Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

TÌM HIỂU VỀ QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN VÙNG Ở VIỆT NAM, TRƯỜNG HỢP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.47 KB, 17 trang )

TÌM HIỂU VỀ QUY HOẠCH TỔNG THỂ
PHÁT TRIỂN VÙNG Ở VIỆT NAM,
TRƯỜNG HỢP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
ThS. Nguyễn Hoàng Hà
Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Lời nói đầu
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), chúng ta bắt đầu xây dựng
chiến lược phát triển đất nước với thời kỳ 10 năm (1991‑2000) và cho
đến nay, Việt Nam đã trải qua gần hai thời kỳ chiến lược phát triển. Để
cụ thể hoá một bước của chiến lược phát triển đất nước, từng vùng lãnh
thổ được quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội. Đến thời điểm
hiện tại, quy hoạch tổng thể phát triển 6 vùng kinh tế ‑ xã hội
1
ở Việt
Nam đang được trình Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa
phương đóng góp ý kiến.
Có phải chăng rằng chỉ có Việt Nam có quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế vùng, được xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là cụ thể hoá hơn
các mục tiêu, định hướng, và giải pháp của chiến lược phát triển đất
nước đối với từng vùng? Nếu chỉ cần vào trang web tìm kiếm hàng đầu
thế giới, Google, và nhập dòng chữ “regional planning” (quy hoạch
vùng) ta sẽ nhận được 603.000.000 địa chỉ tương ứng. Như vậy, có thể
thấy rằng, quy hoạch vùng của Việt Nam không phải là mới, là duy nhất.
Trong các tài liệu, tác giả nghiên cứu, quy hoạch vùng đang được thực
hiện ở nhiều nước khác nhau, từ những nước phát triển đến những quốc
đang phát triển, nhưng khái niệm về vùng, các cách tiếp cận, những nội
dung và phương thức thực hiện quy hoạch có nhiều điểm khác biệt. Sau
1. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc; Vùng Đồng bằng sông Hồng; vùng Bắc Trung
bộ và Duyên hải miền Trung; Vùng Tây Nguyên; Vùng Đông Nam Bộ; và Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long.
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM


261
đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu. Để minh hoạ rõ thêm về việc nghiên
cứu và xây dựng quy hoạch tại Việt Nam, tác giả viện dẫn trường hợp
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội vùng Đồng bằng sông
Hồng do Viện Chiến lược phát triển làm Chủ đề án.
1. Một số quan niệm về vùng và vùng kinh tế
1.1. Quan niệm về vùng
Theo Gregory và các cộng sự (2009: 630), hầu hết các nhà nghiên cứu
đều định nghĩa vùng là (a) một miền hoặc một khu vực không rõ ràng về
quy mô trên bề mặt của trái đất, bao gồm nhiều thành tố khác nhau tạo
thành một sự kết hợp chức năng; (b) là một phần của một hệ thống các vùng
che phủ trái đất; hoặc (c) một bộ phận của một đặc trưng của trái đất, như
là một vùng khí hậu đặc biệt (cụ thể) hoặc vùng kinh tế đặc biệt (cụ thể).
Trong cuốn sách của mình, Phú và Thu (2006:18‑19), dựa trên các tài
liệu nghiên cứu, đã cho rằng vùng là một khái niệm về không gian nhất
định trên trái đất. Hai ông cho rằng, vùng phải có được những đặc tính
cơ bản, bao gồm: một không gian nhất định; phạm vi và ranh giới nhất
định; và có hình thức kết cấu nhất định.
Các tài liệu cho thấy rằng, các khái niệm về vùng lãnh thổ hay
vùng địa lý đều không có sự khác biệt nhiều và đối với các quốc gia,
phạm vi (ranh giới) của vùng địa lý cũng không có biến động nhiều
qua thời gian.
1.2. Vùng kinh tế và vùng kinh tế ‑ xã hội
Không giống như vùng địa lý đơn thuần, khái niệm về vùng kinh tế
mang tính “động” do các hình thái, phương thức và các nội dung hoạt
động kinh tế của con người thay đổi nhanh chóng qua thời gian. Các
tính chất đặc trưng về vùng kinh tế bắt đầu có những biến đổi, đặc biệt
là về không gian và chức năng kinh tế của vùng. Vùng kinh tế gắn liền với
sự phát triển của ngành địa lý kinh tế.
Ngành địa lý kinh tế được phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19.

Trong vòng hơn 50 năm kể từ khi xuất hiện, lĩnh vực địa lý kinh tế và
vùng kinh tế đã được đánh dấu bằng những giai đoạn năng động và đổi
mới với các nghiên cứu của Weber (1909), Losch (1939), Isard (1956). Các
262
Nguyễn Hoàng Hà
khái niệm về vùng kinh tế trong giai đoạn này được gắn với các hoạt
động tích tụ (tập trung) kinh tế gắn liền với các hoạt động thương mại
như buôn bán trao đổi hàng hoá. Đến những năm 1960, lý thuyết mới
về vùng kinh tế và địa lý kinh tế được xuất hiện, với cuộc cách mạng
định lượng, từ lý giải về vị trí đến việc giải thích về hành vi của khoa
học không gian. Tiếp đó, những năm 1980, lý thuyết mới về địa lý công
nghiệp một sự phối hợp của đổi mới lý thuyết và bối cảnh kinh tế thay
đổi nhanh chóng đã có một lĩnh vực năng động tri thức.
Cùng thời điểm đó, ở những nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đặc
biệt là Liên Xô (trước đây) cũng hình thành việc xây dựng các vùng kinh
tế. Theo nhà địa kinh tế học, Alaev (trích Phú và Thu 2006: 19‑20) vùng
kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân,
có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế quốc
dân cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan
hệ qua lại giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh
tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng , coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một
đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân.
Có thể thấy rằng, vùng kinh tế theo quan niệm của Liên Xô gắn chặt
với chuyên môn hoá sản xuất của vùng trong lãnh thổ quốc gia, thể hiện
qua cơ cấu ngành (sản phẩm), nghề (lao động) của vùng đó.
Một trào lưu mới trong việc quan niệm vùng kinh tế được bắt đầu từ
những năm 1990 sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ.
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập hoá khu vực được diễn ra mạnh mẽ
làm đồng thời xuất hiện những khái niệm mới như chuỗi giá trị toàn cầu,
hệ thống phân phối toàn cầu, đầu tư ra nước ngoài (offshore), khu vực

hậu cần (logistic), hoặc cụm tương hỗ (cluster), nhằm tạo ra những giá
trị lớn hơn. Các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các luồng thương
mại, cũng như các hiệu ứng công nghệ (technology spillover) được luân
chuyển nhanh chóng giữa các quốc gia thông qua các tập đoàn đa quốc
gia. Lúc này, quan niệm về vùng đã có sự thay đổi. Barnet (2001: 15) đã
định nghĩa vùng là một đơn vị cạnh tranh của một quốc gia trong nền
kinh tế toàn cầu, do đó cần phải có cách tiếp cận mới và là lý do tại sao
hợp tác vùng trở thành một chiến lược không thể thiếu cho tương lai.
Cũng trong thời gian này, các lý thuyết mới liên quan đến vùng đã được
ứng dụng mạnh mẽ, đặc biệt là lý thuyết cạnh tranh của Michael Porter
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
263
và mô hình phân tích không gian của Paul Krugman. Điều đặc biệt là các
lý thuyết, mô hình về vùng này được tập trung phân tích hành vi của
người lao động (tiền lương) và các doanh nghiệp liên quan đến vùng.
Đối với Việt Nam, các nhà lập quy hoạch vùng chịu sự ảnh hưởng
rất lớn từ cách quan niệm về vùng kinh tế và vùng kinh tế ‑ xã hội
của hệ thống xã hội chủ nghĩa (đặc biệt là Liên Xô), gắn chặt với sự
phân công lao động xã hội của vùng trong cả nước, thể hiện bằng mặt
cơ cấu xã hội của vùng. Theo Ngô Doãn Vịnh (2003: 184) vùng kinh
tế là một hệ thống kinh tế ‑ xã hội lãnh thổ, bao gồm các mối liên hệ
tương tác nhiều chiều giữa các bộ phận cấu thành: liên hệ địa lý, liên
hệ về kỹ thuật, liên hệ về kinh tế và liên hệ về các mặt xã hội trong
hệ thống cũng như với ngoài hệ thống. Mỗi vùng là một tập hợp các
thành tố tự nhiên ‑ kinh tế ‑ xã hội. Đặc tính và trình độ phát triển
của nó được phản ánh bởi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của nó (trong
đó có cả cơ cấu các yếu tố tự nhiên bền vững). Nói cách khác, cơ cấu
là thuộc tính quan trọng nhất của vùng. Vùng này khác vùng kia là
bởi cơ cấu của nó.
Theo Nghị định 92/2006/NĐ‑CP của Chính phủ ngày 7/9/2006 về lập,

phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội, thì
vùng kinh tế ‑ xã hội là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, gồm một số
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các hoạt động kinh tế ‑ xã hội
tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước.
Đây là loại vùng phục vụ việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát
triển kinh tế ‑ xã hội theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình
phát triển kinh tế ‑ xã hội trên mỗi vùng của đất nước.
2. Lập, phương pháp và quy trình lập quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng
2.1. Quan niệm về lập quy hoạch
Trước hết cần phải hiểu lập quy hoạch vùng là gì? Theo trang từ điển
bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “regional planning” là một ngành
khoa học về việc bố trí hiệu quả lĩnh vực kết cấu hạ tầng và các khu vực
cho sự phát triển bền vững của vùng
1
. Còn theo trang Wisegeek,
1. hp://en.wikipedia.org/wiki/Regional_planning
264
Nguyễn Hoàng Hà
“regional planning” là một lĩnh vực của ngành kế hoạch phát triển liên
quan đến sự bố trí và sắp đặt kết cấu hạ tầng và các thành tố cơ bản khác
trên một lãnh thổ rộng lớn
1
. Quan niệm này cũng được sự đồng tình từ
Ngô Doãn Vịnh (2003) khi ông cho rằng, quy hoạch vùng tương tự với
tổ chức không gian lãnh thổ, tức là liên quan đến sự sắp xếp, bố trí kết
cấu hạ tầng và các lĩnh vực chính, trọng yếu của một vùng. Điều này
cũng được thể hiện rõ ở Nghị định 92/2006/NĐ‑CP, đã định nghĩa quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội vùng, lãnh thổ là “luận chứng
phát triển kinh tế ‑ xã hội và tổ chức không gian các hoạt động kinh tế ‑

xã hội hợp lý trên lãnh thổ nhất định trong một thời gian xác định”.
Điều đó, cho thấy rằng, về quan niệm lập quy hoạch tổng thể vùng
của nước ngoài và Việt Nam có sự tương đồng rất lớn, liên quan mật
thiết đến tổ chức không gian lãnh thổ trên phạm vi vùng nghiên cứu.
2.2. Phương pháp và quy trình
Từ các quan niệm khác nhau về vùng kinh tế hoặc vùng kinh tế ‑ xã
hội, đã dẫn đến cách tiếp cận và quan điểm phát triển vùng khác nhau.
Tuỳ từng hoàn cảnh lịch sử kinh tế ‑ xã hội mà quy trình và phương
pháp lập quy hoạch cũng khác nhau.
2.2.1. Các nước phương Tây
Cách tiếp cận hoặc cách quan niệm về vùng có ảnh hưởng trực tiếp,
rất lớn đến các phương pháp lập quy hoạch. Qua phần trình bày trên
phần 1, đã cho thấy rằng, quan niệm về vùng kinh tế và địa kinh tế của
các nước phương Tây có tính “động”, phù hợp với xu hướng phát triển,
vận động của nền kinh tế toàn cầu. Các vùng không chỉ còn có ranh giới
trong phạm vi của lãnh thổ, mà nó còn là một đơn vị cạnh tranh của nền
kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Chính vì lý do này, có rất nhiều phương
pháp và mô hình lập quy hoạch vùng, đặc biệt là các phương pháp và
mô hình tổ chức, bố trí các đơn vị (thành phố, nhà máy, nông thôn, )
trên vùng nghiên cứu. Qua các tài liệu nghiên cứu (các bản lập quy
hoạch phát triển vùng của các nước thuộc hệ thống phương Tây
2
), chúng
tôi nhận thấy, những cách thức bố trí không gian lãnh thổ cũ như Von
Thunen hay mô hình hệ thống trung tâm chỉ là những ví dụ trong sách
1. hp://www.wisegeek.com/what‑is‑regional‑planning.htm
2 Bao gồm các nước thuộc khối EU, Hoa Kỳ, Canada, Úc và Newzealand
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
265
giáo khoa, thay vào đó là các phương pháp lập quy hoạch được lượng

hoá và mô hình hoá bằng các công thức toán học. Bên cạnh đó, các bản
quy hoạch được diễn giải bằng hệ thống các bản đồ nhiều chiều được
chụp từ vệ tinh.
Về quy trình lập quy hoạch, ở nhiều quốc gia thì các quy trình này
có sự khác nhau, nhưng trong hầu hết các bản quy hoạch vùng, sự tham
gia của người dân, của nhà khoa học và của doanh nghiệp là rất lớn (có
tiếng nói quan trọng). Nhiều bản quy hoạch được dựng lên bởi các tổ
chức và họ trình cho chính quyền xem xét và tham khảo, từ đó chính
quyền công bố những chương trình xây dựng và bố trí không gian lãnh
thổ cho người dân. Điều đáng lưu ý, những bản quy hoạch này không
mang tính giá trị pháp lý mà chỉ mang tính giá trị tham khảo. Hoặc có
trường hợp, chính quyền xây dựng bản quy hoạch vùng và công bố xin
ý kiến của người dân và doanh nghiệp, nếu không được chấp thuận thì
hội đồng vùng (hoặc hội đồng bang) phải xây dựng lại. Đối với những
nước có chiến lược phát triển quốc gia (ví dụ như chiến lược phát triển
bền vững hoặc chiến lược an ninh quốc gia) thì quy hoạch vùng phải
lấy chiến lược đó làm căn cứ để xây dựng.
Hình 1: Mô hình Von Thunen và mô hình hệ thống trung tâm
Nguồn: Brakman, Garretsen và Marrewjik (2001)

: Làng : Thành phӕ nhӓ : Thành phӕ lӟn





rau
hoa
n
g

NJ c
ӕ
c
266
Nguyễn Hoàng Hà
Quá trình lập quy hoạch phát triển vùng được coi là một ma trận của
những biến số định lượng và định tính cũng như đây là một quy trình
phát triển và sản phẩm của sự phát triển.
2.2.2. Trung Quốc
Trung Quốc có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam về mô hình
phát triển: nền kinh tế quá độ do Đảng Cộng sản nắm quyền, xây dựng
chiến lược và xây dựng quy hoạch vùng. Qua các tài liệu nghiên cứu
cho thấy, một trong những thành công lớn góp phần vào công cuộc phát
triển Trung Quốc từ thời kỳ mở cửa (1978) cho đến nay đó là sự phân
chia vùng phát triển kinh tế của nước này. Với sự lựa chọn đúng đắn và
những bước đi thích hợp, Trung Quốc tập trung phát triển đi trước ở
những vùng có điều kiện thuận lợi nhất (vùng Đông Nam của lãnh thổ,
sát biển) với những lý do:
‑ Địa kinh tế với khả năng giao lưu về thương mại hàng hoá và
dịch vụ lớn, kết nối Trung Hoa đại lục với những điểm cầu khác
của khu vực Đông Bắc Á, sau đó vươn xa hơn là các khu vực khác
của toàn cầu.
‑ Khu vực ven biển phát triển tốt sẽ là đầu tàu cho tăng trưởng của
Trung Quốc, đồng thời đó là mô hình thí điểm các chính sách mới
của Trung Quốc.
‑ Các vùng ven biển sẽ chính là hình ảnh mới (trỗi dậy mạnh mẽ,
hiện đại và hoà bình) của một Trung Quốc tàn tạ sau cuộc Đại
cách mạng văn hoá.
Chúng tôi nhận thấy rằng, sự phát triển vùng của Trung Quốc mô
phỏng ngày càng nhiều theo mô hình của phương Tây. Trung Quốc đã

biết tận dụng tốt ý kiến của giới khoa học (trong và ngoài nước) đối với
quy hoạch vùng (họ trả nhiều tiền cho các chuyên gia kèm theo các chế
độ đãi ngộ cao). Phương pháp lập quy hoạch ngày càng được cải thiện
và theo kịp các phương pháp của khối các nước OECD. Tất nhiên, các
quy hoạch phát triển kinh tế vùng được dựa trên chiến lược phát triển
tổng thể đất nước của Trung Quốc.
2.2.3. Ở Việt Nam
Quy trình lập quy hoạch vùng của Việt Nam hiện nay, được quy định
tại Nghị định 92/2006/NĐ‑CP và Nghị định 04/2008/NĐ‑CP. Quy hoạch
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
267
tổng thể vùng được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin ý kiến của Thủ tướng
Chính phủ. Sau khi được phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và
phối hợp với các đơn vị của hệ thống chính phủ và nhà nước có liên
quan thực hiện, lập Hội đồng thẩm định, sau đó trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt. Có thể thấy rằng, quy trình lập quy hoạch tổng thể vùng
của Việt Nam được thực hiện từ trên xuống (top‑down), sự tham gia của
các lực lượng khác ngoài hệ thống Nhà nước là gần như không có (từ
cộng đồng doanh nghiệp và cộng đồng dân cư).
Đối với phương pháp lập quy hoạch, hiện nay chúng ta sử dụng
nhiều phương pháp, trong đó có những phương pháp mới như GIS,
nhưng chủ yếu là những phương pháp cũ. Các phương pháp lập quy
hoạch được sử dụng nhằm phục vụ cho các nội dung được yêu cầu của
bản quy hoạch tổng thể vùng (cũng được quy định trong Nghị định
92/2006/NĐ‑CP và Nghị định 04/2008/NĐ‑CP). Theo đó, nội dung của
một bản quy hoạch tổng thể vùng bao gồm:
(1) Phân tích, đánh giá, dự báo về các yếu tố, điều kiện phát triển
(2) Luận chứng mục tiêu, quan điểm và phương hướng phát triển
kinh tế ‑ xã hội
(3) Xác định nhiệm vụ cụ thể để đạt được các mục tiêu đề ra

(4) Luận chứng phương án tổng hợp về tổ chức kinh tế, xã hội trên
lãnh thổ tỉnh
(5) Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
(6) Định hướng quy hoạch sử dụng đất
(7) Luận chứng danh mục dự án ưu tiên đầu tư
(8) Luận chứng bảo vệ môi trường
(9) Xác định các giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm thực hiện mục
tiêu quy hoạch
(10) Thể hiện phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã
hội vùng trên bản đồ quy hoạch
Bản quy hoạch tổng thể vùng cần phải phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế ‑ xã hội, và thể hiện được tính thống nhất của các quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và
các quy hoạch khác liên quan.
268
Nguyễn Hoàng Hà
3. Nội dung và phương pháp lập quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội vùng ĐBSH
1
3.1. Nội dung quy hoạch (lấy ví dụ phần I ‑ Lợi thế so sánh và hạn
chế khó khăn đối với phát triển của vùng Đồng bằng sông Hồng)
Phần này được tổng hợp dựa trên những nghiên cứu của quy hoạch
trước đây, các nghiên cứu liên quan đến vùng ĐBSH và các ý kiến
chuyên gia khác. Vùng ĐBSH được nghiên cứu là một vùng kinh tế ‑
xã hội “mở”, đặt trong bối cảnh không gian lớn (khu vực châu Á ‑ Thái
Bình Dương) và thời gian dài (về lịch sử, về phát triển kinh tế ‑ xã hội,
về văn hoá).
* Lợi thế so sánh:
(1). Vùng ĐBSH có thực lực và trình độ phát triển kinh tế khá hơn so
với nhiều vùng trong cả nước.

‑ Quy mô kinh tế đứng thứ hai (20,2 tỷ USD), chiếm 22,6% GDP của
cả nước.
‑ Đóng góp tăng trưởng cho cả nước là 23,7%, đứng thứ hai.
‑ Xuất khẩu khoảng 18,9 tỷ USD, đứng thứ hai, chiếm 30% của cả
nước, đứng thứ hai.
‑ Thu Ngân sách, đứng thứ hai, chiếm 30,9% tổng thu ngân sách
cả nước.
‑ Vùng KTTĐ Bắc Bộ, có mức GDP/người gấp gần 1,2 lần cả nước.
(2). Vùng ĐBSH có lợi thế về quy mô dân số, lực lượng lao động dồi
dào và có tay nghề khá ở trong những ngành nghề quan trọng.
‑ Quy mô dân số đứng thứ hai với 19,7 triệu người (22,8% dân số cả
nước), xấp xỉ bằng vùng Bắc Trung bộ, duyên hải miền Trung.
‑ Trình độ học vấn và chuyên môn cao hơn so với các vùng khác, với
64% các trường đại học và cao đẳng của cả nước, tập trung ở vùng
ĐBSH. Năm 2008, vùng ĐBSH tập trung tới 26‑27% cán bộ có trình độ
cao đẳng và đại học, 72% cán bộ có trình độ trên đại học của cả nước.
1. Hiện đang trong quá trình xin ý kiến các Bộ, ngành, và các địa phương.
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
269
Tổng số lao động kỹ thuật của vùng là khoảng 2 triệu người, chiếm
22,8% lao động kỹ thuật của cả nước.
(3). Vùng ĐBSH có vị trí và địa hình thuận lợi để phát triển.
Với vị trí cửa ngõ của khu vực Đông Nam Á với Trung Quốc và
các nước Đông Bắc Á, vùng ĐBSH có thủ đô Hà Nội và vùng KTTĐBB
trở thành một đầu mối giao thông đi thế giới bằng tất cả các loại hình
giao thông một cách dễ dàng. Hiện nay, từ cảng biển Hải Phòng, cảng
Cái Lân (Quảng Ninh) đi sang Singapore, Hồng Kông chỉ mất 3‑5
ngày và từ cảng hàng không Nội Bài (Hà Nội) đi đến Bắc Kinh, Tokyo,
Seoul, Moscow cũng chỉ khoảng 4‑6 giờ. Ngoài ra, vùng ĐBSH hình
thành hai hành lang và một vành đai kinh tế trong quan hệ Việt Nam

‑ Trung Quốc.
(4). Vùng ĐBSH có một hệ thống đô thị và các cơ sở tương đối mạnh.
‑ Trục tam giác phát triển Hà Nội ‑ Hải Phòng ‑ Quảng Ninh và vùng
KTTĐ Bắc Bộ.
‑ Tỷ lệ phần trăm đường được dải nhựa trong vùng ĐBSH đạt 83,5%,
cao nhất và gần gấp đôi tỷ lệ này của cả nước
1
. Hệ thống giao thông
được phát triển tương đối thuận lợi khi thời gian vận chuyển giảm nhiều
so với trước (thời gian đi từ Hà Nội tới Hải Phòng giảm được khoảng
một nửa, đi Hạ Long giảm khoảng 40%, đi Thanh Hóa ‑ Nghệ An giảm
hơn 30%, ).
‑ Hệ thống các KCN tương đối hoàn chỉnh, kết cấu hạ tầng thông tin
‑ truyền thông, phát triển tốt nhất cả nước (mật độ điện thoại, mật độ
internet ADSL cao nhất cả nước).
* Những thách thức, khó khăn
(1). Đất chật, người đông, chất lượng lao động chưa cao, và có sức
ép giải quyết việc làm lớn.
‑ Hiện nay, cả nước có 8 tỉnh/thành có mật độ dân số trên 1.000
người/km
2
thì vùng ĐBSH có 7 địa phương.
1. Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2008, VCCI.
270
Nguyễn Hoàng Hà
‑ Tỷ lệ thất nghiệp thành thị thường cao nhất cả nước và tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động ở nông thôn thấp nhất cả nước (do diện tích canh tác
trên 1 lao động rất thấp).
(2). Kết cấu hạ tầng (nhất là giao thông, điện) chưa tạo đủ tiền đề để
phát triển nhanh và hiệu quả cao

‑ Kết cấu hạ tầng hiện rất khó cải tạo, nâng cấp và mở rộng đặc biệt
là đường giao thông, đường điện nước. Nguyên nhân chủ yếu là do việc
quy hoạch không hợp lý và thiếu diện tích, đồng thời rất tốn kém khi
phải đền bù tiền giải phóng mặt bằng.
‑ Công trình thuỷ lợi xuống cấp nghiêm trọng.
‑ Giao thông đô thị xuống cấp, đặc biệt là Hà Nội và Hải Phòng.
(3). Cơ cấu ngành nghề chưa hiện đại, trình độ công nghệ còn thấp,
hiệu suất phát triển chưa cao, dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp
‑ Tính hiệu quả chưa cao trong các KCN, ví dụ như số lao động trên
1 dự án hoặc số lao động trên 1 ha đều thấp so với trung bình cả nước.
‑ Trình độ doanh nghiệp (công nghệ, lao động) còn thiếu sự năng
động và tính hiện đại.
(4). Tổ chức lãnh thổ đã có bước phát triển nhưng còn bộc lộ nhiều
bất hợp lý
‑ Sự chênh lệch giàu nghèo giữa 2 tiểu vùng Bắc và Nam vùng ĐBSH.
‑ Sự chia cắt, cát cứ giữa các địa phương trong vùng trong việc phát
triển kinh tế. Chưa có sự cạnh tranh lành mạnh trong việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
(5). Tâm lý phát triển chưa hình thành rõ nét và phát huy tác dụng
‑ Vùng KTTĐ Bắc Bộ và vùng Đông Nam Bộ thì vùng KTTĐ được
đầu tư nhiều hơn nhưng GDP/người thấp hơn, trình độ phát triển
kém hơn.
‑ Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh chưa cao, một số tỉnh có vị trí thấp.
(6). Bảo vệ môi trường chưa hiệu quả, chất lượng môi sinh giảm sút
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
271
‑ Xử lý chất thải đang là một mối lo. Tới năm 2008 chưa một thành
phố nào trong vùng có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt chất
lượng chuẩn.
‑ Chất lượng của các lưu vực sông xuống rất thấp (lưu vực sông Cầu

và sông Nhuệ).
(7). Sự cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc
Theo đánh giá sơ bộ của các chuyên gia kinh tế, rất nhiều sản phẩm
hàng hoá của Trung Quốc chiếm lĩnh tới khoảng 70% thị phần ở vùng
ĐBSH, nhất là máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, thép,
dệt may, đồ chơi và các mặt hàng tiêu dùng.
(8). Biến đổi khí hậu và thiên tai gây khó khăn ngày càng lớn
‑ ĐBSH là một trong những Vùng của Việt Nam gặp nhiều loại thiên
tai nhất. Về mùa đông, mùa màng bị ảnh hưởng bởi sương giá, mùa hè
bị ảnh hưởng bởi lũ, lụt, bão và nắng nóng kéo dài. Mỗi năm thường có
từ 5 ‑ 6 cơn bão đổ bộ vào Bắc Bộ, năm đặc biệt có từ 9 ‑ 10 cơn.
‑ Theo tính toán, khi mực nước biển dâng cao 0,2‑0,6m sẽ có 100
nghìn ha bị ngập, trong trường hợp nước biển dâng thêm 1m thì sẽ có
300‑500 nghìn ha bị ngập, và hệ thống đê sẽ bị đe dọa nghiêm trọng do
mực nước ở các sông sẽ dâng cao thêm 0,5‑1m và bằng với cao trình đê
hiện nay.
3.2. Phương pháp lập quy hoạch (áp dụng chủ yếu cho phần Định
hướng phát triển)
‑ Quan điểm phát triển được dựa vào mục tiêu. Mục tiêu như thế
nào thì quan điểm phát triển sẽ tương ứng như vậy. Mục tiêu phát triển
của vùng ĐBSH dựa vào những yêu cầu của cả nước đối với vùng
ĐBSH, yêu cầu tự thân của vùng:
Xây dựng vùng ĐBSH trở thành đầu tàu của cả nước về phát triển
kinh tế, khoa học ‑ công nghệ, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, đồng thời
lôi kéo các vùng khác cùng phát triển; đi đầu trong lĩnh vực hợp tác quốc
tế theo chiều sâu, trở thành một cầu nối tin cậy giữa khu vực ASEAN và
khu vực Đông Bắc Á, thể hiện được vai trò to lớn đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và góp phần nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
272

Nguyễn Hoàng Hà
‑ Mục tiêu cụ thể cho từng tiêu chí như tăng trưởng, GDP/người, dân
số, của vùng ĐBSH được dựa vào các mô hình tính toán khác nhau
cho từng chỉ tiêu (ghi rõ trong phần Phụ lục).
‑ Bố trí không gian lãnh thổ:
+ Đối với lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Phương pháp dựa trên các nghiên
cứu của các Bộ, ngành liên quan, đặc biệt là các nghiên cứu của Bộ Giao
thông Vận tải, của Bộ Công thương.
+ Đối với sự phát triển các ngành: Dựa trên các chuyên đề nghiên
cứu được đặt bài của các chuyên gia, sau đó các chuyên gia về lĩnh vực
vùng tổng hợp.
‑ Phát triển bền vững: Kết hợp với đội ngũ về Đánh giá môi trường
Chiến lược nghiên cứu lĩnh vực môi trường.
‑ Giải pháp: Tập trung nghiên cứu giải pháp cho 3 đối tượng: Nhà
nước ‑ Doanh nghiệp ‑ Công dân.
Bản Quy hoạch vùng ĐBSH được trình bày bằng văn bản và thể hiện
bố trí không gian lãnh thổ bằng hệ thống bản đồ (24 bản đồ).
4. Một số kiến nghị đối với cách tiếp cận, phương pháp và quy
trình quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng
4.1. Về cách tiếp cận
Chúng tôi đồng tình với cách tiếp cận của các học giả phương Tây,
khi cho rằng vùng là một đơn vị cạnh tranh của quốc gia trên phạm vi
toàn cầu. Hiện nay, mặc dù chúng ta đã có những hình dung và quan
niệm rằng vùng có không gian mở nhưng do sự hạn chế về nhân lực, về
thông tin nên có những lĩnh vực chúng ta chưa dự báo có độ tin cậy cao.
4.2. Về phương pháp
Các phương pháp lập quy hoạch hiện đang thiếu và yếu. Chúng ta
vẫn dựa vào những phương pháp lập quy hoạch trước đây, chưa có sự
“đột biến” và “cải cách” về phương pháp lập quy hoạch, ngay cả
phương pháp bản đồ GIS chưa được sử dụng một cách hiệu quả và hợp

lý. Nhiều phương pháp được phổ biến áp dụng ở các nước phương Tây
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
273
(đã in thành giáo trình) chưa được dịch và biên soạn dành cho các cán
bộ lập quy hoạch và các sinh viên ngành kế hoạch, địa lý kinh tế Chính
vì vậy, cần nhanh chóng nâng cao chất lượng lập và quy hoạch bằng việc
nghiên cứu và bổ sung các phương pháp định lượng và mô hình hoá
quy hoạch vùng cũng như cập nhật các lý thuyết phát triển vùng và địa
lý kinh tế.
4.3. Về quy trình lập quy hoạch
Cần giải quyết một số các khó khăn sau đây:
‑ Chiến lược có trước, quy hoạch có sau và là sự cụ thể hoá các bước
của chiến lược. Nhưng trên thực tế, các quy hoạch vùng có khả năng
có trước sự ra đời về chiến lược phát triển (6 vùng kinh tế ‑ xã hội dự
kiến được Thủ tướng phê duyệt năm 2010, trong khi Chiến lược phát
triển được phê duyệt vào năm 2011, khi Đại hội Đảng XI diễn ra); quy
hoạch vùng có tầm nhìn dài hạn hơn cả chiến lược (Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế ‑ xã hội lập cho thời kỳ 10 năm, có tầm nhìn từ
15 ‑ 20 năm và thể hiện cho từng thời kỳ 5 năm); quy hoạch tỉnh có
trước quy hoạch vùng.
‑ Tính thứ tự và ưu tiên của Quy hoạch: Quy hoạch nào trước, Quy
hoạch nào sau; Quy hoạch nào quan trọng hơn và Quy hoạch nào là có
ưu tiên thấp hơn;
‑ Chế tài và khen thưởng trong việc thực thi quy hoạch đối với
cấp Bộ, ngành và địa phương hiện chưa có; cách thức điều hành và
quản lý quy hoạch vùng không cụ thể, do đó dẫn dễ đến tính đổ vỡ
của quy hoạch.
‑ Sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc lập và thẩm
định các quy hoạch là yếu và gây ra sự lãng phí. Ví dụ, những người
phê duyệt quy hoạch vùng không liên quan đến những người phê duyệt

Đánh giá môi trường chiến lược. Nếu quy hoạch tổng thể vùng được
phê duyệt trong khi đánh giá môi trường chiến lược lại không được
thông qua thì cách thức giải quyết sẽ ra sao?
‑ Cần xây dựng cơ chế phản biện xã hội đối với quy hoạch tổng thể
kinh tế ‑ xã hội, tức là cần có sự tham gia nhiều hơn của người dân và
doanh nghiệp.
274
Nguyễn Hoàng Hà
Theo tôi, để giải quyết được điều này, cần phải xây dựng cơ chế
thích hợp cho việc quy hoạch tổng thể vùng, mà trước hết cần ra đời
Luật quy hoạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Ngô Doãn Vịnh (2003), Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh
tế ‑ xã hội ở Việt Nam, Học hỏi và sáng tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, Việt Nam.
[3] Nguyễn Xuân Thu và Nguyễn Văn Phú (2006), Phát triển kinh tế vùng
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, Việt Nam.
[4] Chính phủ Việt Nam (2006), Nghị định số 92/2006/NĐ‑CP Về lập, phê
duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội, Hà Nội,
Việt Nam.
[5] Chương trình KX.02‑05 (2003), ‘Điểm xuất phát và cơ sở khoa học xác
định phương hướng phát triển các vùng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa rút ngắn ở Việt Nam’, Báo cáo phục vụ hội thảo, tháng
6 năm 2003, Hà Nội, Việt Nam.
[6] Chương trình KX. 02‑05 (2003), ‘Chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu
vùng kinh tế. Thực trạng, vấn đề và phương hướng’, Báo cáo khoa học
tại hội thảo, tháng 6 năm 2003, Hà Nội, Việt Nam.

[7] Bagchi‑Sen, S. và Smith, H.L. (2006), Economic Geography. Past, Prensent
and Future, (Địa lý kinh tế. Quá khứ, hiện tại và tương lai), xuất bản lần
thứ nhất, Nxb Routledge, London, Anh.
[8] Barnes, T., Peck, J., Sheppard, E., và Tickell, A. (2004), Reading Economic
Geography, (Bài đọc địa lý kinh tế), xuất bản lần thứ nhất, Nxb
Blackwell, Malden, Hoa Kỳ.
[9] Barnett, J. (2001), Planning for a new century. The regional agenda, (Kế
hoạch cho thế kỷ mới. Chương trình nghị sự vùng), NXB Island,
Washington D.C, Hoa Kỳ.
[10] Brakman, S., Garretsen, H., và Marrewijk, C.V., 2001. An Introduction to
Geography Economics. Trade, Location and Growth, (Giới thiệu về Kinh tế
học địa lý. Thương mại, Địa điểm và Tăng trưởng).
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
275
[11] Capello, R. và Nijkamp, P. (2009), Handbook of Regional Growth and
Development Theories, (Sổ tay về các lý thuyết tăng trưởng và phát triển
vùng), Nxb Edward Elgar, Cheltenham, Vương quốc Anh.
[12] Chant, S. và McIlwaine, C. (2009), Geographies of Development in the 21
st
Century, (Địa lý học của sự phát triển trong thế kỷ 21), NXB Edward
Elgar, Cheltenham, Vương quốc Anh.
[13] Clark, G.L., Feldman, M.P., và Gertler, M.S. (2000), The Oxford Handbook
of Economic Geography, (Sổ tay Oxford về Địa lý kinh tế), xuất bản lần
thứ nhất, Nxb Oxford, Oxford, Anh.
[14] Combes, P.P., Mayer, T., và Thisse, J.F (2008), Economic Geography. The
Integration of Regions and Nations, (Địa lý kinh tế. Sự hội nhập các vùng
và các quốc gia), Nxb Đại học Princeton, Hoa Kỳ.
[15] Cooke, P. và Piccaluga, A. (2006), Regional Development in the Knowledge
Economy, (Sự phát triển trong nền kinh tế tri thức), xuất bản lần thứ
nhất, Nxb Routlege, London, Anh.

[16] Fingleton, B. (2007), New Directions in Economic Geography, (Những
định hướng mới trong địa lý kinh tế), Nxb Edward Elgar,
Northampton, Hoa Kỳ.
[17] Fischer, M.M., Hewings, G.J.D., Nijkamp, P., Snickars, F. (2009), New
Directions in Regional Economic Development, (Những định hướng mới
trong phát triển kinh tế vùng), Nxb Springer, Berlin, CHLB Đức.
[18] Frantianni, M., (2006), Regional Economic Integration, (Sự hội nhập kinh
tế vùng), xuất bản lần thứ nhất, Nxb Elsevier, Oxford, Vương quốc Anh.
[19] Gregory, D. và các cộng sự (2009), The Dictionary of Human Geography,
(Từ điển địa lý loài người), xuất bản lần thứ 5, Nxb Wiley‑Blackwell,
West Sussex, Vương quốc Anh.
[20] Hudson, R. (2005), Economic Geographies. Circuits, Flows and Spaces, (Địa
lý kinh tế. Những vòng cung, luồng dịch chuyển và không gian), xuất
bản lần thứ nhất, Nxb Sage, London, Anh.
[21] Kenney, M. và Florida, R. (2004), Locating Global Advantage. Industry
Dynamics in the International Economy, (Định vị Lợi thế Toàn cầu. Động
lực ngành trong nền kinh tế toàn cầu), Nxb Đại học Stanford, California,
Hoa Kỳ.
[22] Krugman, P. (1998), Development, Geography, and Economic Theory, (Phát
triển, Địa lý, và Lý thuyết kinh tế), xuất bản lần thứ nhất, Nxb Đại học
MIT, London, Anh.
276
Nguyễn Hoàng Hà
[23] Pike, A., Rodriguez‑Pose, A., và Tomaney, J. (2006), Local and Regional
Development, (Sự phát triển địa phương và vùng), xuất bản lần thứ nhất,
Nxb Routledge, London, Anh.
[24] Sheppard, E. và Barnes, J.T. (2005), A Companion to Economic Geography,
(Sách hướng dẫn về địa lý kinh tế), Nxb Blackwell, Victoria, Australia.
[25] Tickell, A., Sheppard, E., Peck, J., và Barnes, T. (2007), Politics and Practice
in Economic Geography, (Vấn đề chính trị và thực tiễn trong địa lý kinh

tế), xuất bản lần thứ nhất, Nxb Sage, London, Anh.
[26] Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) (2009), How Regions Grow.
Trends and Analysis, (Vùng tăng trưởng như thế nào. Các xu hướng và
sự phân tích), Nxb OECD, Paris, Pháp.
[27] Vertova, G. (2006), The Changing Economic Geography of Globalization,
(Quá trình đang thay đổi địa lý kinh tế trong thời kỳ toàn cầu hoá), xuất
bản lần thứ nhất, Nxb Routledge, London, Anh.
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam
277

×