Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

định hướng phát triển và chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các khu công nghệ cao ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.79 KB, 96 trang )

KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
Mục lôc
Trang
Mục lục 1
Lời nói đầu 3
Chương 1
KHái niệm về khoa học - công nghệ, công nghệ cao
6
1.1. vài nét về khoa học công nghệ thế giới 6
1.1.1. Đặc trưng chủ yếu của thời đại văn minh trí tuệ
7
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của nền kinh tế mới (nền kinh tế tri thức) của
Mỹ- đại diện nổi bật của các nước tiên tiến
8
1.2. Giới thiệu về công nghệ cao và khu công nghệ cao 11
1.2.1. Một số quan niệm
11
1.2.2. Sự phát triển của Khu công nghệ cao trên thế giới
14
1.2.3. Tầm quan trọng của Công nghệ cao đối với các nước đang
phát triển
19
Chương 2
Thực trạng khoa học - công nghệ Việt Nam và Khu công nghệ cao Việt Nam
22
2.1. Hiện trạng khoa học công nghệ việt nam 22
2.1.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
22
2.1.3. Hiện trạng khoa học và công nghệ của Việt Nam
25
2.1.3. Mục tiêu phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam


28
2.2. khu công nghệ cao ở việt nam 31
2.2.1. Công nghệ cao - yếu tố phát triển dài hạn
32
2.2.2. Khu công nghệ cao là địa điểm tiếp cận công nghệ cao
33
2.2.3. Xây dựng Khu công nghệ cao Việt Nam
34
2.3. các văn bản pháp lý có liên quan tới công nghệ cao và khu công nghệ cao 37
2.3.1. Các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp
37
2.3.2. Các văn bản pháp luật điều chỉnh gián tiếp
45
Chương 3
Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích
ưu đãi đối với khu công nghệ cao
49
3.1. kinh nghiệm xây dựng chính sách khuyến khích ưu đãi đối với Khu công nghệ cao
ở một số nước châu á
49
3.1.1.Trung quốc
49
3.1.2. Thái Lan
53
3.1.3. Indonesia
56
3.2. định hướng phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá của việt nam trong thời kỳ
mới
58
3.2.1. Những định hướng chung

58
1
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
3.2.2. Định hướng phát triển công nghiệp, công nghệ cao của Việt
Nam giai đoạn 2000-2025
60
3.3. Chính sách khuyến khích phát triển kcnc việt nam 62
3.3.1. Những đảm bảo của Nhà nước và điều kiện tham gia KCNC
63
3.3.2. Tạo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh
doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp hoạt động trong KCNC
67
3.3.3. Chính sách khuyến khích đầu tư
68
3.3.4. Chính sách ưu đãi về thuế
69
3.3.5. Chính sách đất đai
71
3.3.6. Hỗ trợ phát triển và thu hút nguồn nhân lực
71
3.3.7. Xây dựng, phát triển và quản lý cơ sở hạ tầng KCNC
72
3.3.8. Hệ thống tổ chức quản lý KCNC
73
3.3.9. Khuyến khích và ưu đãi về cơ chế quản lý KCNC
81
Kết luận và kiến nghị 87
Tài liệu tham khảo 90
2
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam

Lời nói đầu
Đặc điểm thế giới hiện nay, khi Việt Nam bước vào hiện đại hoá, công nghiệp hoá,
khác với đặc điểm của thế giới trong giai đoạn trước đây khi các nước công nghiệp
mới (NICs) bắt đầu đi vào công nghiệp hoá. Đó là xu thế toàn cầu hoá và cuộc cách
mạng công nghệ trên toàn thế giới. Toàn cầu hoá tạo ra một thế giới thông thoáng,
phi quốc gia hoá đời sống kinh tế. Cách mạng công nghệ đứng sau thúc đẩy toàn
cầu hoá thành hiện thực và làm thay đổi tính chất của khoa học và kết cấu của công
nghiệp, kinh tế và xã hội của từng nước. Trong bối cảnh nh vậy Khoa học công
nghệ cần được tiếp cận tốt hơn và có hiệu quả hơn. Việt Nam đang trong quá trình
hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới (APEC, AFTA, WTO, ). Điều đó đòi
hỏi nước ta phải phát triển nhanh vì phát triển càng chậm thì càng tụt hậu và mất
thời cơ. Đồng thời, không có công nghệ cao thì sẽ không có sản phẩm chất lượng
cao và sẽ không thể thích ứng với hội nhập quốc tế.
Trước thực tế trên, Nhà nước Việt Nam đã có chủ trương đưa nền kinh tế đất nước
phát triển nhanh trong giai đoạn 1991-2000 và tiếp tục phát huy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn tiếp theo trong những năm đầu của thế kỷ 21.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) cũng chỉ rõ Việt Nam phải
tiếp tục phát huy sức mạnh của sự nghiệp hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước
để đưa nền kinh tế Việt Nam theo kịp và hội nhập được với nền kinh tế trong khu
vực và thế giới. Muốn vậy, Công nghệ phải là mũi nhọn để Việt Nam phát triển
theo hướng đi tắt đón đầu. Trước hết, cần phải cụ thể hoá, làm sáng tỏ và giải đáp
cho được vấn đề đi tắt đón đầu nh thế nào, việc đi tắt đón đầu về công nghệ, các
sản phẩm mũi nhọn của Việt Nam, sử dụng thế mạnh của con người và trí tuệ Việt
Nam.
Nhận thức được vai trò quan trọng của Công nghệ cao đối với sự phát triển của nền
kinh tế nước nhà và sự cần thiết phải xây dựng Khu công nghệ cao ở Việt Nam,
ngày 12 tháng 10 năm 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
3
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
198/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Khu công nghệ cao Hoà Lạc tại Tỉnh Hà Tây,

phê duyệt Quy hoạch tổng thể và Dự án đầu tư bước 1, giai đoạn 1 Khu Công nghệ
cao Hoà Lạc, và Quyết định số 98/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2001 về
việc triển khai đầu tư và xây dựng cơ sở hạng tầng Khu công nghệ cao Hoà lạc.
Đây sẽ là sự phát triển sáng tạo các mô hình Khu công nghệ cao trên thế giới và
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta, là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy
sự nghiệp hiện đại hoá, công nghiệp hoá của nước nhà.
Tuy nhiên, điểm xuất phát của Việt Nam về trình độ phát triển thấp hơn so với các
nước khác khi xây dựng Khu công nghệ cao. Vì vậy muốn tiếp cận nhanh chóng
với công nghệ tiên tiến, chúng ta cần phải tạo ra được một môi trường đầu tư thật
hấp dẫn để thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Trước hết, chúng ta cần có một
khung pháp lý rõ ràng, ổn định, chính sách khuyến khích và ưu đãi cho việc phát
triển Công nghệ cao, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực
có độ rủi ro cao nhưng giá trị lợi nhuận cũng rất lớn như các Khu Công nghệ cao.
Từ khi thực hiện chính sách mở của nền kinh tế trong 15 năm qua, Việt Nam đã
thành công trong việc xây dựng được mô hình các Khu công nghiệp, Khu chế xuất,
đóng góp một phần rất quan trọng cho việc tăng trưởng nền kinh tế nước nhà. Tuy
nhiên, Khu công nghệ cao là mô hình rất mới mẻ mà nền kinh tế Việt Nam đang
hướng tới. Để Khu công nghệ cao Hoà Lạc có thể khởi động được, có khả năng thu
hút đầu tư, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta xây dựng được hành lang pháp
lý chặt chẽ và đặc biệt là hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc biệt để tạo
điều kiện cho Khu công nghệ cao phát huy tác dụng.
Trước thực trạng đó, được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa Kinh tế Ngoại
thương - Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“ Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với
các Khu công nghệ cao ở Việt Nam".7
Nội dung của đề tài gồm các phần chính nh sau:
4
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
Chương 1 - Giới thiệu về Công nghệ cao và Khu công nghệ cao.
Chương 2- Thực trạng khoa học - công nghệ Việt Nam và việc xây dựng

Khu công nghệ cao ở Việt Nam.
Chương 3 - Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối
với Khu công nghệ cao.
Do thời gian hạn hẹp và khả năng nghiên cứu của một sinh viên còn nhiều hạn chế,
nội dung của đề tài chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu về Công nghệ cao, các mô hình
Khu công nghệ cao trên thế giới đồng thời nghiên cứu các Chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam trong việc khuyến khích ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực Khu công
nghệ cao - một mô hình phát triển kinh tế rất mới mẻ này.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn./.
5
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
Chương 1
Khái niệm về khoa học - công nghệ,
công nghệ cao
1.1. vài nét về khoa học - công nghệ thế giới
Chóng ta đang sống trong thế kỷ 21, kỷ nguyên của khoa học công nghệ với những
thành tựu vượt bậc của công nghệ thông tin, ngành góp phần tạo cơ sở vật chất cho
sự tích hợp các quá trình kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế,
quan hệ xã hội - Siêu xa lộ thông tin là một bộ phận kết cấu hạ tầng cơ bản của xã
hội, trong đó việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các ngành nghề, các lĩnh
vực, ở mọi nơi, mọi lúc giúp cho khoảng cách địa lý ngày càng thu hẹp lại.
Bên cạnh đó, Công nghệ sinh học cũng đang trở thành chìa khoá cho sự phát triển
trong tương lai. Các nghiên cứu về kỹ thuật sinh học phân tử đang dẫn chúng ta đến
gần một khả năng mới - rô bốt sinh học - một công cụ “sống” giúp con người điều
hành thế giới tương lai. Kỹ thuật gen với phân tích cấu trúc di truyền cho phép
chúng ta hiểu cơ chế hình thành các giống loài sinh vật, duy trì trên trái đất môi
trường sinh thái tối ưu cho chính con người. Việc phát hiện các loại gen, các chuỗi
gen, khả năng phân tích và thay thế nhân bản gen sẽ đẩy nhanh tiến bộ công nghệ.
Các kết quả này được ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau như trong lĩnh vực
Nông nghiệp, Y học, thiết kế di truyền và sẽ đưa con người tiến tới khả năng chinh

phục các thế lực siêu nhiên.
Trong thời đại công nghiệp, loài người có nền văn minh công nghiệp, xã hội công
nghiệp, kinh tế vật dụng và tài nguyên thiên nhiên. Do tác động của Khoa học công
nghệ hiện đại, loài người đang ở thời đại thông tin với nền văn minh thông tin, xã
hội thông tin, kinh tế trí thức và tài nguyên thông tin trí tuệ. Tất cả các yếu tố đó
tạo nên một thế giới mới trong đó người ta thường nói đến cụm từ "Nền kinh tế trí
6
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
thức". Vậy chúng ta hãy tìm hiều những đặc trưng và các yếu tố cấu thành nên
"Nền kinh tế trí thức".
1.1.1. Đặc trưng chủ yếu của thời đại văn minh trí tuệ.
Trong nền văn minh trí tuệ, tri thức Khoa học và Công nghệ là nguồn lực điều
khiển sự hưng thịnh của các quốc gia. Khác với nguồn lực truyền thống, Tri thức
Khoa học và Công nghệ có khả năng tái sinh và tự sinh sản, do đó sự phát triển của
nhân loại là vô tận.
Nền kinh tế của thời đại văn minh trí tuệ còn được gọi là “nền kinh tế trí thức” hoặc
“nền kinh tế thông tin” có 4 đặc trưng chủ yếu sau:
1- Nền kinh tế siêu tượng trưng: mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh được
tin học hoá mức độ cao; các giá trị được phi vật chất hoá; tiền điện tử; thị
trường chứng khoán điện tử.
2- Toàn cầu hoá nền kinh tế: từng bước thống nhất thị trường quốc tế thông
qua Tổ chức thương mại thế giới WTO với tổng giá trị thương mại hàng năm
trên 3000 tỷ USD. Liên kết tài chính toàn cầu đang diễn ra với tốc độ lớn,
với lượng tiền tệ lưu thông hàng ngày gấp 26 lần giá trị buôn bán trên thế
giới. Dòng đầu tư nhanh cùng với toàn cầu hoá đầu tư, kinh doanh của các
công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia.
3- Nền công nghiệp mới thân môi trường ra đời - nền công nghiệp sinh thái:
Trong nền công nghiệp này, thông tin và các yếu tố tri thức là các yếu tố đầu
vào của hệ thống sản xuất, quản lý, kinh doanh, vừa là của cải và vừa là công
cụ để tạo ra của cải. Đặc trưng của nền công nghiệp sinh thái là tiêu tốn Ýt

nguyên vật liệu, tiết kiệm năng lượng, sản sinh Ýt phế thải góp phần bảo vệ
môi trường sinh thái và được phân bổ trên các vùng của quốc gia, thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các vùng.
7
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
4- Người tri thức đóng vai trò chiếc máy trong nền văn minh mới. Ngày nay,
người tri thức là động lực chính tạo nên sự phát triển và phồn vinh của xã
hội.
Trong nền văn minh mới, bậc thang giá trị mới đã hình thành -Tri thức và Công
nghệ. Khách hàng có thể mua những sản phẩm (máy tính, phần mềm, ) mà họ có
thể không hiểu gì về nó, nhưng vẫn rất hữu hiệu cho công việc, với một giá trị đặc
thù có thể tới 90-99% giá thành phải trả cho chất xám, phần còn lại 1-10% dành
cho các chi phí về nguyên vật liệu và nhân công.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của nền kinh tế mới (nền kinh tế tri thức) của Mỹ - đại diện
nổi bật của các nước tiên tiến:
1.Nền kinh tế mới lấy tri thức làm cơ sở.
Nó là hình thái kinh tế bắt nguồn từ khoa học kỹ thuật mới và những tinh hoa trí
tuệ của nhân loại. Trong nền kinh tế cũ, sản xuất, phân phối, tiêu thụ là lấy vật chất
làm nội dung chủ yếu, yếu tố sản xuất chủ yếu là vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên
và sức lao động, Trong nền kinh tế mới, tri thức lại là nội dung chủ yếu của sản
xuất, phân phối và tiêu thụ, tri thức và sức lao động có tri thức là yếu tố sản xuất
quan trọng nhất. Một nhà quản lý Mỹ cho rằng: chức năng chủ yếu của nền kinh tế
hiện đại là sự sản xuất và phân phối “tri thức và thông tin”, chứ không phải là sản
xuất và phân phối “vật chất”. Tri thức còn là nguồn động lực cho sự tăng trưởng
kinh tế, những cống hiến của tri thức ngày càng lớn đối với sự tăng trưởng kinh tế.
Ở Mỹ, mỗi năm các khoản chi cho việc ra đời tri thức và công tác truyền thông
chiếm khoảng 20% GDP của họ, trong đó giáo dục chiếm 10%, các khoản cho bồi
dưỡng đào tạo và giáo dục chiếm 5%, chi cho việc nghiên cứu và khai thác chiếm
3-5%. Trong nền kinh tế mới, sự tăng trưởng kinh tế chuyển từ loại hình tiêu hao
tài nguyên sang loại hình khai thác tri thức và kỹ thuật. Ngày càng nhiều giá trị gia

tăng của nền kinh tế là do máy vi tính chứ không phải do sức lao động sáng tạo ra.
Rất nhiều ngành nghề của nông nghiệp và công nghiệp đang trở thành ngành nghề
8
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
của công việc tri thức. Hiện nay hầu nh 60% công dân Mỹ là công nhân tri thức,
80% nghề nghiệp mới là do ngành tập trung tri thức tạo ra. Ông John Dure - một
chuyên gia về tài chính Mỹ nói: “ nền kinh tế cũ là thiết bị vốn, là sự duy trì của
nghề nghiệp, nhưng nền kinh tế mới lại là bản quyền tri thức, là sự sáng tạo của
nghề nghiệp”.
2.Nền kinh tế lấy thông tin làm chủ đạo.
Mỹ đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin. Ngành
thông tin, ngành tin học (bao gồm thiết kế, dự trữ, truyền tải và xử lý thông tin), các
ngành liên quan và ngành dịch vụ chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân
Mỹ. Đặc biệt là 3 ngành thông tin lớn là tính toán (máy tính điện tử, phần mềm),
thông tin (điện thoại, vô tuyến, hữu tuyến và vệ tinh), và sự kết hợp với dịch vụ
(vui chơi, xuất bản, cung cấp thông tin, ), cho ra đời một ngành truyền thông hoàn
toàn mới. Từ năm 1996, giá trị sản xuất của ngành truyền thông đã đạt khoảng
1000 tỷ USD, chiếm 14% GDP của Mỹ. Hiện nay, ở Mỹ những nhà sản xuất máy
tính vượt những nhà sản xuất ô tô, những người chế tạo chất bán dẫn nhiều hơn
công nhân xây dựng, các nhân viên xử lý thông tin nhiều hơn số công nhân của
ngành luyện dầu. Ngành tin học không chỉ là ngành lớn nhất của Mỹ mà còn là
ngành tăng trưởng nhanh nhất trong mấy năm gần đây, hàng năm tăng trưởng với
tốc độ hai con số. Sản phẩm thông tin và chi phí dịch vụ tăng lên cũng dẫn đầu các
lĩnh vực khác. Theo thống kê năm 1999, ở Mỹ chi phí của các “sản phẩm kinh tế
cũ” như ôtô, thực phẩm, đồ điện gia dụng bình quân tăng 0,9%, nhưng chi phí
của các “sản phẩm kinh tế mới” như điện thoại, máy tính, dịch vụ tài chính tiền tệ,
vui chơi lại tăng bình quân 12%. Điều làm cho mọi người chú ý là do sự ứng
dụng của kỹ thuật tin học, các ngành kinh tế đã sử dụng công nghệ số hoá, mạng
Internet, điện tử, Trong điều kiện nền kinh tế cũ, sự lưu thông thông tin là vật
chất như tiền mặt, cổ phiếu, hoá đơn, biên lai lấy hàng, báo cáo, Trong điều kiện

kinh tế mới, tất cả các hình thức thông tin đều được số hoá, giảm bớt thời gian lưu
trữ trên máy tính và được truyền đi với tốc độ ánh sáng trong mạng. Những năm
9
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
gần đây, ngành thương nghiệp điện tử mới nổi lên, ngày càng nhiều các sản phẩm
được tiêu thụ qua mạng Internet, và được chi trả bằng hình thức trả tiền điện tử.
Theo thống kê, ngành thương mại điện tử hàng năm tăng với tốc độ 200%. Trong
năm 2000, khoảng 40% hàng hoá bán lẻ của Mỹ được tiêu thụ trên mạng điện tử.
3. Nền kinh tế mới lấy thị trường toàn cầu dẫn đầu.
Kỹ thuật tin học, đặc biệt là Internet làm cho khoảng cách địa lý ngày càng thu nhỏ
lại. Tri thức và thông tin không phân biên giới, tri thức và thông tin là nguồn kinh
tế chủ yếu sẽ làm cho các hoạt động kinh tế vượt biên giới và trở thành hoạt động
mang tính toàn cầu. Vốn, sản xuất, quản lý sản phẩm, sức lao động, thông tin và kỹ
thuật, được lưu thông xuyên quốc gia. Mối liên hệ và hợp tác kinh tế mậu dịch và
kỹ thuật giữa các nước và giữa các công ty lớn ngày càng tăng cường và cũng ngày
càng cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh cũng được tiến hành trên phạm vi toàn cầu.
Hiện nay mạng Internet của Mỹ đã kết nối với khoảng 190 nước và các khu vực
trên thế giới, ngày càng nhiều các công ty, xí nghiệp của Mỹ bị cuốn hút vào làn
sóng toàn cầu hoá kinh tế. 10 năm trước đây, Mỹ chỉ có khoảng 20% các công ty có
quan hệ kinh doanh trên phạm vi toàn cầu nhưng đến nay thì con số đó đã chiếm tới
trên 60%. Mức độ dựa dẫm của nền kinh tế Mỹ đối với mậu dịch đối ngoại được
nâng cao, mậu dịch xuất nhập khẩu tăng thêm 10% GDP trong giai đoạn 1990-
2000. Đặc biệt là sự cống hiến của ngành xuất khẩu đối với sự tăng trưởng kinh tế
đã vượt ngành xây dựng và ngành gang thép, trở thành ngành trụ cột của sự tăng
trưởng kinh tế trong khoảng thời gian từ 1990-1999, tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu
hàng năm của Mỹ đạt 6.5%, tăng gấp 3 lần tỉ lệ tăng trưởng kinh tế cùng kỳ.
4. Nền kinh tế lấy mạng lưới công ty làm vật dẫn.
Từ những năm 80 đến nay, các công ty mới của Mỹ đã áp dụng các trang thiết bị kỹ
thuật thông tin tiên tiến và tiến hành tổ chức xây dựng lại cơ cấu công ty, làm cho
các công ty thực hiện mạng lưới hoá kinh doanh.

10
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
- Công ty trở thành mạng lưới do các đơn vị nhỏ tạo nên. Sau khi hệ thống
thông tin trí tuệ lợi dụng mạng lưới thông tin tổng hợp trong công ty kết hợp
tất cả các hoạt động kinh doanh sản xuất thành một khối thống nhất, phối
hợp toàn bộ quá trình sản xuất và phân bố công việc giữa các khu vực và các
đơn vị trên toàn thế giới.
- Các khâu trong quá trình kinh doanh công ty nối mạng liên hệ với nhau,
thực hiện phương pháp quản lý chặt chẽ từ đầu đến cuối từ việc thiết kế sản
phẩm, gia công, chế tạo, tiêu thụ, dịch vụ sau khi bán, và xử lý cuối cùng.
- Xây dựng mạng lưới cơ cấu quản lý, làm cho nó có sự liên hệ trực tiếp giữa
lãnh đạo và nhân viên, giảm bớt khâu trung gian, đạt mục đích tinh giản và
sử dụng có hiệu quả cao nguồn nhân lực.
- Xây dựng mạng lưới giữa các công ty khác nhau, làm cho sự phối hợp và
hợp tác ngày càng thuận lợi hơn, cung cấp hàng và chuyển giao hàng hoá
ngày càng thích hợp hơn.
- Thực hiện mạng lưới hoá giữa công ty và các nhân viên. Nhân viên không
nhất thiết phải làm việc tại văn phòng, nhân viên quản lý cũng có thể thông
qua sử dụng các công cụ thông tin cầm tay để dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời
gian nào cũng vẫn có thể điều hành công việc được.
- Giữa công ty và khách hàng có thể liên hệ với nhau, giao lưu thông qua
mạng, công ty biết được ý định của khách hàng, tiến hành việc kinh doanh và
các dịch vụ để làm hài lòng các khách hàng.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của nền kinh tế của Mỹ, đại diện nổi bật của
các nước tiến tiến. Hiện nay, Mỹ được coi là một trong những quốc gia phát triển
khoa học - công nghệ và ứng dụng Công nghệ cao hàng đầu trên thế giới.
1.2. giới thiệu về công nghệ cao và khu công nghệ cao
11
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
1.2.1. một sè quan niệm

Theo các tài liệu của Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường Việt Nam, các khái
niệm về Công nghệ, Công nghệ cao và Khu công nghệ cao được hiểu nh sau:
1. Công nghệ là gì?
• Định nghĩa: Công nghệ được hiểu là những ứng dụng tri thức khoa học để
giải quyết một nhiệm vụ được đặt ra, hoặc một hệ thống giải pháp sử dụng
trong quá trình thực hiện một mục tiêu cụ thể.
• Kết cấu công nghệ: gồm 4 yếu tố:
- Thiết bị kỹ thuật ( Technoware)
- Nhân lực ( Humanware)
- Thông tin (Informware)
- Tổ chức, quản lý ( Orgaware)
• Đặc tính của công nghệ:
- Mang tính hệ thống - không thể chia cắt ra từng giải pháp;
- Có tính sinh thể - nh một cơ thể sống, phải được nuôi dưỡng;
- Mang thông tin - Sở hữu, bảo vệ, định giá, cập nhật,
• Nguồn cung cấp công nghệ:
- Cải tiến, đổi mới công nghệ truyền thống;
- Nghiên cứu triển khai công nghệ mới;
- Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào;
Khoa học là không biên giới, là của chung nhân loại. Công nghệ là tài sản riêng của
mỗi quốc gia, có thể mua bán được. Về mặt pháp lý, tuỳ từng nước, tuỳ từng thời
kỳ, công nghệ có thể bị hạn chế trong thương mại để bảo vệ quyền lợi quốc gia.
2. Công nghệ cao:
12
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
• Định nghĩa: Là ngành công nghệ ứng dụng những thành tựu của nghiên cứu
khoa học tiên tiến nhất; hoặc công nghệ lâu đời nhưng có cải tiến quan trọng
làm cho năng suất tăng vọt.
• Chiến lược công nghệ:
Một chiến lược công nghệ bao gồm các phương diện: Lựa chọn công nghệ; Phát

triển và thiết kế sản phẩm; Nguồn cung cấp công nghệ; Quản lý việc nghiên cứu và
triển khai, cung cấp vốn.
Bản chất một chiến lược công nghệ là chiến lược kinh doanh. Các chiến lược công
nghệ thường có:
- Leader - Người chỉ huy: Chỉ để cho các nước lớn mạnh, tiên tiến, mạnh nh
Mỹ, Nga, Nhật
- Follower - Theo sát: Thường cho các nước phát triển.
- Extender- chấp nhận, mở rộng: Được các nước phát triển sử dụng để nâng
cao năng lực công nghệ và phát triển kinh tế của nước mình.
- Exploiter- Lợi dụng, khai thác: dành cho các nước đang phát triển.
3. Khu công nghệ cao: (High- Technology Park)
Trong mỗi Khu công nghệ cao nói chung phải bao gồm đủ 3 thành phần cơ bản:
- Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển (R & D);
- Tổ chức đào tạo;
- Cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ cao.
Hiện nay ở hầu hết các nước tiên tiến, Khu Công nghệ cao được coi là “khu Khoa
học- Công nghệ đặc biệt”, tập trung các đơn vị nghiên cứu- triển khai khoa học và
công nghệ; các cơ sở đào tạo; bồi dưỡng nhân lực; các doanh nghiệp công nghệ
cao, doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị dịch vụ liên quan; có
ranh giới xác định.
13
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
Mục tiêu chung của Khu công nghệ cao là thu hút công nghệ cao của nước ngoài;
thích ứng và đồng hoá công nghệ cao; hỗ trợ và chuyển giao công nghệ cao; nghiên
cứu sáng tạo và sản xuất công nghệ cao; thương mại hoá công nghệ cao và góp
phần phát triển công nghệ cao của đất nước.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau áp dụng các mô hình Khu công nghệ cao
khác nhau. Việc lựa chọn cho quốc gia mình một mô hình Khu công nghệ cao phù
hợp không phải là vấn đề đơn giản mà còn phụ thuộc vào điều kiện khoa học công
nghệ và nền kinh tế của quốc gia đó


1.2.2. sự phát triển của kcnc trên thế giới
1. Các mô hình khu Công nghệ cao trên thế giới
Có nhiều cách phân loại các loại hình khu Công nghệ cao trên thế giới, nhưng đều
thống nhất đặc điểm của nó là: liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học công
nghệ và sản xuất kinh doanh. Hiện nay trên thế giới có khoảng 800 khu được xếp
vào loại Khu Công nghệ cao. Nếu phân chia theo mức độ hoạt động Nghiên cứu-
Triển khai (R & D) có thể chia ra thành 5 loại sau đây:
- Công viên khoa học truyền thống: (Traditional Science Park - TSP):
Công viên khoa học truyền thống thường có mối quan hệ chặt chẽ với một
trường (Viện) đại học có chức năng nghiên cứu là chủ yếu. Nó thường được
thành lập để thúc đẩy quá trình Nghiên cứu-triển khai, biến các kết quả
nghiên cứu ứng dụng thành các công nghệ sản xuất.
Công viên khoa học truyền thống Stanford (Mỹ) và Cambrige (Anh) là
những ví dụ điển hình và nổi tiếng nhất của mô hình này ở Phương Tây.
Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, mô hình ở Óc và Công viên khoa
học truyền thống ở Singapore gần với loại này nhất. Đặc điểm của Công viên
khoa học truyền thống là tỷ trọng của hoạt động nghiên cứu và triển khai rất
cao.
14
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
Công viên khoa học truyền thống Ýt dựa vào đầu tư, phát triển các công ty
lớn mà chủ yếu dựa vào thế mạnh của các trường Đại học có quan hệ với nó
để đầu tư, phát triển. Những người sáng lập ra mô hình này thường là những
người đã từng là giáo sư của trường Đại học có quan hệ với khu Công nghệ
cao.
- Thành phố khoa học (Science City- SC)
Thành phè khoa học được khởi đầu từ nước Nhật. Ngày nay nó là mô hình
phát triển tiếp theo của các Công viên khoa học. Tại đây thường tạo ra một
cộng đồng dân cư liên quan đến khoa học và công nghệ, bằng cách cung cấp

môi trường sinh hoạt và làm việc hoàn chỉnh. Như vậy ngoài mục đích phát
triển khoa học và công nghệ còn có mục tiêu phát triển vùng. Đặc biệt
khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp dựa trên cơ sở công nghệ và
chuyển giao công nghệ từ trong Khu Công nghệ cao ra bên ngoài, nhất là tới
những vùng xa trung tâm phát triển, nhằm trải đều lợi Ých mang lại phát
triển kinh tế cho toàn quốc gia. Đặc điểm của Thành phố khoa học là kết hợp
chặt chẽ phát triển nghiên cứu- triển khai và sản xuất, tạo ra vùng công
nghệ mới.
Tiêu biểu cho loại hình này là khu Tskuba (Nhật Bản) có trên 11.000 nhà
nghiên cứu và Deaduk Science City (Hàn Quốc). Ngoài ra Đài Loan,
Singapore và Óc cũng có những kế hoạch phát triển các Khu Công nghệ cao
hiện có của mình theo mô hình này. Sự thành công của mô hình này phụ
thuộc vào sự hiện diện của các viện nghiên cứu, đào tạo đủ mạnh và chủ chốt
thuộc quản lý của chính phủ để thu hút đầu tư vào Thành phố Khoa học.
- Công viên đổi mới công nghệ ( Technology Innovation Park - TIP)
Đây là loại hình Khu Công nghệ cao được thiết kế chủ yếu dành cho các
doanh nghiệp lớn nhằm thu hút đầu tư từ bên ngoài. Mối liên kết của Công
viên đổi mới công nghệ với các Viện nghiên cứu thường lỏng lẻo, chủ yếu là
15
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
do bản thân các doanh nghiệp đã khá mạnh và thường chỉ liên kết với một số
Viện nghiên cứu với những mục đích nhất định.
Quy mô của Công viên đổi mới công nghệ (TIP) đảm bảo cho các doanh
nghiệp có thể thực hiện toàn bộ qui trình nghiên cứu- triển khai đến sản xuất
và một số hoạt động có liên quan khác. Đặc điểm của Công viên đổi mới
công nghệ là sản xuất hàng hoá có trình độ kỹ thuật cao gắn liền với việc
phát triển nghiên cứu - triển khai của chính doanh nghiệp sản xuất.
Hai điển hình nổi tiếng của mô hình này là Reseach Triangle (Mỹ) với diện
tích 2.700 ha, sử dụng 32.000 nhân viên và khu Hsinchu Science Park (Đài
Loan) với diện tích 580 ha, sử dụng gần 23.000 nhân viên.

- Trung tâm công nghệ (Technology Center - TC):
Khu công nghệ cao này đôi khi còn được gọi là lò ủ doanh nghiệp
(Incubator). Phần lớn các Trung tâm công nghệ nằm trong các thành phố lớn,
trong đó tập trung chủ yếu các doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập bằng cách
cung cấp các trợ giúp hoặc tư vấn các vấn đề triển khai sản xuất và kinh
doanh để giúp các doanh nghiệp này tồn tại và phát triển.
Loại hình Trung tâm công nghệ (TC) cũng có mối liên hệ chặt chẽ với các
Viện nghiên cứu hay Trường Đại học nào đó, nhưng nó cũng có thể đứng
độc lập hay nằm trong Khu công nghệ cao lớn hơn.
Trung tâm công nghệ công nghiệp Hồng Kông tiêu biểu cho loại hình này.
Đa số các Công viên khoa học của Đức cũng thuộc mô hình này, với diện
tích thường dưới 1 ha.
- Công viên khoa học chuyên biệt (Special Science Park - SSP):
Ngoài 4 mô hình Khu công nghệ cao nói trên, còn có một loại hình khác, đó
là Khu Công viên khoa học chuyên biệt - SSP. Thực ra mô hình này thuộc
loại Công viên khoa học, nhưng các hoạt động của nó chỉ tập trung vào một
16
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
lĩnh vực chuyên ngành, một lĩnh vực công nghệ, một ngành công nghiệp hay
một thị trường sản phẩm nhất định.
Khu công nghệ y học của Singapore, Khu công nghệ phần mềm tại Bombay
(Ên Độ) thuộc loại hình Công viên khoa học chuyên biệt. Các khu này chủ
yếu hình thành từ cố gắng của các doanh nghiệp của một ngành công nghiệp
hơn là được xây dựng theo một chương trình định trước.
Lợi thế của mô hình này là dễ dàng cung cấp các phương tiện dùng chung,
nên có thể giảm được chi phí. Tuy nhiên một bất lợi lớn nhất của nó là bị phụ
thuộc vào nhu cầu của một phân khúc thị trường rất hẹp. Vì vậy, mô hình
Công viên khoa học chuyên biệt thường chỉ phát triển ở các khu được cung
cấp cơ sở hạ tầng tốt để giúp giảm chi phí hoặc ở những khu vực có nhu cầu
riêng biệt.

Việc phân loại các Khu Công nghệ cao trên thế giới cũng không phân biệt rõ ràng
theo 5 loại trên đây. Ở châu Âu, nhiều khu Công nghệ cao là sự giao thoa giữa
nhiều loại hình khác nhau phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất và hoạt của từng Khu
công nghệ cao khác nhau. Ví dụ:
Một sè Khu công nghệ cao ở Châu Âu
TT Tính chất Khu công nghệ cao Số lượng Tỷ lệ %
1 Traditional Science Park - TSP 24 28.916
2 Science City - SC 6 7.229
3 Technology Center - TC 11 13.523
4 Science park/ Technology Center 15 18.072
5 Science park/ Technology 5 6.024
6 Science City/ Technology Center 7 8.434
7 Science City/Science park/Technology Center 15 18.072
Tổng sè 83 100
17
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
2. Xu hướng phát triển khoa học - công nghệ trên thế giới
Việc sản xuất ra các kiến thức và làm chủ các công nghệ đóng vai trò ngày càng
lớn trong sự thành đạt của một doanh nghiệp nói riêng và của cả nền công nghiệp
nói chung. Và ngày nay, sự thành đạt càng phụ thuộc vào năng lực sáng tạo những
công nghệ mới; khả năng áp dụng những công nghệ mới nhất và nhanh chóng đổi
mới chúng. Cụ thế trên thế giới hiện nay là:
- Xu hướng toàn cầu hoá:
Với xu hướng toàn cầu hoá thị trường thế giới, các doanh nghiệp buộc phải
theo đuổi xu hướng toàn cầu, khiến cho quá trình mua bán trao đổi công
nghệ cũng được diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Xu hướng này tạo nên nguy
cơ cuộc xâm lấn công nghệ của các bên vừa hợp tác vừa cạnh tranh ngày
càng diễn ra rõ nét. Nếu chậm trễ, công nghệ không chỉ bị trừng phạt bởi giá
thành cao hơn mà còn bởi những mất mát to lớn về thị trường, thậm chí có
thể bị loại ra khỏi thị trường nếu như sự lạc hậu không được khắc phục.

- Chu kỳ sản phẩm ngắn:
Trong vòng 2 thập kỷ vừa qua, chu kỳ sống (life circle) của sản phẩm ngành
công nghiệp năng động nhất bị rút ngắn lại. Trong lĩnh vực tin học, hơn một
nửa sản phẩm có chu kỳ sống dưới 4 năm. Còn trong lĩnh vực dược phẩm thì
thời gian đó là 10 năm. Sự rút ngắn này cùng với sự gia tăng cạnh tranh trên
thị trường đã dẫn đến việc đầu tư lớn vào lĩnh vực nghiên cứu - triển khai (R
& D) nhằm tăng nhịp độ cải tiến công nghệ, dẫn đến việc làm tăng giá thành
của hoạt động nghiên cứu - triển khai.
- Linh hoạt, phi tập trung trong quản lý công nghệ:
Để giữ vững được tại vị trí mũi nhọn của tiến bộ kỹ thuật đòi hỏi hình
thức quản lý mới về công nghệ: thay sự quản lý tập trung bằng hình thức
quản lý phi tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị độc lập đáp ứng
18
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
được đòi hỏi ngày càng lớn về tính linh hoạt và nhanh nhẹn trong việc tung
ra những sản phẩm mới.
Phi tập trung hoá cũng được thể hiện ở các chi nhánh Trung tâm nghiên cứu
ở nước ngoài. Các Trung tâm này lúc đầu chỉ có mục đích làm cho các sản
phẩm của mình thích hợp với các đặc thù và sự cạnh tranh trên thị trường địa
phương. Nhưng sau một thời gian ngắn, chúng lại trở thành người cung cấp
công nghệ cho các công ty mẹ.
- Hợp tác:
Trước một thị trường và các ngành công nghiệp mà cạnh tranh mang tính
toàn cầu, các Hãng buộc phải liên kết với nhau. Điều này cho phép họ nắm
lấy những cơ hội thuận lợi bằng cách kết hợp khả năng chiến lược của nhiều
Hãng. Sự hợp tác này làm tăng may mắn thành công của các dự án táo bạo
hơn và cho phép các công ty có thể chấp nhận mức rủi ro lớn hơn do đã tiết
kiệm được chi phí mà chắc chắn một công ty không thể gánh chịu một mình.
Sự phát triển số lượng Khu công nghệ cao trên thế giới tăng khá nhanh. Năm 1980
trên thế giới chỉ có 18 Khu công nghệ cao thì đến cuối thập kỷ 90 đã có trên 800

Khu công nghệ cao các loại:
Mỹ : Có khoảng 115 Làng khoa học
Anh: có 18 Làng khoa học
Đức : có 70 Trung tâm đổi mới công nghệ
Nhật : chương trình xây dựng 16 Thành phố khoa học
Nước đang phát triển như Trung Quốc, nước công nghiệp mới như Singapore
đều phát triển Khu công nghệ cao. Đặc biệt Thái Lan trong thời gian khủng hoảng
tài chính tiền tệ cuối năm 1997 nhưng đến đầu năm 1998 cũng đã quyết định xây
dựng Khu công nghệ cao và đặt mục tiêu hoàn thành sau 30 năm.
19
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
1.2.3. Tầm quan trọng của Công nghệ cao đối với các nước đang phát triển
Trong quá khứ, mục tiêu của chiến tranh là chiếm đoạt lãnh thổ, lao động và tài
sản, được thực hiện thông qua các hành động bạo lực. Ngày nay, trong cuộc cạnh
tranh kinh tế toàn cầu, mục tiêu là thông tin, trí tuệ và công nghệ. Vũ lực không còn
tác dụng nữa. Mặt khác, chính mục tiêu tự nó thay đổi rất nhanh chóng theo thời
gian. Các nước công nghiệp tiên tiến chính là chủ nhân của tri thức và công nghệ
cao, đồng thời cũng là những người đi đầu trong lĩnh vực này. Bởi vậy, con đường
chiến thắng cho mọi quốc gia chính là con đường học hỏi, tiếp thu kiến thức, làm
chủ khoa học và công nghệ để tiếp tục phát triển. Giáo dục và đào tạo là nhân tố
chủ yếu tạo thế cạnh tranh của các nước khi bước vào thế kỷ 21.
Bối cảnh thế giới tạo ra những lợi thế cho các nước phát triển sau:
- “Siêu xa lộ thông tin” mang lại cho mọi quốc gia cơ hội chia sẻ thông tin,
tri thức tích luỹ của toàn nhân loại, thu hẹp được khoảng cách địa lý giữa các
quốc gia cũng như giúp cho khả năng nắm bắt mọi thông tin một cách nhanh
nhất.
- Chu kỳ công nghệ ngày càng rút ngắn dẫn đến nhu cầu đổi mới liên tục của
các nước phát triển nhằm giữ được vị trí hàng đầu trong công nghệ. Bên
cạnh đó, các nước phát triển phải tìm mọi cách để thu hồi nhanh vốn đã đầu
tư cho công nghệ và chuyển giao công nghệ. Do đó xu hướng chuyển giao,

liên kết và uỷ quyền về công nghệ là không tránh khỏi.
- Nền “kinh tế tri thức” cho phép các nước đang phát triển đột phá thẳng vào
công nghệ cao mà không đòi hỏi đầu tư quá lớn.
- Trong nền văn minh trí tuệ, các nước có thể đi tắt, đón đầu, xâm nhập thẳng
vào các công nghệ tiên tiến, từ đó tăng về chất quá trình tích luỹ nhằm phát
triển nền kinh tế của mình, sớm hoà nhập với thế giới hiện đại.
- Bằng vai trò đầu kéo nền kinh tế toàn cầu, các nước đang phát triển có thể
dùng thị trường nội địa của mình làm đòn bẩy kích thích mạnh mẽ quá trình
20
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
chuyển giao công nghệ và đồng thời tăng tiềm lực kinh tế quốc gia. Dự đoán
đến năm 2020, các nước đang phát triển sẽ chiếm hai phần ba tổng giá trị
nhập khẩu của toàn thế giới.
- Vai trò địa lý nâng cao là nhân tố thúc đẩy sự liên kết khu vực và sự hình
thành các “cực” kinh tế. Các nước tiên tiến trong khu vực, với mong muốn
hợp tác trên cơ sở lợi Ých chung của khu vực và lợi Ých quốc gia cũng tạo
những cơ hội không nhỏ cho các nước đang phát triển.
Thời gian phát triển để đạt mức độ một nước công nghiệp hoá của các nước đi sau
sẽ rút ngắn đi. Nếu như Anh, Pháp phải mất 300 năm để hoàn thành công nghiệp
hoá, Mỹ mất 100 năm, Liên Xô (cũ) phải mất 50 năm, thì nay các nước công
nghiệp mới chỉ (NICs) cần 30 năm. Và trong tương lai, thời gian này có thể rút
ngắn chi còn 20-25 năm.
Số năm để tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính theo đầu người của một nước có thể
tăng gấp đôi cũng ngày càng được rút ngắn đi. Trong thể kỷ trước, nước Anh cần
58 năm để GDP/đầu người tăng gấp đôi, Mỹ sau 47 năm; trong đầu thế kỷ 20, nước
Nhật làm được việc đó trong 39 năm, sau đó là Braxin trong 18 năm, Hàn quốc
trong 11 năm, và Trung quốc chỉ trong 10 năm. Liệu Việt Nam có đạt được như
Trung quốc hay không? Và có khả năng làm được việc đó nhanh hơn nữa hay
không? Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó yếu tố phát triển khoa học
công nghệ, công nghệ cao và các chính sách khuyến khích phát triển công nghệ cao

ở Việt Nam là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của mục đích.
21
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
chương 2
Thực trạng khoa học - công nghệ việt nam
và khu công nghệ cao việt nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp đã trải qua một thời gian dài bị tàn phá bởi
chiến tranh nên cơ sở hạ tầng còn rất lạc hậu. Từ sau khi nước nhà hoàn toàn độc
lập năm 1975, mục tiêu "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là nội dung thống nhất
gắn bó với nhau trong quá trình phát triển của đất nước Việt Nam. Do đó, nhiệm vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá không đơn thuần chỉ phát triển công nghiệp mà sự
chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực mà toàn bộ nền kinh tế theo
hướng Công nghệ tiên tiến, không chỉ đi những bước tuần tự mà còn kế hợp với các
thành tựu trên nhiều lĩnh vực để đi tắt đón đầu, nhanh chóng rát ngắn khoảng cách
và đuổi kịp các nước phát triển. Muốn vậy phải đầu tư chiều sâu, thúc đẩy phát
triển công nghệ cao và xây dựng Khu công nghệ cao làm địa điểm tiếp cận công
nghệ cao hiệu quả nhất, đảm bảo cho nền kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh và
phát triển bền vững.
Để mục tiêu đề ra thu được kết quả tốt đẹp, vấn đề đặt ra là cần phải xây dựng được
một cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ tốt, trình độ công nghệ tiên tiến và lực lượng
nghiên cứu khoa học công nghệ được đào tạo ở trình độ cao. Vậy chúng ta hãy tìm
hiểu về thực trạng nền khoa học công nghệ Việt Nam hiện nay và Khu công nghệ
cao đầu tiên đang được tiến hành xây dựng ở Việt Nam đã đạt được ở mức độ nào.
2.1.hiện trạng khoa học - công nghệ việt nam
2.1.1. thực trạng nền kinh tế việt nam
Trong gần 2 thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã từng bước cải thiện môi trường pháp lý
để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng
từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 với mục tiêu hành động: “Tất cả vì
22
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam

dân giàu; nước mạnh; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Khung pháp lý hiện
hành đã góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế xã hội, đẩy nhanh quá trình hội
nhập của Việt Nam với thế giới bên ngoài, đáp ứng nhu cầu khu vực hoá và toàn
cầu hoá.
Qua 15 năm thực hiện chính sách đổi mới, chúng ta đã thu được những kết quả
đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng giữ được ở mức cao, các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, xuất khẩu đều tăng khá, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế, tạo đà bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ khi thực
hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm tới hơn 30%
tổng vốn đầu tư xã hội, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Năm 2001 là
năm mà nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, một phần do ảnh hưởng của các
yếu tố chính trị xã hội đem lại nhưng kinh tế Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định và
đạt mức tăng trưởng GDP là 7,3%, mức GDP bình quân đầu người đạt 300
USD/năm.
Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế nước ta đang đứng trước nhiều thánh thức to lớn.
Đó là sự giảm sút nhịp độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu, sức mua xã hội,
đầu tư nước ngoài và tình trạng kém an toàn của hệ thống tài chính tiền tệ. Một số
chính sách, cơ chế trước đây đã tạo được động lực mạnh mẽ cho sự phát triển thì
đến nay có thể không còn phù hợp hoặc không còn đủ sức góp phần nâng cao sức
cạnh tranh cho nền kinh tế trong bối cảnh mới.
Nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện cơ chế thị trường. Việc chuyển sang nền kinh
tế thị trường của các nước xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung như ở
Việt Nam đòi hỏi phải ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cơ chế quản lý, chính sách
hiện hành của nước ta vẫn chưa thực sự khuyến khích tiết kiệm, điều tiết tiêu dùng
hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển, các chính sách khuyến khích
đầu tư nước ngoài vẫn chưa thực sự hấp dẫn, chưa tạo được mặt bằng pháp lý và
môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; chính sách
thương mại và chính sách bảo hộ chưa có tác động nâng cao hiệu quả phát triển và
23
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam

sức cạnh tranh của nền kinh tế; việc sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như kế
hoạch, tài chính- tiền tệ, đặc biệt là chính sách thuế chưa hướng vào phát huy các
nguồn lực trong nước. Nước ta chưa có Khu mậu dich tù do, Cảng tự do, khu vực
dành riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài vào hợp tác và làm ăn với nhau. Các hình
thức hợp tác dịch vụ quốc tế như thông tin liên lạc, giao thông vận tải (nhất là bằng
đường hàng không), hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn
kinh tế, pháp luật tuy đã được chú ý phát triển trong thời gian qua, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại.
(*) Tốc độ và cơ cấu GDP (%)

Tốc độ
tăng Trong đó
Năm Tổng Trong đó Tổng Chia ra
Sè Nông, lâm nghiệp
- thuỷ sản
Công nghiệp
- Xây dựng
Dịch vô Sè Nông, lâm nghiệp
- thuỷ sản
Công nghiệp
- Xây dựng
Dịch vô
1995 9.54 4.80 13.60 9.83 100,00 27.18 28.76 44.06
1996 9.34 4.40 14.46 8.8 100,00 27.76 29.73 42.51
1997 8.15 4.33 12.62 7.14 100,00 25.77 32.08 42.15
1998 5.76 3.35 8.33 5.08 100,00 25.78 23.49 41.73
1999 4.77 5.23 7.68 2.25 100,00 25.43 34.49 40.08
2000 6.75 4.04 10.07 5.57 100,00 24.30 36.61 39.09
2001 6.84 2.75 10.36 6.13 100,00 23.30 37.75 38.95
Nhìn vào bảng trên, ta có thể nhận thấy nhờ có việc thực hiện chính sách mở cửa

nền kinh tế từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, trong những năm
gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt về cơ cấu. Các ngành
nông nghiệp không còn giữ được vị trí hàng đầu nữa mà thay vào đó là các ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh và khá ổn định, góp
phần không nhỏ vào sự tăng trưởng chung của đất nước. Điều đó chứng tỏ mục tiêu
Công nghiệp hoá đất nước mà Đảng và Nhà nước ta lựa chọn là đúng đắn và rất cần
thiết. Chính vì vậy, mục tiêu Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo hướng
phát triển Khoa học công nghệ tiên tiến và tiếp cận Khoa học công nghệ cao trong
những năm tiếp theo của thế kỷ 21 là cũng là mục tiêu tất yếu.
24
KLTN/CN8 ĐHNT: Định hướng phát triển và các chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các Khu Công nghệ cao ở Việt Nam
2.1.2. hiện trạng khoa học và công nghệ của việt nam.
1. Lực lượng Khoa học - công nghệ của Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Khoa học - công nghệ và Môi trường Việt Nam, nếu tính
theo tổng số nhân lực, tính đến cuối năm 2000 Việt Nam có tới 2 triệu người làm
công tác kỹ thuật, 1,3 triệu người có trình độ đại học và cao học, 130.000 người có
học vị tiến sĩ hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và tỷ lệ 190/10.000 người
dân là cán bộ khoa học công nghệ. Việt nam có khoảng 30.000 cán bộ tham gia vào
hoạt động nghiên cưú - triển khai (R&D), bao gồm cán bộ thư viện, kỹ thuật viên
và đội ngũ cán bộ khác. Trong số đó có khoảng 22.000 người đang làm việc tại các
Trung tâm nghiên cứu- triển khai quốc gia, các Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ và
các cơ quan Chính phủ. Phần còn lại hiện đang nghiên công tác tại các Trường Đại
học hoặc Cao đẳng có tham gia các hoạt động nghiên cứu. Chỉ có một phần nhỏ
cán bộ kỹ sư nghiên cứu trực tiếp tại các doanh nghiệp. Ngày nay, các kỹ sư phải
nhìn thấy vai trò của khoa học, phải làm việc cùng các cán bộ khoa học ở các
Trường đại học và các Viện nghiên cứu về những vấn đề cụ thể và bản thân mỗi kỹ
sư phải là một nhà nghiên cứu (*)
Việc xây dựng tổ chức nói chung cho Nghiên cứu - triển khai (R&D) có thể phân
thành 3 bộ phận chính:
- Các phòng thí nghiệm và các đơn vị R&D thuộc các Bộ của Chính phủ

hoặc dưới sự quản lý của các cơ quan Chính phủ: Khoảng 180 đơn vị có hoạt
động R&D được xây dựng ở nhiều miền khác nhau trên phạm vị toàn quốc,
nhưng phần lớn tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá của Việt Nam trước đây, nguyên tắc là
Chính phủ chịu trách nhiệm về thay đổi kỹ thuật và hiện đại hoá công
nghiệp, còn các ngành công nghiệp chỉ thực hiện sản xuất theo đúng kế
hoạch đã đề ra. Vì vậy, các doanh nghiệp công nghiệp rất hiếm khi xây dùng
cho mình năng lực R&D. Đến nay, sau nhiều năm thực hiện đổi mới và mở
cửa nhưng tình trạng yếu kém về năng lực khoa học của các doanh nghiệp
25

×