suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa
điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, quầy tiết kiệm, các loại hình huy động và dịch
vụ đa dạng…đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu
ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp tết, nguồn tiền tiết
kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt trong điều
kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng
lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn. Thu nhập gia tăng là điều
kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Khi ngân hàng mở rộng
cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi
thanh toán thường biến động mạnh (kém ổn định hơn) tiền gửi tiết kiệm.
Ngân hàng nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi thông qua nghiên cứu
đặc điểm thị trường nguồn tiền của ngân hàng để có biện pháp quản lý và sử dụng thích
ứng. Tuy nhiên ngân hàng thường khó dự tính được chính xác việc thay đổi quy mô và
kết cấu của tiền gửi.
1.1.4.2.2 Đặc điểm tiền vay
Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi.
Các khoản đi vay thường là với thời gian và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành

nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải
đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động
quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải
chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả
15
cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kỳ hạn. Các khoản vay
NHNN và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ
nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao.
Vay NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trọng từng thời kỳ. Việc vay mượn
các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang
thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên
ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng
phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho ngân hàng. Ngân
hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự án, tài trợ cho trang thiết bị và bất
động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất
là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ mô, sau đến là các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân
hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay.
Mặc dù lãi suất thường cao hơn các nguồn khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát
hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng được yêu cầu như ổn định,
quy mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
1.1.4.2.3. Đặc điểm các nguồn khác
Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh nghĩa bằng
không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Ví dụ để có các nguồn
ủy thác ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu
các dự án mà họ tài trợ…Nhìn chung, các nguồn khác trong ngân hàng thường không
lớn (trừ một số ngân hàng có các dịch vụ ủy thác cho nhà nước hoặc cho các tổ chức
quốc tê). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân
hàng, bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ

khác.
1.2. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn của NHTM
16
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng
khác đang phải đối mặt với cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường tài chính; Bất kỳ
biến động nào dù nhỏ hay lớn đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động huy
động vốn không chỉ đánh giá chính xác và đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng
mà còn phản ánh khả năng thích nghi, khẳng định sự phát triển trên thị trường của ngân
hàng. Hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở nhữn nội dung sau:
- Lượng vốn huy động tăng trưởng cao hàng năm, tốc độ tăng trưởng được duy trì và
tăng đều theo mục tiêu đã định. Do vậy, kế hoạch huy động vốn phải được thực hiện
thành công. Mức vốn huy động đạt được phải bằng hoặc vượt kế hoạch đề ra.
- Chi phí cho việc huy động vốn phải ở mức chấp nhận được, lãi suất huy động phải
được xác định dựa trên mối quan hệ với lãi suất cho vay để người gửi tiền và người vay
vốn chấp nhận được, đồng thời đảm bảo chi nhánh vẫn thu được lợi nhuận.
- Chất lượng nguồn vốn huy động phải đảm bảo các điều kiện về an toàn vốn như hợp
pháp, ổn đinh, lâu dài…để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
- Cơ cấu nguồn vốn phải hợp lý theo mục tiêu, chiến lược huy động vốn mà chi nhánh
đã đề ra. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để chi nhánh có cơ sở thực hiện
hoạt động kinh doanh theo hướng có lợi nhất.
Tóm lại, hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất
nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Đó chính là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu
cầu sử dụng vốn với chi phí hợp lý.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả huy động vốn NHTM
Ngân hàng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi cách thức huy
dộng vốn đem lại cho ngân hàng thương mại một nguồn vốn có tính chất khác nhau với
chi phí khác nhau. Do vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của một
NHTM ta cần dựa vào các tiêu chí cụ thể

1.2.2.1. Quy mô vốn huy động/Chi phí vốn huy động
Vốn của NHTM được chia ra làm 2 loại: vốn chủ sở hữu và vốn nợ. Vốn chủ sở
hữu chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng nhưng có thể
sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng và đặc biệt là
được dùng để đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng.
17
Vốn nợ chiếm phần lớn trong nguồn vốn của ngân hàng thương mại, đó là
nguồn vốn hoạt động chính đối với mỗi ngân hàng. Do vậy, hầu hết các khoản nợ của
ngân hàng thương mại đều liên quan đến chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn của ngân hàng thương mại đều bao gồm chi phí trả lãi và
chi phí phi trả lãi. Trong tổng số chi phí vốn huy động thì chi phí trả lãi là chủ yếu.
Ngoài ra còn có các chi phí khác như: chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ
bắt buộc, dự trữ thanh toán, chi phí cho hoạt động quảng cáo để thu hút khách hàng gửi
tiền, chi phí để mở các quỹ tiết kiệm, phòng giao dịch để huy động tiền gửi, chi phí
mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ cho công tác huy động vốn…và các chi phí khác
liên quan đến hoạt động huy động vốn.
Chi phí trả lãi mà ngân hàng trả cho khách hàng là chi phí dựa trên lãi suất danh
nghĩa – lãi suất ngân hàng công bố cho khách hàng. Chi phí này phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi tiền của khách hàng, chiến lược
kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện ích kèm theo…Tuy nhiên lãi suất
thực tế của từng nguồn vốn huy động đối với ngân hàng là cao hơn bởi vì ngoài chi phí
trả lãi, ngân hàng còn phải bỏ ra nhiều chi phí nữa – chi phí phi trả lãi. Vì vậy, chỉ tiêu
chi phí huy động vốn/tổng vốn huy động được chia nhỏ làm 2 chỉ tiêu khác. Đó là:
- Chi phí trả lãi/tổng vốn huy động: cho biết để huy động được một đồng vốn
thì ngân hàng cần phải trả bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố cho khách hàng.
- Chi phí phi trả lãi/ tổng vốn huy động: cho biết để có thêm một động vốn
ngân hàng phải bỏ ra bao nhiêu chi phí cho việc cất giữ, bảo quản…
Tóm lại: chi phí huy động vốn/tổng vốn huy động được dùng để đánh giá xem
một đồng vốn ngân hàng huy động được cần phải bỏ ra bao nhiêu chi phí.
Như vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, chi phí cho một đồng vốn phải

hợp lý, đảm bảo các khoản thu nhập có thể bù đắp được các khoản chi phí bỏ ra và đem
lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì huy động vốn càng có hiệu quả.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng để giảm chi phí huy động vốn thì cần phải giảm lãi
suất huy động và có các chi phí bảo quản, quản lý, dự trữ vốn huy động một cách tối
ưu nhất. Việc đưa ra một lãi suất hợp lý là rất quan trọng lãi suất không quá cao – đảm
bảo lợi ích cho ngân hàng cũng không quá thấp – nhằm thu hút khách hàng gửi tiền,
18
đồng thời giảm các chi phí phi trả lãi cũng làm cho hoạt động huy động vốn của ngân
hàng có hiệu quả hơn.
1.2.2.2. Chênh lệch thu chi lãi/chi phí trả lãi của ngân hàng
Mối liên hệ giữa nguồn vốn và tài sản là mối liên hệ giữa huy động vốn và sử
dụng vốn; đây là hai mặt của một quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, để
đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của ngân hàng, tức là khả năng đáp ứng kịp
thời các nhu cầu về sử dụng vốn hay khả năng sinh lời từ đồng vốn huy động được thì
các ngân hàng cũng thường sử dụng chỉ tiêu chênh lệch thu chi lãi/chi phí trả lãi của
ngân hàng để đánh giá mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn cũng như hiệu quả
của hoạt động huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Chênh lệch thu chi lãi/Chi phí trả lãi = (Thu lãi - Chi lãi)/Chi phí trả lãi
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy ngân
hàng đã sử dụng hiệu qủa đồng vốn huy động của mình trong việc tối thiểu hóa chi phí
huy động cho đồng vốn đó. Chỉ tiêu này cao do chênh lệch thu chi lãi trước thu, chi
khá cao và chi phí trả lãi nhỏ. Chỉ tiêu chênh lệch thu, chi lãi/chi phí trả lãi cao cũng có
thể do chi phí tăng và thu nhập trước thu nhập khác và chi phí khác giảm. Tuy nhiên,
tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ giảm của thu nhập đó.
1.2.2.3. Quy mô vốn huy động/chi phí tiền lương
Trước hết, để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thông qua chỉ tiêu này
cần phải đánh giá chỉ tiêu quy mô vốn huy động/một cán bộ huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng số vốn mà ngân hàng huy động được trong một thời

kỳ từ khách hàng cá nhân chia cho tổng số lao động trong hoạt động huy động vốn của
ngân hàng trong thời kỳ đó.
Quy mô vốn huy động/ một cán bộ huy động vốn = Tổng số vốn huy động/ Tổng số
lao động huy động vốn
Chỉ tiêu này cho thấy, trong một thời kỳ nhất định, một lao động của ngân hàng huy
động được bao nhiêu vốn, hay nói cách khác chỉ tiêu này cho biết năng suất huy động
vốn của lao động hoạt động huy động vốn trong ngân hàng.
Chỉ tiêu này tăng cho thấy năng suất huy động vốn của ngân hàng tăng lên khi
nguồn vốn huy động tăng nhanh hơn số lao động hoạt động huy động vốn. Tuy nhiên
cũng cần phải xem xét tới sự giảm của nguồn vốn huy động và số lượng lao động hoạt
19
động huy động vốn của ngân hàng qua các năm. Bởi chỉ tiêu này vẫn tăng nếu sự giảm
xuống của nguồn vốn huy động được chậm hơn so với sự giảm xuống của lao động
hoạt động huy động vốn.
Chỉ tiêu nguồn vốn huy động/một lao động hoạt động huy động vốn tăng qua
các năm cho thấy hiệu qủa trong việc huy động vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, chỉ tiêu
này cũng chỉ cho thấy một cách định lượng về khả năng huy động vốn của lao động
hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Chúng không nêu lên được cơ cấu nguồn vốn
huy động cũng như các chi phí phải bỏ ra để huy động để huy động vốn, sự phù hợp
của nguồn vốn huy động với mục tiêu sử dụng vốn.
Đối với chỉ tiêu quy mô vốn huy động/chi phí tiền lương phải trả cho tổng
cán bộ huy động vốn cho thấy một đồng chi phí phải trả cho một cán bộ huy động vốn
sẽ thu được bao nhiêu đồng vốn huy động.
Quy mô vốn huy động/Chi phí tiền lương = Tổng số vốn huy động/ Tổng tiền
lương trả cho cán bộ huy động vốn
Chỉ tiêu này càng cao càng thể hiện rõ hiệu qủa trong hoạt động huy động vốn
của ngân hàng; lý do, chỉ tiêu này cao khi chi phí thấp và quy mô vốn huy động cao
hoặc là chi phí huy động tăng nhưng tốc độ tăng lại không nhanh bằng quy mô vốn huy
động. Tuy nhiên, cũng cần xét tới sự giảm sút của hai yếu tố cấu thành nên chỉ tiêu
này; Bởi nếu quy mô vốn giảm nhưng vẫn nhanh hơn tốc độ giảm của chi phí sẽ làm

cho chỉ tiêu này vẫn phản ánh được hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Như vậy
chỉ tiêu sẽ cho thấy hiệu quả huy động vốn của ngân hàng về mặt lượng một cách cụ
thể.
1.2.2.4. Sự ổn định vốn huy động của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là hiệu quả tốt ngoài những yếu tố
như đáp ứng yêu cầu chi phí thấp, có sự ổn định, tức là không có sự thay đổi đột ngột
trong thời gian sử dụng nguồn vốn đó của ngân hàng.
Thông thường các nguồn vốn huy động đều có thể dự tính được trước thời gian
sử dụng như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm…
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định về mặt số lượng để thỏa mãn nhu
cầu tín dụng cũng như các nhu cầu khác của ngân hàng. Mặt khác, vốn huy động đó
cũng cần có sự ổn định về thời gian. Ví dụ ngân hàng huy động được một nguồn vốn
lớn đáp ứng được yêu cầu tín dụng nhưng lại không đánh giá được khả năng ổn định
20
của nguồn vốn đó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, tạo cho ngân hàng
những rủi ro khó lường trước được. Ngược lại, nếu ngân hàng chỉ huy động được
nguồn vốn nhỏ nhưng ổn định về thời gian sẽ làm cho việc đầu tư của ngân hàng từ
nguồn vốn đó đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm vốn huy động. Nếu vốn huy
động tăng đều qua các năm, có tốc độ gia tăng ổn định, đều đặn thì vốn đó được coi là
có hiệu quả trong việc huy động
1.2.3. Phương pháp xác định chi phí huy động vốn
1.2.3.1. Phương pháp xác định lãi suất tiền gửi
Theo nguyên lý chung, các ngân hàng huy động với lãi suất thị trường, phản ánh
quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Với mỗi nguồn cụ thể, ngân hàng có phương
pháp riêng để tính toán lãi suất huy động.
1.2.3.1.1. Xác định lãi suất huy động dựa theo tỷ lệ lạm phát và thu nhập kỳ
vọng của người gửi tiền
Lãi suất huy động = Tỷ lệ lạm phát bình quân + Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của người gửi
tiền

- Để có lãi suất thực dương, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên
không phải nguồn nào ngân hàng cũng trả lãi suất thực dương. Những nguồn có kỳ hạn
ngắn (khách hàng lựa chọn tính thanh khoản cao hơn tính sinh lời), ngân hàng thường
trả lãi suất thực âm.
- Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền phụ thuộc vào rủi ro của mỗi ngân hàng, tỷ
lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác, và những tiện ích mà người gửi hy vọng
nhận được từ ngân hàng. Những loại tiền gửi mà tiện ích thu được từ ngân hàng càng
cao, lãi suất ngân hàng trả cho nguồn tiền càng thấp.
1.2.3.1.2.Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc
Lãi suất nguồn = Lãi suất gốc (lãi suất tái chiết khấu, hoặc + Tỷ lệ Thu nhập kỳ
(Nhóm nguồn) lãi suất liên ngân hàng, lãi suất trái phiếu vọng của người gửi
21
ngắn hạn của chính phủ) tiền
Trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, nguồn cung ứng tiền từ ngân hàng
Trung ương, từ các tổ chức tài chính khác ngày càng có ý nghĩa hơn đối với các
NHTM. Với môi trường này, NHTM xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc.
Những lãi suất gốc quan trọng là lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ương
(Ngân hàng Nhà nước), lãi suất chiết khấu trên thị trường liên ngân hàng, hoặc lãi suất
trái phiếu ngắn hạn của Chính phủ. Những ngân hàng lớn, ở các trung tâm tài chính,
thường lấy các lãi suất này làm điểm xuất phát khi xác định lãi suất huy động.
Ngân hàng sử dụng lãi suất gốc để xác định lãi suất trả cho các nguồn tiền gửi ngắn
hạn. Từ lãi suất gốc, ngân hàng đa dạng các tỷ lệ lãi suất khác nhau theo nguyên tắc:
Lãi suất bình quân thực dương, tương quan về an toàn và sinh lời với các hoạt động
đầu tư khác như mua vàng, bất động sản, chứng khoán;
Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay với cùng kỳ hạn;
Lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn;
Lãi suất tỷ lệ thuận với quy mô;
Lãi suất tỷ lệ nghịch với tính thanh khoản;
Lãi suất tỷ lệ thuận với khả năng sử dụng của tiền gửi;
Lãi suất tỷ lệ nghịch với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng cung

cấp.
1.2.3.1.3. Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất của tài sản sinh lãi
Trong điều kiện cạnh tranh để tìm kiếm nguồn tiền, nhiều ngân hàng nỗ lực tiết kiệm
chi phí khác (như chi phí quản lý), và chấp nhận tỷ lệ thu nhập ròng thấp để gia tăng lãi
suất huy động. Ngân hàng có thể xác định lãi suất huy động tối đa trong mối tương
quan với lãi suất sinh lời của các tài sản.
22
Lãi suất nguồn = Tỷ lệ sinh lời dự tính - Tỷ lệ chi phí - Tỷ lệ thuế
(Nhóm nguồn) từ tài sản được tài trợ khác ròng phân bổ thu nhập và
bằng nguồn (nhóm nguồn) cho nguồn thu nhập ròng
(nhóm nguồn) tính trên nguồn
(nhóm nguồn)
Ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với môi trường cạnh tranh và chiến
lược huy động vốn, trong mối tương quan với các lãi suất khác trong ngân hàng.
1.2.3.1.4. Một số ngân hàng nhỏ đặt giá trên cơ sở lãi suất của ngân hàng lớn
(ngân hàng trung tâm)
Tùy trường hợp cụ thể mà lãi suất này sẽ cộng thêm phần bù rủi ro của ngân hàng
nhỏ. Trong điều kiện thị trường xa cách, người gửi khó tiếp cận với các ngân hàng lớn,
ngân hàng nhỏ đặt lãi suất huy động tương quan với lãi suất sinh lời.
1.2.3.2. Phương pháp xác định chi phí hoạt động huy động vốn
- Chi phí huy động:
Chi phí huy động = Lãi trả cho nguồn huy động + Chi phí huy động khác
Định giá nguồn huy động là một mắt xích trong quy trình định giá của ngân
hàng, bao gồm xác định lãi suất huy động và các chi phí khác có liên quan tới huy
động, trong đó lãi suất là phần quan trọng ảnh hưởng đến quy mô và hiệu quả huy
động.
Lãi trả nguồn huy động = Quy mô huy động x Lãi suất huy động
Chi phí huy động khác:
Chi phí huy động khác rất đa dạng và không ngừng gia tăng trong điều kiện các ngân
hàng gia tăng cạnh tranh phi lãi suất. Nó bao gồm chi phí trả trực tiếp cho người gửi

23
tiền (quà tặng, quay số trúng thưởng, kèm bảo hiểm…), chi phí tăng tính tiện ích cho
người gửi tiền (mở chi nhánh, quầy, phòng, điểm huy động, trang bị thêm máy đếm,
soi tiền cho khách hàng kiểm tra, huy động tại nhà, tại cơ quan…), chi phí lương của
cán bộ phòng nguồn vốn, chi phí bảo hiểm tiền gửi…Một số chi phí khác được tính
chung vào chi phí quản lý và rất khó phân bổ cho hoạt động huy động vốn.
- Xác định lãi suất huy động là công việc phức tạp, quyết định tới chất lượng của
nguồn huy động, từ đó tới chất lượng của tài sản, đòi hỏi tính nhạy bén của nhà quản lý
ngân hàng. Ngân hàng cần phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô và cấu
trúc nguồn huy động, để xác định lãi suất và các chi phí huy động khác.
- Định giá huy động cần tính toán kỹ lưỡng yếu tố lãi và phi lãi, cân nhắc lợi thế của
mỗi yếu tố trong những trường hợp cụ thể.
Phương pháp xác định chi phí huy động vốn rất hữu ích cho ngân hàng để xây dựng
chính sách kinh doanh có hiệu quả. Có hai lý do chủ yếu mà ngân hàng quan tâm khi
xác định chi phí huy động vốn:
- Tính toán tương đối chính xác chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để xác định
mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản có sinh lời.
- Loại hình nguồn vốn mà ngân hàng huy động được và việc sử dụng nguồn vốn này
ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn.
Có 3 phương pháp được các ngân hàng áp dụng phổ biến là: chi phí trung bình theo
nguyên giá; chi phí biên của từng nguồn vốn huy động và chi phí bình quân gia quyền
dự kiến cho tất cả nguồn vốn. Mỗi phương pháp có một ý nghĩa tuỳ theo mục đích sử
dụng của con số chi phí huy động vốn tính toán được.
1.2.3.2.1. Chi phí bình quân gia quyền theo phương pháp nguyên giá (Historical
average cost method)
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất, phương pháp này chú trọng vào cơ
cấu hỗn hợp các nguốn vốn mà ngân hàng đã huy động được trong quá khứ và xem xét
cẩn thận mức lãi suất mà thị trường đã áp đặt ngân hàng phải trả cho mỗi nguồn vốn đi
24
vay. Tích số của lãi suất phải trả và tổng mức vốn đi vay được sử dụng trong quá khứ

tạo thành chi phí nguồn vốn bình quân gia quyền. Nó được tính toán theo công thức lấy
chi phí trả lãi chia cho tổng số vốn đi vay và tiền gửi:
Chi phí trả lãi bình quân
gia quyền =
Chi phí trả lãi
Tổng số vốn đi vay và tiền gửi
Chi phí trả lãi bình
quân gia quyền của
các nguồn vốn hưởng
lãi
=
Chi phí trả lãi
Tổng số vốn đi vay
và tiền gửi
Ví dụ: Giả sử một ngân hàng có số dư cuối kỳ trên sổ sách như sau:
Nguồn vốn ngân hàng Số dư cuối kỳ
(triệu USD)
Lãi suất bình quân
phải trả (%)
Tổng chi phí lãi phải
trả (triệu USD)
Tài khoản dùng séc 65 0,0 0,00
Tài khoản NOW 35 5,0 1,75
Tiền gửi tiết kiệm 40 5,5 2,20
Chứng chỉ tiền gửi 32 9,4 3,01
Tài khoản tiền gửi thị
trường tiền tệ
38 8,2 3,12
Vay thị trường tiền tệ
(nguồn phi tiền gửi)

15 8,5 1,28
Tổng số nguồn vốn 225 11,36 (tổng chi phí
lãi)
25

×