Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.33 KB, 49 trang )



1

LờI NóI ĐầU

Lịch sử phát triển thị tr-ờng chứng khoán (TTCK) đã khẳng định vai trò
cơ bản và rất quan trọng của thị tr-ờng chứng khoán là khai thác và nâng cao
hiệu quả luân chuyển mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Thứ nhất, thị tr-ờng
chứng khoán cung cấp kênh huy động mọi nguồn vốn trong nền kinh tế thông
qua hàng loạt các công cụ tài chính với các mức độ rủi ro khác nhau từ thấp đến
cao.Thứ hai, thị tr-ờng chứng khoán giải quyết cơ bản mâu thuẫn giữa ng-ời
cung cấp vốn (chỉ muốn cung cấp vốn trong thời gian ngắn hoặc có thể rút vốn
đầu t- bất cứ lúc nào nhằm tránh rủi ro) và ng-ời sử dụng vốn (muốn đ-ợc sử
dụng vốn lâu dài cho các mục đích đầu t- dài hạn theo chiều sâu để thu lợi
nhuận lớn và bền vững hơn).
Sớm nhận thức đ-ợc vai trò trên của TTCK, ngay từ những năm đầu của
công cuộc cải tổ nền kinh tế, Đảng và nhà n-ớc ta đã chủ tr-ơng phải xây dựng
và phát triển TTCK Việt Nam có trật tự, d-ới sự quản lý của nhà n-ớc trên cơ sở
đạt đ-ợc sự chín muồi về các điều kiện cần thiết nhằm khai thác và sử dụng có
hiệu quả nhất nguồn vốn hạn hẹp của nền kinh tế, đảm bảo đ-ợc mục tiêu vốn
trong n-ớc là quyết định trong chiến l-ợc huy động và sử dụng các nguồn vốn.
Trên cơ sở chủ tr-ơng này, ngay từ đầu những năm 1990 chúng ta đã rất tích cực
học hỏi kinh nghiệm từ các n-ớc đi tr-ớc, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho việc hình thành và phát triển TTCK Việt Nam.
Ngày 20/7/2000 vừa qua, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK)
Tp Hồ Chí Minh đã chính thức khai tr-ơng đi vào hoạt động, đây là cột mốc
quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển thị tr-ờng chứng khoán Việt
Nam, đồng thời là một b-ớc đột phá quan trọng trong chiến l-ợc khai thác và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện



2

đại hoá đất n-ớc trong thế kỷ 21.Tuy nhiên cần nhận thức rõ rằng sự hiện diện
của một thể chế kinh tế bậc cao nh- thị tr-ờng chứng khoán dù là d-ới hình thức
sơ khai, trong một nền kinh tế mà trình độ phát triển nói chung còn thấp, cấu
trúc thể chế cơ bản của nền kinh tế này vẫn còn ch-a hoàn thiện thì tự nó chứa
đựng hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần suy xét kỹ càng.Với đề tài này
chúng ta sẽ nghiên cứu tiến trình hoạt động của TTCK Việt Nam trong giai đoạn
vừa qua nhằm tìm ra đ-ợc những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động.























3

NộI DUNG
I.Tìm hiểu về thị tr-ờng chứng khoán:
1.Lịch sử phát triển thị tr-ờng chứng khoán(TTCK):
Giữa thế kỷ 15 ở Tây ph-ơng, tại những thành phố trung tâm buôn bán,
các th-ơng gia th-ờng tụ tập tại một "khu chợ riêng" để thực hiện việc mua bán
trao đổi các loại hàng hoá (chủ yếu là nông sản, khoáng sản), ngoại tệ và giá
khoán động sản.Phiên "chợ riêng" đ-ợc diễn ra đầu tiên vào năm 1453 tại một lữ
điểm của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ). Bảng hiệu của lữ điểm này là "Mậu
dịch tr-ờng" hay còn gọi là "Sở giao dịch". "Mậu dịch tr-ờng" bao gồm ba nội
dung chính: mậu dịch tr-ờng hàng hoá, mậu dịch tr-ờng ngoại tệ và mậu dịch
tr-ờng giá khoán động sản. Mậu dịch tr-ờng Auvers phát triển rất nhanh. Giữa
thế kỷ 16, viên quan đại thần tài chính Anh quốc Theomes Gresham đến đây thị
sát và sau đó đã thiết lập một mậu dịch tr-ờng tại London, nơi mà sau này đ-ợc
gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch tr-ờng khác cũng lần
l-ợt đ-ợc thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu.Sau đó một thời gian khi mà một
Mậu dịch tr-ờng không còn đủ sức cho các giao dịch với ba nội dung khác nhau
thì giao dịch hàng hoá đã đ-ợc tách thành các khu th-ơng mại và giao dịch
ngoại tệ đ-ợc tách ra thành thị tr-ờng hối đoái, giao dịch giá khoán động sản
tách ra thành thị tr-ờng chứng khoán.
Vậy là thị tr-ờng chứng khoán đã xuất hiện từ thế kỷ XV. Sự hình thành
thị tr-ờng chứng khoán cũng đồng thời với thị tr-ờng hối đoái và các loại thị
tr-ờng khác.Quá trình các giao dịch chứng khoán đ-ợc diễn ra và hình thành
TTCK một cách tự phát cũng t-ơng tự tại Pháp, Hà Lan, các n-ớc Tây, Bắc Âu
và Bắc Mỹ. Cho đến nay, trên thế giới đã có gần 200 TTCK, nằm ở hầu hết các
châu lục, trong đó có nhiều thị tr-ờng đ-ợc thành lập cách đây vài trăm năm nh-
Hà Lan, Pháp, Anh vào thế kỷ 17; ở Mỹ, Tây Đức, Nhật vào thế kỷ 18, 19; ở các



4

n-ớc trong khu vực Đông Nam á vào những năm 60-70 của thế kỷ 20; ở các
n-ớc xã hội chủ nghĩa cũ nh- Ba Lan, Hungari, Cộng hoà Séc, Cộng hoà liên
bang Nga vào đầu những năm 1990 và Việt Nam vào ngày 1/7/2000 vừa qua Sở
giao dịch chứng khoán đã đ-ợc thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu
một b-ớc phát triển mới cho nền kinh tế n-ớc nhà.
Lịch sử phát triển các thị tr-ờng chứng khoán thế giới trải qua một sự phát
triển lúc lên lúc xuống theo kiểu răng c-a. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những
năm1875-1913, TTCK phát triển mạnh cùng với sự tăng tr-ởng mạnh của nền
kinh tế. Nh-ng rồi đến "ngày thứ năm đen tối" 29/10/1929 đã làm TTCK New
York và các TTCK Tây, Bắc Âu và Nhật Bản khủng hoảng, mất lòng tin. Sau thế
chiến thứ II các TTCK phục hồi, và phát triển mạnh mẽ. Nh-ng cuộc "khủng
hoảng tài chính" năm 1987 một lần nữa đã làm cho TTCK thế giới điên đảo. Hậu
quả của nó còn nặng nề hơn cuộc khủng hoảng 1929. Cũng nh- quy luật của tự
nhiên "hết m-a là nắng lên". Sau gần 2 năm mất lòng tin TTCK thế giới lại đi
vào giai đoạn ổn định và phát triển.
Theo tạp chí The Economic 14/5/1994 ( UBS ) đã thống kê lãi thực hiện
trong đầu t-, mức trung bình hàng năm từ 1984 đến 1993 ( % tính theo đồng đô
la Mỹ) của một số n-ớc nh- sau:

N-ớc
Cổ phần
Trái phiếu
Tiền mặt
Pháp
18,0
14,0

10,0
Hà Lan
17,0
11,0
8,0
Anh
14,5
9,5
7,5
Đức
13,0
9,5
7,5
Thụy Sĩ
12,0
6,5
5,5
ý
12,0
14,0
9,3
Nhật
11,3
11,4
9,5


5

Mỹ

10,5
9,0
3,0
úc
9,0
9,5
5,5
Canada
3,0
9,4
4,5

Đến nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có TTCK.
TTCK đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu đ-ợc trong đời sống
kinh tế của những n-ớc theo cơ chế thị tr-ờng. Ph-ơng thức tổ chức, giao dịch
của TTCK đã đ-ợc cải tiến không ngừng. Đặc biệt khi ngành điện tử, tin học
phát triển, tin học đ-ợc ứng dụng vào TTCK, thì TTCK đã trở thành một ngành
công nghệ có kỹ thuật riêng (công nghệ chứng khoán).
TTCK đã có kỹ thuật công nghệ riêng. Nh-ng điều đó không có nghĩa là
tất cả các TTCK trên thế giới ngày nay đều giống nhau. Tùy theo đặc điểm kinh
tế, xã hội và tâm lý dân chúng của mỗi n-ớc, họ có cách tổ chức và giao dịch
riêng. Nh-ng dù tổ chức theo ph-ơng cách nào, thì đại c-ơng các thị tr-ờng
chứng khoán cũng đều dựa trên những nguyên tắc cơ bản liên quan đến chứng
khoán, tổ chức thị tr-ờng, giao dịch và sự kiểm soát của nhà n-ớc.
2.Hoạt động trên thị tr-ờng chứng khoán:
2.1.Thị tr-ờng chứng khoán đặc điểm và cơ cấu của TTCK:
Thị tr-ờng chứng khoán là một thị tr-ờng có tổ chức và hoạt động có điều
kiện, ở đó thực hiện mua bán các chứng khoán, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu
về chứng khoán, và qua đó giá chứng khoán đ-ợc hình thành qua cung cầu thị
tr-ờng. Nh- vậy TTCK là chiếc cầu nối giữa hoạt động của các nhà kinh doanh

với nhau, tức là giữa ng-ời cần vốn (phát hành phiếu vay nợ - chứng khoán ) và
ng-ời có vốn ( chủ nợ - nhà đầu t- ). Việc mua bán chứng khoán đ-ợc tiến hành
tự do nhất định trong quan hệ thị tr-ờng, giá các chứng khoán phản ánh các quan
hệ cung - cầu.
Đặc điểm của TTCK :


6

TTCK có những tính chất nội tại trong cơ chế hoạt động của mình nh-
tính gián tiếp của loại hình đầu t-, tính trung gian của hoạt động mua bán chứng
khoán, tính t-ơng đối trong việc đánh giá chất l-ợng hàng hoá ( chứng khoán ),
tính phong phú đa dạng của các hình thức mua bán (hiện tại, t-ơng lai, thanh
toán ngay, thanh toán chậm ). Đáng l-u ý là tính dễ thoát ly giữa cung cầu về
chứng khoán và ngay giữa "cầu thực" và "cầu ảo", tính nhanh chóng tức thì của
các giao dịch chứng khoán, tính nhạy cảm và dễ lan toả của các xu h-ớng và tâm
lý mua bán. Đồng thời, TTCK còn mang tính đa chiều, khi lên khi xuống của thị
giá chứng khoán, khác với tính chất một chiều của các thị tr-ờng hàng hoá dịch
vụ thông th-ờng chỉ có đi lên hoặc đi xuống kéo dài. Do vậy, kinh doanh trên
TTCK có đặc tr-ng nổi bật là tính chất may rủi và tính đầu cơ cao bên cạnh tính
đột biến của lợi nhuận thu đ-ợc trên TTCK.
Cơ cấu của thị tr-ờng chứng khoán:
Thị tr-ờng chứng khoán th-ờng đ-ợc phân chia thành hai cấp:cấp I và cấp
hai ( còn gọi là thị tr-ờng sơ cấp và thị tr-ờng thứ cấp ).
-Thị tr-ờng cấp I (thị tr-ờng sơ cấp) là nơi chứng khoán phát hành lần đầu
khi tạo lập doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp huy động thêm vốn, hoặc khi chính
phủ các cấp phát hành trái phiếu, công trái Đó là giai đoạ động viên vốn tài
chính, là giai đoạn phức tạp nhất, vì nếu xác định không đúng các điều kiện phát
hành có thể làm cho chứng khoán không tiêu thụ đ-ợc và gây mất uy tín cho
ng-ời phát hành. Do vậy, trong phần lớn các tr-ờng hợp, tổ chức phát hành

chứng khoán đều có sự tham gia của ngân hàng và các công ty chuyên doanh.
Tuỳ thuộc tình hình cung - cầu, giá chứng khoán ở thị tr-ờng cấp I có thể thấp
hoặc cao hơn giá danh nghĩa. Với các loại chứng khoán thanh toán thu nhập bình
th-ờng thì giá chứng khoán phụ thuộc vào thời gian gần lúc thanh toán.
- Thị tr-ờng cấp II ( thị tr-ờng thứ cấp ) là nơi mua bán lại chứng khoán
đã phát hành ở thị tr-ờng sơ cấp. Đây là nơi thu hút sự chú ý của công chúng, là
nơi giao dịch hàng ngày giữa các nhà môi giới chứng khoán và các thân chủ của


7

họ. ở đây, các nhà đầu t- có thể bán chứng khoán vào bất kỳ lúc nào. So với tín
dụng thông th-ờng, hình thức mua bán chứng khoán ở thị tr-ờng cấp II linh hoạt
hơn, mềm dẻo hơn.
Thị tr-ờng cấp II có một số dạng: Sở giao dịch chứng khoán thông th-ờng,
thị tr-ờng ngoài sở giao dịch chứng khoán. Thị tr-ờng này có cơ chế phức tạp,
làm môi giới cho sự biến động cung cầu, cho phép xác định đ-ợc giá hiện thực
của các cổ phiếu, trái phiếu.
Giữa thị tr-ờng cấp I và thị tr-ờng cấp II có sự phụ thuộc lẫn nhau. Thị
tr-ờng cấp hai không thể tồn tại nếu không có sự phát hành chứng khoán có thể
chuyển nh-ợng tại thị tr-ờng cấp một. Mặt khác sự thành công của thị tr-ờng
cấp II tạo điều kiện cho thị tr-ờng cấp một thành công.
2.2.Nguyên tắc hoạt động của TTCK:
Thị tr-ờng chứng khoán là một định chế tài chính phát triển cao trong cơ
chế thị tr-ờng, hoạt động theo cơ chế riêng biệt, đ-ợc tiêu chuẩn hoá và mang
tính quốc tế.TTCK hoạt động theo những nguyên tắc cơ bản sau:
- TTCK hoạt động thông qua những ng-ời môi giới trung gian. Nguyên
tắc này nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán đ-ợc giao dịch là chứng khoán
thực và hợp pháp,nhằm bảo vệ lợi ích của ng-ời đầu t-, tránh đ-ợc sự lừa gạt
hoặc sai lầm do không có khả năng dự đoán. Những ng-ời làm công việc môi

giới thực hiện lệnh mua và bán của khách hàng, và họ đ-ợc h-ởng tỷ lệ hoa hồng
do khách hàng trả.
-TTCK là thị tr-ờng cạnh tranh hoàn hảo. Giá của chứng khoán đ-ợc hình
thành trên cơ sở quan hệ cung-cầu chứng khoán trên thị tr-ờng, và đ-ợc thực
hiện giữa các nhà môi giới chứng khoán. Không một ai trong TTCK có thể định
giá một cách độc đoán.
-Tất cả mọi hoạt động trên TTCK đều đ-ợc công khai hoá cho tất cả


8

thành viên tham gia và dân chúng biết. Đây là một trong những nguyên tắc cơ
bản của TTCK.
-TTCK hoạt động tuân theo hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Mọi
công ty đã đăng ký và có cổ phần niêm yết ở TTCK phải báo cáo định kỳ theo
đúng tiêu chuẩn, và các báo cáo chỉ có giá trị khi đã có sự kiểm tra và xác nhận
của cơ quan kiểm toán. Tất cả các tài liệu đã đ-ợc kiểm toán đ-ợc công bố công
khai trên thị tr-ờng, làm chỗ dựa đáng tin cậy cho các thành viên tham gia thị
tr-ờng và gây niềm tin cho dân chúng. Hoạt động trên nhằm tạo ra môi tr-ờng
kinh doanh trong TTCK "trong suốt nh- pha lê".Mọi khách hàng đều có khả
năng nhìn thấu suốt thị tr-ờng, và đ-ợc thông báo đầy đủ về các sự việc đang
xảy ra.
- Mọi hoạt động của TTCK đều đ-ợc pháp chế hoá bằng các đạo luật, quy
chế, điều lệ của TTCK nhằm bảo vệ cho các nhà đầu t Nhiệm vụ chính của
việc pháp chế hoá TTCK là tạo ra một thị tr-ờng trung thực, trật tự và có hiệu
quả, đồng thời tạo ra một sân chơi bằng phẳng cho các nhà đầu t-, bảo vệ các
nhà đầu t- tránh khỏi sự lừa đảo, bảo vệ vốn đầu t
Thị tr-ờng chứng khoán th-ờng đ-ợc thể hiện chủ yếu tại sở giao dịch
chứng khoán và một phần ở những ngân hàng lớn. Phần lớn các sở giao dịch
chứng khoán thuộc sở hữu của các thành viên tham gia, có thể do t- nhân hoặc

một nhóm các công ty cổ phần, tuy nhiên trong một số ít tr-ờng hợp cho chính
phủ nắm giữ.
Lịch sử phát triển TTCK trải qua 100 năm cho thấy nếu không hoàn thiện
bộ khung pháp chế cho TTCK để hạn chế các tiêu cực, có thể dẫn đến sự sụp đổ
của nền tài chính quốc gia.
2.3 Các công cụ chủ yếu của thị tr-ờng chứng khoán:
Công cụ chủ yếu của thị tr-ờng chứng khoán đó là các loại chứng khoán.
Chứng khoán là chứng từ xác nhận quyền về tài sản, vốn, lợi nhuận và thu
nhập của ng-ời chủ sở hữu chứng từ đó đối với ng-ời phát hành. Chứng khoán


9

bao gồm : cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng từ khác do hội đồng chứng
khoán của từng quốc gia quy định.
Căn cứ vào lợi tức ng-ời ta phân chia chứng khoán thành hai loại:
-Chứng khoán có lợi tức cố định: chủ sở hữu của các loại chứng khoán này
đ-ợc h-ởng một lợi tức cố định, lĩnh vào kỳ hạn đã đ-ợc ấn định tr-ớc khi phát
hành. Lợi tức đ-ợc h-ởng và kỳ hạn nhận lãi không thay đổi, không phụ thuộc
vào tình trạng tài chính của các cơ quan phát hành. Loại này bao gồm: Công trái,
trái phiếu và kỳ phiếu.
-Chứng khoán có lợi tức không cố định: tuỳ hoàn cảnh của các công ty
phát hành, đến cuối mỗi niên khoá, các công ty sẽ ấn định lợi tức chia cho các
chủ sở hữu của các chứng khoán này, và ấn định ngày trả các lợi tức đó. Nh- vậy
cổ tức có thể nhiều, ít, hay không có. Loại này bao gồm các cổ phần.
Căn cứ vào hình thức, chứng khoán phân thành ba loại:
-Chứng khoán không ghi tên: trên đó không ghi tên chủ sở hữu, vì vậy bất
kỳ ng-ời nào cầm chứng khoán đó đ-ợc coi là chủ hợp pháp. Các chứng khoán
khong ghi tên gồm có hai phần: Phần chính có ghi các điều liên quan đến chứng
khoán (cổ phần, trái phiếu ), cơ quan phát hành(tên, trụ sở, số vốn ) mệnh

giá, nơi và ngày phát hành. Phần phụ chia thành nhiều ô, gọi là tức phiếu, trên
mỗi tức phiếu có ghi số thứ tự (tr-ờng hợp các cổ phần) hay ghi kỳ hạn (tr-ờng
hợp các trái phiếu).
-Chứng khoán có ghi tên: Trên đó có ghi rõ cơ quan phát hành loại chứng
khoán, mệnh giá, nơi và ngày phát hành, và nhất là tên và địa chỉ của ng-ời chủ
sở hữu. ở mặt đằng sau có bảng chia ra làm nhiều khung. Tên và địa chỉ của
ng-ời chủ sở hữu chứng khoán có ghi tên đ-ợc ghi trong một quyển sổ đăng ký.
-Chứng khoán hỗn hợp: Trên chứng khoán loại này có ghi tên và địa chỉ
của ng-ời chủ sở hữu, và chỉ có thể chuyển nh-ợng theo đúng nh- thủ tục của
chứng khoán có ghi tên( nghĩa là phải sửa tên của ng-ời chủ sở hữu trên sổ đăng
ký và trên chứng khoán ). Những chứng khoán hỗn hợp có kèm theo các tức


10

phiếu, có thể xé rời ra để lĩnh lợi tức nh- các chứng khoán không ghi tên. Tóm
lại các chứng khoán hỗn hợp chỉ ghi tên đối với vốn, chứ không ghi tên đối với
tiền lời.
Đặc biệt trong các tr-ờng hợp sau đây bắt buộc chứng khoán phải là hình
thức có ghi tên:
+Các cổ phần ch-a hoàn toàn giải phóng(cổ phần ch-a góp đủ vốn ghi ở
mệnh giá)
+Các cổ phần hiện vật(tr-ờng hợp hùn vốn bằng hiện vật)trong thời gian
hai năm kể từ ngày phát hành.
+Các cổ phần để đảm bảo của các hội viên hội đồng quản trị.
+Các cổ phần của các công ty có vốn bất định.
+Các cổ phần của các xí nghiệp mà điều lệ đã quy định buộc phải ở hình
thức có ghi tên.
Các chứng khoán không ghi tên có thể chuyển nh-ợng nhanh chóng hơn
các chứng khoán có ghi tên.

a,Cổ phiếu:
Cổ phiếu là các chứng từ do các công ty hay tổ chức tài chính cổ phần
phát hành xác nhận quyền sở hữu của những ng-ời có cổ phiếu đối với công ty
hay tổ chức đó. Cổ phiếu không có kỳ hạn tồn tại cùng với sự tồn tại của doanh
nghiệp phát hành ra nó.
Việc ấn định giá phát hành cổ phiếu có thể có các tr-ờng hợp sau :
-Phát hành bình giá, nghĩa là số tiền phải trả để mua cổ phiếu bằng mệnh
giá.
-Giá phát hành thấp, khi công ty đang gặp khó khăn trong hoạt động, cần
tăng thêm vốn, để thu hút ng-ời mua phải bán cổ phiếu với giá thấp hơn mệnh
giá.
-Giá phát hành cao, khi công ty đang hoạt động thịnh v-ợng, cần tăng
thêm vốn, công ty có thể phát hành cổ phiếu cao hơn mệnh giá.


11

Trị giá và giá cả cổ phiếu th-ờng xoay quanh giá trị gốc của nó và lợi tức
cổ phần mà cổ phiếu đaị diện.
Thị giá cổ phiếu là giá cả của cổ phiếu bán trên thị tr-ờng. Thị giá cổ phiếu phụ
thuộc trực tiếp vào lãi nhận đ-ợc theo cổ phần, do vậy lãi cổ phần càng nhiều thì
ng-ời mua trả giá cổ phiếu càng cao. Mặt khác, thị giá cổ phiếu còn tỷ lệ nghịch
với lãi suất thị tr-ờng tiền tệ, lãi suất thị tr-ờng tiền tệ càng thấp thì thị giá cổ
phiếu càng cao. Nhà đầu t- luôn so sánh lãi nhận đ-ợc theo cổ phiếu với lợi tức
nhận đ-ợc khi họ gửi tiền vào ngân hàng. Nếu lãi suất của ngân hàng trả thấp thì
họ sẽ dồn tiền để mua cổ phiếu, làm cho giá cổ phiếu lên cao.
Bên cạnh các cổ phiếu thông th-ờng(các cổ phiếu có quyền bỏ phiếu bầu
hội đồng điều hành ) còn có các loại cổ phiếu đặc biệt. Ai mua loại cổ phiếu này
thì không có quyền bầu hội đồng điều hành công ty, nh-ng đ-ợc đảm bảo thu
nhập ổn định, có quyền -u đãi hơn so với các loại cổ phiếu thông th-ờng khi trả

lợi tức hoặc giải thể công ty. Lợi tức của cổ phiếu này cũng khác so với các loại
cổ phiếu th-ờng. Đối với loại cổ phiếu th-ờng thì lợi tức thay đổi theo mức lợi
nhuận của công ty. Đối với các loại cổ phiếu -u đãi lợi tức đ-ợc quy định theo
một tỷ lệ phần trăm cố định, không thay đổi theo mức lợi nhuận của công ty.
b,Trái phiếu và các loại trái phiếu:
Trái phiếu là chứng từ xác nhận quyền chủ nợ của ng-ời có trái phiếu đối
với ng-ời phát hành về số tiền ghi trên chứng từ đó. Ng-ời phát hành trái phiếu
cam kết sau thời gian nhất định sẽ trả cho ng-ời sở hữu trái phiếu vốn đã vay và
một mức lãi đ-ợc ấn định tr-ớc.
Trái phiếu đ-ợc phân loại nh- sau:
Theo t- cách ng-ời phát hành, chia ra :
-Công trái là trái phiếu do chính phủ trung -ơng hoặc chính quyền địa
ph-ơng phát hành nhằm huy động nguồn vốn tài trợ các dự án đầu t- hạ tầng
nh- xây dựng tr-ờng học, cầu cảng với kỳ hạn khác nhau tuỳ thuộc mục đích


12

sử dụng vốn của từng dự án, có kỳ hạn trên một năm hoặc dài hạn từ 10 năm đến
30 năm.
- Trái phiếu do các doanh nghiệp phát hành, gọi là trái phiếu công ty,đ-ợc
dùng để tài trợ cho các dự án phát triển sản xuất của các xí nghiệp, hay nói cách
khác đó là một khoản cho vay với thời hạn dài do hai bên thoả thuận, có thể kéo
dài từ 10 năm đến 30 năm với lãi suất cố định.
Theo khu vực phát hành, chia ra:
- Trái phiếu trong n-ớc: Trái phiếu đ-ợc phát hành và l-u hành trong
n-ớc.
- Trái phiếu quốc tế: do chính phủ một n-ớc hoặc xí nghiệp phát hành trái
phiếu trên thị tr-ờng tiền tệ n-ớc ngoài.
Theo quy định lãi suất, chia ra:

- Trái phiếu lãi suất cố định: lãi suất đã quy định dứt khoát không thay
đổi.
- Trái phiếu có lãi suất không cố định: căn cứ vào lãi suất của thị tr-ờng.
Theo yêu cầu thanh toán, có các loại:
-Trái phiếu phổ thông; đến kỳ hạn thanh toán cả gốc lẫn lãi.
-Trái phiếu có thể chuyển đổi: là trái phiếu có mối liên hệ thanh toán giữa
trái phiếu với cổ phiếu.
-Trái phiếu có xổ số, mỗi lần trúng ng-ời chủ sở hữu đ-ợc số tiền lớn, số
trúng rất ít ỏi.
-Trái phiếu đ-ợc hoàn vốn bằng cách mỗi năm đ-ợc nhận một phần vốn
và lãi.
Bất kỳ công ty nào lập ra theo đúng pháp luật cũng đ-ợc quyền phát hành
trái phiếu. Toàn thể hội viên công ty phải đồng lòng chấp thuận thì công ty mới
phát hành trái phiếu đ-ợc.


13

Về thời giá của công trái trên thị tr-ờng cũng có thể có ba tr-ờng
hợp:Thời giá của thị tr-ờng bằng mệnh giá; Thời giá của thị tr-ờng cao hơn hoặc
thấp hơn mệnh giá.
Ng-ời mua công trái đ-ợc h-ởng tiền lãi theo tỷ lệ đã ấn định khi phát hành
công trái. Lợi tức này đ-ợc nhận hàng năm hay 6 tháng một lần tuỳ theo quy
định. Nếu là công trái không ghi tên thì có thể cắt rời tức phiếu ra, đem tới kho
bạc để nhận lãi. Nếu là công trái có ghi tên thì phải đem công trái đó đến kho
bạc, nhân viên kho bạc trả lợi tức rồi đóng dấu vào khung t-ơng ứng. Để khuyến
khích dân chúng mua công trái, chính phủ th-ờng cho ng-ời mua công trái đ-ợc
h-ởng một số đặc lợi: Lợi tức về công trái đ-ợc miễn tính thếu thu nhập; Cũng
có khi chính phủ ấn định ngay khi phát hành rằng nếu sau này chính phủ phát
hành công trái mới thì ng-ời có công trái cũ sẽ đ-ơng nhiên h-ởng lãi suất mới;

Trong thời gian có lạm phát, để ng-ời mua công trái không bị thiệt hại, chính
phủ ấn định số vốn hoàn giảm sẽ đ-ợc cải đổi theo một chỉ số nhất định để bù
đắp vào sự mất giá của đồng tiền.
Bên cạnh trái phiếu nhà n-ớc còn phát hành thêm một loại công trái khác
đó là kỳ phiếu:
Kỳ phiếu là số tiền mà nhà n-ớc vay để bù đắp vào chỗ thiếu hụt tạm thời
của ngân sách, vì thế kỳ phiếu cũng còn đ-ợc gọi là công trái ngắn hạn. Kỳ hạn
của kỳ phiếu th-ờng là 3, 6, 9 tháng đến 1 hay 2 năm.
Nhà n-ớc luôn phát hành các loại kỳ phiếu, hoặc để vay thêm tiền, hoặc có tiền
hoàn vốn cho các kỳ phiếu đến hạn. Nếu ngân sách d- tiền, thì không phát hành
thêm kỳ phiếu mới nữa, chỉ hoàn giảm vốn các kỳ phiếu đến kỳ hạn. Nh- vậy
tổng số kỳ phiếu biến đổi liên tục lúc tăng lúc giảm.
Kỳ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Tiền lãi đ-ợc nhận cùng lúc với
hoàn giảm tiền vốn, cũng có khi tiền lãi đ-ợc trả tr-ớc ngay lúc mua kỳ phiếu,
nh- vậy đến lúc hạn chỉ phải trả tiền vốn.Lãi suất của kỳ phiếu đ-ợc ấn định khi
phát hành. Khi ấn định lãi suất đó, chính phủ th-ờng dựa vào thị tr-ờng tiền tệ


14

và nhất là dựa vào lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung -ơng. Tiền lãi của kỳ
phiếu th-ờng đ-ợc miễn thuế.Ng-ời có kỳ phiếu phải chờ kỳ hạn để xin hoàn lại
vốn, hoặc đem bán, hoặc đem chiết khấu tại các Ngân hàng tr-ớc kỳ hạn.
2.4 Thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam và các tổ chức liên hệ:
Thị tr-ờng chứng khoán - một định chế tài chính rất hữu hiệu trong việc
thu hút vốn đầu t- và là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá.Có thể nói Sở
giao dịch chứng khoán thành phố HCM là nơi diễn ra đồng thời hai loại cơ cấu
thị tr-ờng sơ cấp và thị tr-ờng thứ cấp. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển và
hoàn thiện thị tr-ờng sơ cấp, nhằm thu hút vốn đầu t- trong và ngoài n-ớc qua
việc phát hành cổ phiếu cổ phần hoá, và phát hành các loại trái phiếu công ty,

trái phiếu chính phủ và chính quyền địa ph-ơng; đông thời từng b-ớc hình thành
thị tr-ờng thứ cấp cho phép kinh doanh buôn bán.
Nh- vậy thời kỳ đầu cả n-ớc chỉ có một sở giao dịch đặt tại TP.HCM( gọi
là sở giao dịch chứng khoán TP.HCM). Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM là thị
tr-ờng chứng khoán chính thức đầu tiên của cả n-ớc. Các doanh nghiệp dân
chúng và chính quyền các địa ph-ơng đều có quyền tham gia mua bán phát hành
chứng khoán tại sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Mục đích chính của TTCK
trong thời kỳ này là để phát hành cổ phiếu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n-ớc
và các loại doanh nghiệp khác; để chính phủ và chính quyền địa ph-ơng phát
hành các loại trái phiếu có mục đích nhằm huy động vốn xây dựng cơ sở hạ
tầng; đồng thời để các doanh nghiệp phát hành các loại trái phiếu công ty. Tuy
nhiên để tạo điều kiện và thúc đẩy thị tr-ờng phát hành đạt kết quả, phải quan
tâm đến việc hình thành thị tr-ờng thứ cấp, hoàn chỉnh cơ cấu một TTCK theo
nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Và ngay từ đầu TTCK Việt Nam cũng không do
dự, hoan nghênh các nhà đầu t- n-ớc ngoài tham gia, có thể tham gia đầu t- trực
tiếp, hoặc gián tiếp qua các quỹ đầu t Tất nhiên thời kỳ đầu kinh nghiệm ch-a
có, khả năng quản lý còn yếu, phải có sự khống chế tối đa mức tối đa của một


15

loại chứng khoán nhà đầu t- n-ớc ngoài đ-ợc mua. Sau đó tuỳ theo chính sách
quản lý có thể sẽ nâng dần để thu hút vốn.
Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và các tổ chức liên hệ: TTCK là
một định chế tài chính rất phức tạp có tính chuyên môn và kỹ thuật cao. Để sở
giao dịch chứng khoán TP.HCM hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi hệ thống hạ tầng
về tài chính, tín dụng và ngân hàng phải hoàn thiện. Có thể tóm l-ợc mô hình tổ
chức TTCK Việt Nam và các tổ chức liên hệ bằng sơ đồ:





Trung tâm
tin học
Uỷ ban chứng khoán
quốc gia VN
TT L-u trữ
chứng khoán
và thanh toán
bù trừ
Sở giao dịch
chứng khoán
TP. HCM
TT L-u trữ
chứng khoán
và thanh toán
bù trừ
Ngân hàng và
công ty tài
chính
Công ty môi
giới chứng
khoán

Công ty kiểm toán

Dân
chúng

Nhà

đầu t-

Quỹ
đầu t-

Quỹ
bảo
hiểm
Quỹ
t-ơng
trợ xã
hội
CP &
chính
quyền
địa
ph-ơng

Doanh
nghiệp


16


II. Thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam, nhìn lại những b-ớc đi ban đầu:
Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) đầu tiên của Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh đã đ-ợc khai tr-ơng và bắt đầu hoạt động vào cuối
tháng 7/2000. Đây chính là kết quả của những chủ tr-ơng đúng đắn và quyết tâm
cao của Đảng và nhà n-ớc, là kết quả của quá trình chuẩn bị các điều kiện cần

thiết cho việc thành lập thị tr-ờng của uỷ ban chứng khoán nhà n-ớc (UBCKNN)
với sự phối hợp đầy trách nhiệm của các bộ các nghành, các địa ph-ơng và các
doanh nghiệp, cùng sự giúp đỡ nhiệt tình, hiệu quả của bạn bè quốc tế. Có thể
đánh giá rằng việc khai tr-ơng hoạt động của TTGDCK TP.HCM chính là sự
kiện quan trọng đánh dấu điểm khởi đầu cho quá trình phát triển ngành chứng
khoán non trẻ của Việt Nam với các ý nghĩa lớn lao về kinh tế cũng nh- chính trị
xã hội của đất n-ớc.
Qua sáu tháng hoạt động, mặc dù số l-ợng chứng khoán niên yết ch-a
nhiều, khối l-ợng chứng khoán qua các phiên giao dịch ch-a lớn, song kết quả
ban đầu là rất quan trọng, khẳng định vị trí và vai trò của TTGDCK trong hệ
thống tài chính. Thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam mở cửa trong giai đoạn hiện
nay cũng có những khó khăn nhất định, khuôn khổ hoạt động và phạm vi còn
nhỏ bé, song cũng hứa hẹn một triển vọng trong t-ơng lai, mở đ-ờng cho một
kênh huy động vốn trung và dài hạn mới cho nền kinh tế, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n-ớc
-Đối với nền kinh tế quốc dân, thị tr-ờng chứng khoán tạo điều kiện cung
cấp cho nền kinh tế nguồn vốn có thời hạn dài nhằm đáp ứng nhu cầu đầu t-
phát triển, đồng thời định h-ớng việc phân bổ nguồn vốn sẵn có vào nhu cầu sử
dụng cần thiết cho nền kinh tế, nhờ vậy góp phần điều hoà, phân phối nguồn vốn
trong nền kinh tế đ-ợc tốt hơn.
-Đối với chính phủ, do thu hút đ-ợc nguồn vốn lớn của toàn nền kinh tế
qua việc phát hành trái phiếu, thị tr-ờng chứng khoán giúp chính phủ giả quyết


17

đ-ợc các vấn đề thiếu hụt ngân sách, có thêm vốn để thực hiện các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng mà không phải phát hành thêm tiền cho chi tiêu của ngân
sách nhà n-ớc.
-Các doanh nghiệp có thể đầu t- trên thị tr-ờng chứng khoán; các chứng

khoán đầu t- là một tài sản kinh doanh và có khả năng chuyển đổi thành tiền
mặt khi cần thiết thông qua thị tr-ờng chứng khoán .
-Đối với công chúng đầu t-, thị tr-ờng chứng khoán là nơi chuyển nguồn
vốn tiết kiệm thành đầu t-, một mặt huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi tài trợ
cho nền kinh tế, mặt khác giúp cho những ng-ời có tiền tiết kiệm không có khả
năng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có thể thực hiện đầu t- trên thị
tr-ờng chứng khoán để cho các khoản tiền đó sinh sôi nảy nở. Với những công
cụ đầu t- đa dạng phong phú, thị tr-ờng chứng khoán sẽ góp phần nâng cao mức
sinh lợi về vốn cho các nhà đầu t- cũng nh- cho toàn xã hội.
- Trong giai đoạn hiện nay việc ra đời và hoạt động của thị tr-ờng chứng
khoán sẽ góp phần thúc đẩy cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với doanh
nghiệp theo h-ớng khinh tế thị tr-ờng, hỗ trợ tích cực cho quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà n-ớc. Sự hiện diện của trung tâm giao dịch chứng khoán đã
góp phần bổ sung hoàn chỉnh cho một cơ cấu thị tr-ờng tài chính và thêm một
lần nữa khẳng định sự nhất quán đ-ờng lối đổi mới của Đảng trong việc xây
dựng nền kinh tế của n-ớc ta theo cơ chế thị tr-ờng có sự quản lý của nhà n-ớc
theo định h-ớng XHCN.
- Thị tr-ờng chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị tr-ờng. Sự phát
triển kinh tế tr-ờng đến một giai đoạn nhất định đòi hỏi phải có thị tr-ờng chứng
khoán để hình thành nên một định chế tài chính bậc cao của nền kinh tế hiện đại.
Toàn cầu hoá đã và đang mang đến cơ hội phát triển cũng nh- thách thức cho tất
cả, không loại trừ một quốc gia nào. Những thực tiễn và kinh nghiệm từ thị
tr-ờngmới nổi, từ các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu và đặc biệt
là thực tiễn và kinh nghiêm từ Trung Quốc và các n-ớc trong khu vực, là những


18

minh chứng thuyết phục nhất cho khả năng phát triển thị tr-ờng chứng khoán
Việt Nam.

Chúng ta đã đạt đ-ợc một số thành tựu và những khó khăn, phức tạp trong
thời gian hoạt động vừa qua:
Thành tựu
Với sự hoạt động của TTGDCK trong 6 tháng qua tr-ớc hết đã giải toả
đ-ợc những lo ngại về khả năng đứng vững của nó. Thực tế cho thấy công chúng
có nhu cầu thật sự đối với loại hình kinh doanh tiền tệ này. Dù còn thiếu những
kinh nghệm, những bất cập không thể tránh khỏi trong buổi đầu nh-ng chúng ta
đã thiết lập đ-ợc bộ khung cho loại hình thị tr-ờng này một cách có tổ chức.
Không những thế nhìn chung oạt động của nó khá suôn sẻ. Trong điều hành thể
hiện đ-ợc tính nhanh nhạy (bằng chứng về việc này là việc quy định giá trần và
khống chế biên độ dao động. Thành tựu này rõ ràng là có sự cố gắng v-ợt bậc
của UBCKNN. Sự ra đời của TTGDCK đã tạo nên khu vực thị tr-ờng chứng
khoán có tổ chức, thị tr-ờng này đã làm tác động tích cực đến khu vực "thị
tr-ờng tự do" cả về giá cả lẫn về việc làm làm cho thị tr-ờng này sôi động hơn
lên, tạo ra tâm lý đầu t- trong công chúng. Về lý thuyết nó đặt những viên gạch
đầu tiên cho việc mở ra một kênh mới thu hút tiền trong dân c- vào thị tr-ờng
vốn.
Bên cạnh những mặt đạt đ-ợc TTCK Việt Nam cũng đã bộc lộ một số yếu
kém sau: chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, khối l-ợng hàng hóa còn quá bé,
số công ty cổ phần còn quá ít, quy mô nhỏ, nhà n-ớc còn nắm nhiều cổ phần
ch-a trải rộng ra công chúng; và nhất là doanh nghiệp vẫn còn ch-a quen với
một "luật chơi" cực kỳ quan trọng củaTTCK đó là: phải công khai hoá thông tin.
Rõ ràng những điều này đã khiến cho việc khai tr-ơng TTCK tuy đánh dấu một
sự kiện có ý nghĩa trong năm 2000 nh-ng ch-a phải đã có tác động sâu rộng
trong đời sống kinh tế xã hội. Điều đáng ghi nhận nữa là sự thận trọng của
UBCKNN và những quan chức điều hành TTGDCK đã thành công trong việc


19


kiềm chế cơn sốt giá chứng khoán trong những tuần đầu tiên bằng biện pháp hạ
biên độ giá từ (+/-)5% xuống còn (+/-) 2%. Điều này có thể cho phép chúng ta
tin t-ởng vào khả năng quản lý nhà n-ớc đối với TTCK, một thị tr-ờng hãy còn
mới lạ, một ngành kinh tế hãy còn non trẻ tại Việt Nam. Tuy nhiên nó cũng là
"con dao hai l-ỡi", thực tế cho thấy biên độ giá đ-ợc quy định là (+/-) 2% d-ờng
nh- ngày một kìm hãm sự năng động của thị tr-ờng. Vô hình chung chúng ta
đang tự "gọt bớt gót chân" để đi vừa giày. Sự kìm hãm, dù hợp pháp nh-ng
không hợp lý, nếu kéo dài sẽ khiến thị tr-ờng vừa buồn tẻ, vừa thụ động.
Có thể nói sự bất ổn của TTCK phát sinh từ ba yếu tố cơ bản sau:
1. Khan hiếm hàng hoá trên thị tr-ờng chứng khoán :
Mặc dù vừa có thêm công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long
An(Lafooco) đ-ợc cấp giấy phép tham gia vào việc niên yết cổ phiếu trên thị
tr-ờng chứng khoán nh-ng vẫn còn là quá ít so với số chứng khoán đủ tiêu
chuẩn niên yết, do đó các nhà đầu t- rất ít có cơ hội lựa chọn để tham gia đầu t-
trên TTGDCK. Mặt khác phần lớn số cổ phiếu niêm yết thuộc sở hữu nhà n-ớc
không đ-ợc bán, cổ phiếu thuộc sở hữu của hội đồng quản trị, ban lãnh đạo và
cán bộ công nhân viên của công ty- những đối t-ợng này cũng không muốn bán
phần sở hữu của mình trong công ty, số cổ phiếu do các cổ đông bên ngoài nắm
giữ không nhiều, nên thực chất chỉ có một l-ợng rất nhỏ hàng hoá cho hoạt động
giao dịch của TTGDCK. Do đó đa phần trong các phiên giao dịch mặc dù số
l-ợng cổ phiếu đặt mua so với số l-ợng cổ phiếu niêm yết trên TTGDCK theo
công bố chính thức không cao (chỉ khoảng 2% - 5%) song chênh lệch về khối
l-ợng giữa lệnh mua và lệnh bán là rất lớn nên chỉ một số ít lệnh mua đ-ợc thực
hiện với khối l-ợng giao dịch không lớn, hầu hết các lệnh mua không đ-ợc thực
hiện, hiệu quả thu hút công chúng đầu t- ch-a cao.
Cho đến nay thì cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần đ-ợc xem là thứ
hàng hoá chính của TTCK. Trong thời gian qua, cổ phiếu của 4 doanh nghiệp
niêm yết là REE, SAM, HAP, TMS đã đ-ợc giao dịch th-ờng xuyên và đóng vai



20

trò chính yếu. Cho đến hết tháng 10/2000 tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tại trung
tâm giao dịch chứng khoán của 4 doanh nghiệp trên là trên 302 tỷ đồng. Riêng
trong tháng 10 đã có gần 669.000 cổ phiếu của các doanh nghiệp trên đ-ợc giao
dịch với tổng giá trị 14,69 tỷ đồng, so với tháng 9 thì mức giao dịch trên tăng
15%.Hậu quả của vấn đề khan hiếm hàng hoá là tạo ra sức ép tăng giá một cách
giả tạo, giá giao dịch chứng khoán luôn đạt mức sát trần. Điều nguy hiểm hơn
đối với TTCK non trẻ của Việt Nam là đã nảy sinh hiện t-ợng đầu cơ giá chứng
khoán, cụ thể: đầu phiên giao dịch những ng-ời có cổ phiếu đ-a ra một số lệnh
bán với giá sát trần để kéo giá lệnh mua, đến thời điểm chuẩn bị khớp lệnh thì
những lệnh bán này đ-ợc huỷ bỏ và đ-ợc thay thế bằng một số ít lệnh bán với
khối l-ợng nhỏ nhằm tiếp tục nâng giá cổ phiếu trong các phiên giao dịch tiếp
theo.Việc tăng giá cổ phiếu đã làm chỉ số VN Index tăng liên tục qua các phiên
giao dịch.Từ phiên giao dịch ngày 29/9/2000 đến phiên ngày 17/11/2000 chỉ số
VN Index đã tăng từ 120,71 điểm lên thành162,36 điểm, trong phiên này tổng
giá trị giao dịch đã tăng mạnh lên đến 1,1 tỷ đồng so với 450 triệu đồng của
phiên giao dịch tr-ớc. Các phiên giao dịch tiếp theo chỉ có một số ít biến động
nhỏ còn nhìn chung giá cổ phiếu liên tục tăng mạnh, đến phiên giao dịch thứ 80
chỉ số VN Index đã đạt 260,15 tăng hơn 150 điểm , gấp 2,5 lần so với giá trị ban
đầu của nó.
Trong những năm vừa qua, trái phiếu chính phủ đ-ợc phát hành chủ yếu
qua hệ thống kho bạc nhà n-ớc và đấu thầu qua ngân hàng nhà n-ớc. Từ tháng
7/00 sau khi chính phủ ban hành nghị định 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát
hành trái phiếu chính phủ. Bộ tài chính đã cho thực hiện hai ph-ơng thức phát
hành mới: đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành.
Phát hành qua hệ thống kho bạc nhà n-ớc đ-ợc thực hiện từ năm 1991.
Mặc dù đã có những cải tiến và thay đổi đáng kể về mặt nội dung, hình thức trái
phiếu và ph-ơng thức quản lý song các loại trái phiếu kho bạc phát hành trong
thơì gian vừa qua về cơ bản vẫn ch-a đáp ứng đ-ợc yêu cầu giao dịch và hoạt



21

động của TTCK. Nói cách khác khi TTCK ch-a phát triển, cơ sở vật chất và kỹ
thuật lạc hậu thì ch-a có điều kiện để thay đổi một cách cơ bản cơ chế phát
hành, quản lý và giao dịch trái phiếu. Điều này đ-ợc chứng minh khá rõ nét từ
thực tế của năm 1995: Xuất phát từ yêu cầu thúc đẩy sự ra đời của TTCK, Kho
bạc nhà n-ớc đã phát hành loại trái phiếu có in sẵn mệnh giá, không ghi tên
ng-ời mua, đ-ợc tự do mua bán, chuyển nh-ợng và thanh toán vãng lai trong cả
n-ớc. Sau một thời gian phát hành, khi đã cảm thấy có những dấu hiệu thiếu an
toàn trong quản lý, Kho bạc nhà n-ớc TW đã xin phép bộ tài chính cho dừng
phát hành, đồng thời thông báo cho các đơn vị kho bạc Nhà n-ớc cấp tỉnh mới
đ-ợc phép thanh toán vãng lai, vì lúc bấy giờ các đơn vị kho bạc cấp huyện ch-a
đ-ợc trang bị máy tính, ch-a thể nối mạng với TW theo dõi thanh toán trái phiếu
vãng lai. Năm 1999, Nhà n-ớc phát hành công trái XDTQ, sử dụng loại chứng
chỉ in sẵn mệnh giá và không ghi tên ng-ời mua để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc mua bán, giao dịch và tự do chuyển nh-ợng công trái. Tuy vậy tất cả các
loại trái phiếu phát hành trong thời gian vừa qua đều ch-a thể niêm yết, giao
dịch trên TTCK, bởi vì các loại trái phiếu và công trái trong cùng một đợt phát
hành ch-a đ-ợc quy định một ngày đến hạn thanh toán thống nhất, lãi suất trái
phiếu không đ-ợc thanh toán theo định kỳ và đặc biệt là tr-ờng hợp phải tính bù
giá trị vào lãi suất công trái khi có biến động mạnh mẽ về giá do nguyên nhân
lạm phát.
Đấu thầu tín phiếu qua ngân hàng nhà n-ớc đ-ợc thực hiện từ giữa những
năm 1995. Nhìn chung hoạt động của thị tr-ờng đấu thầu tín phiếu t-ơng đối ổn
định(mặc dù còn ở mức độ thấp). Hình thức đấu thầu chủ yếu là cạnh tranh về lãi
suất trên cơ sở tín phiếu phát hành và lãi suất trần do Bộ Tài chính quy định. Các
thành viên tham gia t-ơng đối th-ờng xuyên là các ngân hàng th-ơng mại quốc
doanh và một số tổ chức tài chính có tiềm lực về vốn. Tín phiếu phát hành vẫn

theo hình thức ghi sổ và đến nay các đơn vị cũng ch-a có nhu cầu nhận chứng


22

chỉ. Tín phiếu trúng thầu chủ yếu vẫn đ-ợc nắm giữ đến khi đáo hạn, ch-a đ-ợc
mua bán, chiết khấu lại trên thị tr-ờng tiền tệ.
Đấu thầu trái phiếu chính phủ qua TTGDCK lần đầu tiên đ-ợc tổ chức vào
ngày 26/7/2000, tính đến nay đã qua 5 phiên. Khối l-ợng gọi thầu mỗi phiên từ
200-300 tỷ đồng, kỳ hạn trái phiếu là 5 năm. Kết quả đấu thầu từng phiên nh-
sau:

Ngày
đấu thầu
Thành viên
tham gia
Khối l-ợng
đặt thầu
Lãi suất đặt thầu
Max Min
Kết quả trúng thầu
Khốil-ợng Lãi suất
1
2
3
4
5
6
7
26/7/00

9
858 tỷ
5,8%
8,0%
300 tỷ
6,5%
15/8/00
9
548 tỷ
6,4%
7,8%
300 tỷ
6,6%
29/8/00
4
165 tỷ
6,7%
7,5%
0
-
12/9/00
0
0
-
-
0
-









Trái phiếu đ-ợc đấu thầu theo hình thức cạnh tranh lãi suất, trong phạm vi
lãi suất trần của Bộ Tài chính. Các đơn vị tham gia và trúng thầu với khối l-ợng
lớn chủ yếu là các ngân hàng th-ơng mại quốc doanh. Các công ty chứng khoán
do hạn chế về vốn nên tham gia cầm chừng với khối l-ợng không đáng kể. Trái
phiếu đ-ợc phát hành d-ới hai hình thức chứng chỉ và ghi sổ, đ-ợc niêm yết và
giao dịch tại TTGDCK. Tuy vậy các đơn vị trúng thầu chủ yếu là nắm giữ trái
phiếu, ch-a có nhu cầu bán lại trên thị tr-ờng chứng khoán (trừ các công ty
chứng khoán ).
Bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ lần đầu tiên đ-ợc tổ chức vào
ngày 15/9/2000 với 5 đơn vị tham gia gồm 3 ngân hàng th-ơng mại quốc doanh


23

và hai công ty chứng khoán cùng tham gia đàm phán để thống nhất lãi suất và
khối l-ợng trái phiếu nhận bảo lãnh. Kết quả cụ thể nh- sau:
-Khối l-ợng bảo lãnh trái phiếu phát hành: 500 tỷ đồng
-Thời hạn trái phiếu: 5 năm
-Lãi suất trái phiếu: 6,6%/năm (lãi suất thanh toán hàng năm)
-Các đơn vị tham gia và khối l-ợng nhận bảo lãnh:
+Ngân hàng công th-ơng Việt nam : 420 tỷ đồng
+Ngân hàng đầu t- và phát triển Việt nam : 50 tỷ đồng
+Ngân hàng ngoại th-ơng Việt nam : 30 tỷ đồng
Qua 4 ph-ơng thức phát hành trái phiếu chính phủ nói trên, cho đến nay khối
l-ợng trái phiếu chính phủ đăng ký, niêm yết và giao dịch tại trung tâm giao

dịch chứng khoán vẫn không đáng kể. Mặc dù trái phiếu chính phủ phát hành
theo cơ chế mới có doanh số khá lớn, nh-ng l-ợng trái phiếu thực tế giao dịch là
không đáng kể. Liên tục nhiều phiên không khớp đ-ợc lệnh mua bán.
Trái phiếu vô danh của Ngân hàng Đầu t- và Phát triển tuy mới đ-ợc phát
hành tại ba địa bàn là TP.HCM, Hà Nội và Bình D-ơng nh-ng chỉ sau hai phiên
giao dịch kể từ khi đ-ợc đ-a vào TTCK đã gia tăng một cách đáng kể về khối
l-ợng. Theo các chuyên gia chứng khoán, sở dĩ có tình trạng này là do khả năng
rủi ro của loại trái phiếu này nhỏ không kém trái phiếu chính phủ nh-ng lãi suất
của nó lại đ-ợc thả nổi( đ-ợc điều chỉnh từng năm theo thị tr-ờng ). Sau hai
phiên giao dịch đã có 2.750 trái phiếu của Ngân hàng Đầu t- và Phát triển đ-ợc
bán ra với tổng giá trị giao dịch là 269,3 triệu đồng. Tuy nhiên đến các phiên
giao dịch sau khối l-ợng giao dịch trái phiếu này cũng có nhiều biến động- cơn
khát hàng hoá của thị tr-ờng chứng khoán vẫn ch-a đ-ợc giải quyết triệt để.
Có thể nói một trong những nguyên nhân cơ bản hiện nay của tình trạng
khan hiếm hàng hoá trên thị tr-ờng chứng khoán đó là do có quá ít doanh nghiệp
tham gia niêm yết trên TTCK. Hiện nay mặc dù số l-ợng công ty cổ phần ch-a
thực sự nhiều nh-ng với con số trên 50 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết thì


24

cũng không thể coi đó là số l-ợng quá ít. Chỉ cần khoảng 1/4 trong số các doanh
nghiệp này niêm yết cổ phiếu trong giai đoạn đầu thì có lẽ TTCK cũng đã "hòm
hòm" đủ đạt đ-ợc sự sôi động cần thiết. Thế nh-ng điều nan giải nhất là ở chỗ,
bản thân các công ty cổ phần đang có một thái độ rất thờ ơ với TTCK. Thậm chí
nhiều doanh nghiệp đã bày tỏ ý kiến rất thẳng thắn rằng, họ ch-a cảm thấy có lợi
gì khi đ-a cổ phiếu niêm yết trên TTCK và do đó họ ch-a có ý định niêm yết.
Tâm lý này đang thực sự là một rào cản rất lớn trong việc khuyến khích các công
ty đủ điều kiện niêm yết tạo thêm hàng hoá cho TTCK. Tr-ớc sự thờ ơ của nhiều
doanh nghiệp không thể không nhìn nhận lại môi tr-ờng vận hành hiện nay của

TTCK. Liệu TTCK đã có đầy đủ các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các doanh
nghiệp trên thị tr-ờng hay ch-a? Qua tìm hiểu trên thực tế có thể thấy rõ rằng,
nhiều doanh nghiệp vẫn có những lo ngại về hành lang an toàn trên TTCK, mà
vấn đề thao túng doanh nghiệp là nỗi lo lớn nhất. Nhiều giám đốc cho rằng, khi
công ty niêm yết cổ phiếu, có rất nhiều khả năng nhiều nhà đầu t- bên ngoài
doanh nghiệp có ý đồ mua gom cổ phiếu qua các phiên giao dịch để đến khi có
một số l-ợng cổ phiếu nhất định sẽ nhẩy vào điều hành công ty, việc này bản
thân công ty không thể kiểm soát đ-ợc.
Mặc dù pháp luật đã quy định khi một nhà đầu t- thực hiện giao dịch làm
thay đổi việc nắm giữ 5% trở lên cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty
niêm yết thì phải báo cáo với TTGDCK. Nh-ng trên thực tế việc quản lý và theo
dõi những nhà đầu t- mua và nắm giữ cổ phiếu số l-ợng lớn không phải là dễ
dàng. Hơn nữa, ngay cả với các nhà đầu t- đã nắm giữ trên 5% cổ phiếu thì việc
mua bán của họ cũng chỉ bị giám sát mà không thể bắt họ không đ-ợc tiếp tục
mua thêm nữa. Có lẽ các công ty cổ phần từ tr-ớc đến nay mới chỉ quen với
những cổ đông thuần tuý nhận cổ tức, chủ yếu là những cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp, nên phần lớn mang tâm lý sợ bị thao túng khi b-ớc chân vào
TTCK- một thị tr-ờng có tính cạnh tranh và đào thải gay gắt. Các công ty niêm


25

yết phải chấp nhận một thực tế là khi cổ phiếu đ-ợc giao dịch rộng rãi thì cổ
đông của công ty không thể chỉ là những đối t-ợng ổn định và dễ quản lý.
2.Thiếu sự đồng bộ giữa TTCK và thị tr-ờng tiền tệ
Có thể ví rằng thị tr-ờng chứng khoán và hệ thống ngân hàng nh- hai quả
tim để điều tiết nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong khi hoạt động của các ngân
hàng th-ơng mại chủ yếu nhằm cung ứng các nguồn vốn ngắn hạn thì vai trò của
TTCK là chuyên cung cấp dòng vốn dài hạn. Chính vì thế đây là hai bộ phận
quan trọng cấu thành nên một hệ thống tài chính hoàn chỉnh và chúng có quan

hệ với nhau theo nguyên tắc "bình thông nhau". Mỗi động thái trên thị tr-ờng
tiền tệ đều kéo theo một động thái mới trên TTCK và ng-ợc lại. Tuy nhiên thời
gian đầu hoạt động của TTCK Việt nam cho thấy rằng d-ờng nh- vẫn còn một
bức t-ờng vô hình ngăn cách sự t-ơng quan trong hoạt động của hai dòng l-u
chuyển vốn này. Điều này đ-ợc thể hiện rất rõ trong thực tế hoạt động của thị
tr-ờng tài chính gần nửa năm qua. Đặc biệt trong mấy tháng gần đây, thị tr-ờng
tiền tệ có nhiều biến đổi mạnh nh- những thay đổi nhanh chóng về lãi suất, tỷ
giá , nh-ng những động thái này vẫn hoàn toàn vô tác dụng đối với TTCK.
TTCK vẫn cứ hoạt động theo xu h-ớng riêng của nó và nhiều nhà đầu t- thậm
chí chẳng hề quan tâm đến những yếu tố này. Chẳng hạn nh- những biến chuyển
về lãi suất đã đ-ợc thể hiện rất rõ. Vừa qua lãi suất đồng Việt Nam đã tăng khá
mạnh, với mức tăng khoảng 0,02%/tháng so với thời gian cách đây hai tháng.
Đáng lẽ theo quy luật thị tr-ờng việc tăng lãi suất tất yếu sẽ kéo theo sự rút lui
của nhà đầu t- khỏi thị tr-ờng chứng khoán để chuyển sang đầu t- vào thị
tr-ờng tiền tệ dẫn đến sự giảm giá trên thị tr-ờng chứng khoán.Thế nh-ng trên
thực tế thì thị tr-ờng chứng khoán lại vận động theo xu h-ớng hoàn toàn ng-ợc
lại . Giá cổ phiếu của các công ty niêm yết vẫn có xu h-ớng tăng lên, chỉ số VN
Index đều tăng trong hầu hết các phiên giao dịch. Ngoài ra, tỷ giá đô la mỹ với
đồng Việt nam cho dù tăng liên tục trong thời gian qua cũng không có tác động
gì tơí hoạt động trên thị tr-ờng chứng khoán. Một số chuyên gia của uỷ ban

×