Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.43 KB, 37 trang )

TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã trình bày một cách tổng quát. Chủ nghĩa
xã hội là gì?
Người trả lời: chủ nghĩa xã hội là xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng và tinh
thần ngày càng tốt. Nói một cách cụ thể là: chủ nghĩa xã hội là phải làm cho mọi người
dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển
tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà
đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin
theo lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho con người và vì con người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm
lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến
nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những con người lao động trên thế giới hiểu
nhau và yêu thương nhau”.
2. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác - Lênin,
trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân
đạo, nhân văn, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm của Mác và
Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong xã hội Việt Nam có
quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế.


b. Bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội
Theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
có quan niệm như sau:
- Tổng quát: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội bao gồm các mặt rất phong phú,
hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện.
- Trên một số mặt nào đó: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng không tuyệt đối hóa
từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt mà cần đặt trong một tổng thể chung.
- Xác định mục tiêu: vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân.
- Xác định động lực: động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau:
- Đó là một chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
- Không còn người bóc lột người.
- Xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
Các đặc trưng trên thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa
được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện
thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử của nhân loại.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Mục tiêu
- Mục tiêu chung: Độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Chính trị: chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Nhà nước có hai chức năng; dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của
nhân dân.
+ Kinh tế: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa
học - kỹ thuật tiên tiến, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh đó cần phát triển toàn diện các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, trong đó “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà.

+ Văn hóa - xã hội: văn hóa là mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phương
châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Vì thế, Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người.
b. Động lực
- Hồ Chí Minh xem xét động lực ở cả các phương diện: vật chất và tinh thần, nội sinh và
ngoại sinh. Động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động
mà nòng cốt là công - nông - trí thức.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải
phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi
dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
- Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh
thần không thể thiếu.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, cần phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân.
Cùng với việc chỉ ra các nguồn lực phát triển, Hồ Chí Minh còn lưu ý, cảnh báo và ngăn
ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội như: tham ô,
lãng phí, quan liêu…
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định, nội lực là quyết định, ngoại lực là rất
quan trọng.
I. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH
Đây là một hệ thống bao gồm các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của Chủ
nghĩa xã hội; về tính tất yếu của thời ký quá độ và các hình thức,
bước đi trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tất nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh của miền Bắc trong những năm 60 của thế kỷ XX
nên có nhiều điều Người chưa kịp tổng kết.
Ngày nay, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều
thay đổi, nhưng những luận điểm của Người về vấn đề này vẫn là cơ sở lý luận và

phương pháp luận chỉ đạo để chúgn ta tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi làm sống động tư tưởng
của Người.
Khái quát về công cuộc đổi mới từ đại hội VI (1986) đến đại hội IX với những thành tựu
của nó để khẳng định đường lối do Đảng và Hồ Chí Minh vạch ra là đúng đắn.
Vấn đề thời cơ và nguy cơ. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới tiến lên cùng những thành tựu mới, Đảng ta đang kiên trì vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề dưới đây:
1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng Chủ Nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phân tích các ý sau:
- Đây là MT bất biến của Đảng và nhân dân ta.
- Mối quan hệ giữa MT độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mới ngày nay với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh…” cũng là để hoàn
thành mục tiêu của Đảng và nhân dân ta trong hoàn cảnh mới.
Tác động sau khi Chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu sụp đổ – bài học.
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội gián tiếp… là sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực, là
một sự nghiệp khó khăn, phức tạp.
2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn nội sinh, để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông
nghiệp lạc hậu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn đi lên Tư bản chủ nghĩa.
Chúng ta phải tranh thủ những thành tựu của cuộc Cách Mạng khoa học và công nghệ…
để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại.
Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, chúng ta cần phát huy tất cả các nguôn lực
bên trong và bên ngoài, lấy nguồn lực bên trong làm gốc để phát huy nguồn lực bên
ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là
công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.
Nguồn nội lực con người là to lớn (trên 80 triệu dân với sức lực, trí tuệ, tài năng…), làm

thế nào để khơi dậy mạnh mẽ nguồn nội lực đó?
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của người dân,
tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muón thế phải nâng cao dân trí, bồi
dướng văn hoá chính trị, trau dồi bản lĩnh công dân, cung cấp thông tin đúng đắn cho
người dân, phải thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo cho
người dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của Nhà nước. Đồng thời phải thực
hiện nhất quán chiến lược Đ ĐK của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công – nông -
trí thức làm nòng cốt, tranh thủ sự đóng góp ủng hộ của tất cả những ai tán thành đổi mới
vì mục tiêu “dân giau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đaị:
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… phải khai thác và sử dụng tốt
nguồn lực bên ngoài: vốn, kinh nghiệm quản lý, và công nghệ hiện đại (phân tích)
Hợp tác bên ngoài đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc
lập dân tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lưc, vật lực, tài lực để tăng cường sức
mạnh quốc gia.
Giao lưu, hội nhập đồng thời phải không ngừng trau đồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá dân
tộc, đặc biệt cho
Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại, đồng thời có sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố văn hoá độc
hại từ bên ngoài tràn vào.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
- Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cán bộ, đảng
viên phải thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, thực sự là người “đầy tớ trung thành
của nhân dân”
- Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn.
Bài học thực tiễn đã nhắc nhỡ chúng ta phải không ngừng xây dựng Đảng và Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; kiên quyết loại trừ nhừng phần tử thoái hóa, biến chất làm cho
đội ngũ cán bộ ngày càng vững mạnh.
- Phải thường xuyên chăm lo mối quan hệ gắn bó, máu thịt giữa Đảng và Nhà nước với

nhân dân.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Trong 15 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, song sự nghiệp xây dựng bảo vệ
đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ
động đón lấy
và vượt qua. Trong lúc này, cần nắm chắc, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp đổi mới
vững bước tiến lên.
1) Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực
mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước:
Hội nghị lần thứ tư (Khóa VIII) BCHTW Đảng đặt vấn đề phải xác định rõ các nguồn
lực và phát huy tối đa các nội lực, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất là nguồn lực
con người với sức mạnh vật chất và tinh thần.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng, có ý chí kiên
cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận hèn…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước của dân tộc, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ
nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên Phủ và đại
thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống quý báu ấy cần tiếp
tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua
mọi nguy cơ thử thách, vững bước tiến lên.

2) Quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
quan điểm giai cấp.
- Luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền lãnh đạo của
Đảng tiên phong của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đòan kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh công
– nông – trí, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực của quần
chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
- Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
3) Chăm lo xây dựng khối đoàn kết dân tộc giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân
tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn
kết các dân tộc đa số và thiểu số, khơi dậy và phát huy được tiềm năng cách mạng của
toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước.
- Trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ
Chí Minh, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, lấy mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời
chấp nhận những quan điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc… (NQ
07/1993)
- Phải chăm lo và giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam, Đại hội IX nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đại đoàn kết các dân tộc anh em
trên lãnh thổ Việt Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. (Văn kiện ĐH IX tr.127) (xem GTQG tr.86).
- Trong việc đền ơn, đáp nghĩa cho đồng bào miền núi, giúp miền núi nhanh chóng tiến
kịp miền xuôi, Người dạy: “Các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dân tộc, thực
hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc”.
- Sau 15 năm đổi mới, đời sống của nhân dân miền núi đã có những chuyển biến rõ nét.
Tuy nhiên không phải không có những cơ sở cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng.
- Để loại trừ nguyên nhân có thể dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân tộc,
có thể bị kẻ thù lợi dụng, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà ĐH IX của
Đảng đã đề ra cho miền núi, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội, phát triển sản xuất hàng hóa, xóa đói, giảm nghèo; gìn giữ và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc; đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách
mạng và kháng chiến, thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
dân tộc thiểu số, chống kỳ thị chia rẽ dân tộc.
III.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH VỮNG
MẠNH
a) Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức cảu người cầm quyền.
Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”, đồng
thời kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí.
Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc
trên mặt trận. Người nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân phong kiến, Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc
khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính … tội
lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”. Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai
cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ
“đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết “ chúng ta bị
khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên quan liêu. Nếu
có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.
Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là
bệnh quan liêu. Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến
cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi
quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét mọi mặt, không vào
sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến
nơi, đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế
độ mà không giữ đúng, có kỹ luật mà không nắm vững… Thế là bện quan liêu đã ấp ủ,
dung túng, che chở nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì
trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên
quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân

gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
b) Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo
đức cách mạng
- Theo Hồ Chí Minh. Do tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay một nhà
nước pháp quyền là chưa thể được. Xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn mạnh vai
trò của luật pháp, ban hành luật pháp, phải khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp
luật, và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Nhưng không thể đề
cao vai trò một chiều của pháp luật mà bỏ qua sự hổ trợ của các yếu tố khác, nhất là giáo
dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội có thể kết hợp, bổ sung
cho nhau trong thực tế quản lý xã hội, điều hành đất nước.
Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo
dục đạo đức, nhưng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành
pháp luật nghiêm minh.
3. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của thế hệ
trẻ
Đó là quá trình dài kêu gọi tuổi trẻ cả nước phát huy những kết quả đạt được, không
ngừng học tập và làm theo những lời dạy của Bác, nỗ lực trong học tập, lao động, rèn
luyện, quyết tâm hành động góp phần thực hiện thắng lợi những đường lối chủ trương
của Đảng và nhà nước
Học tập và làm theo lời Bác là một lòng, một dạ với Đảng, với đất nước, với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không ngừng sang tạo và tự hoàn thiện bản
thân cho xứng đáng là lực lượng “nòng cốt’ của đất nước
Học tập và làm theo lời Bác là nỗ lực vươn lên, tự lực tự cường, lao động, cống
hiến không ngừng cho vận mệnh của nước nhà
Học tập và làm theo lời Bác là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội . Luôn giữ
trong mình lòng nhiệt huyết với ngọn lửa “đỏ” và trái tim “hồng” của người Việt Nam,
lòng tự hào và tự tôn dân tộc luôn rực cháy trong nguồn sức mạnh từ ý chí của những
người thanh niên.
Học tập và làm theo lời Bác là luôn xung kích trong các phong trào thanh niên;

gương mẫu, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Tấm gương đạo đức cao cả, cuộc đời bình dị trong sáng, tư tưởng vĩ đại, những lời dạt
sâu sắc và tình thương yêu của Bác sẽ mãi là ngọn lửa thiêng soi đường cho tuổi trẻ Việt
Nam tiến bước.Vì thế học tập và làm theo lời Bác là lẽ sống đẹp của tuổi trẻ Việt Nam.
IV.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XD CON NGƯỜI MỚI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- Con người được xem xét như chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động
của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ,
mặc dù “có thế này, thế khác”.
Hồ Chí Minh đề cập đến con người trong tính đa dạng: đa dạng trong quan hệ xã hội
(quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào ); đa dạng trong tính cách, khát
vọng, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhưng đều hợp
lại nơi bàn tay; mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều
cùng là nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm
việc
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác,
hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ Bao gồm tính người - mặt xã hội và tính bản năng -
mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh con người có tốt, có xấu, nhưng “dù là
xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.
b. Con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số trường hợp (“phẩm
giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai” ) nhưng đặt trong
một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem xét con người trong
các mối quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trong khối thống nhất
của cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
c. Bản chất con người mang tính xã hội
- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất, con
người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình
và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan hệ giữa người với người.

- Con người là sản phẩm của xã hội, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp
đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loài người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới này
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì đều
do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người cho rằng “việc dễ
mấy không có dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người
sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, dân ta là tài năng và trí tuệ, sáng tạo, họ biết
“giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với
tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên
quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta
nhất định thắng lợi. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu
nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc,
phát huy nhân tố con người
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng.
- Mục tiêu của cách mạng: là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt,
lợi ích cả dân tộc, lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và các nhân. Với hoạt động thực
tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân - dù
nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
Con người là động lực của cách mạng.
- Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới lấy công

- nông - trí làm nền tảng.
- Không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác
ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên
nền truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần
là động lực cơ bản trong động lực con người.
- Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo.
Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người -
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực
thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là
chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền
thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm,
không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người
nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm
mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến
nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả
những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố
con người; tất cả vì con người, do con người.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
- Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
- Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội

chủ nghĩa”.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt
chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là,
hình thành những phẩm chất mới: như có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội
chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân
ái, vị tha, độ lượng.
c. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội
- Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào
tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại tương lai
tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
- Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo
đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt
đức, tài thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải
kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm có như vậy mới có thể “Học
để làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều” không
phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó. Nhận thức và
giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “việc học không bao giờ
cùng, còn sống còn phải học”.
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì
Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn vì
những sự đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân
loại
- Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn
hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
- Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng
đạo đức macxit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi

được thế giới thừa nhận.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng:
Về lý luận: có nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp
GD, ĐT con người Việt Nam. Trên cơ sở quan triệt quan điểm GD đạo lý để làm người,
coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu
cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng XHCN. Đảng ta xác định GD và ĐT là quốc sách hàng đầu.
Về thực tiễn: sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của
chế độ ta.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị
của các dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội
nhập quốc tế.
V.SINH VIÊN HỌC TÂP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HCM
1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân:
- Đạo đức, hiểu tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc, những
quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công
bằng được xã hội thừa nhận. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con
người.
- Hồ Chí Minh quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên từ rất sớm, vì
thanh niên là “người chủ tương lai của nước nhà”- Sdd, t 5, tr 185.
-Thực hành đạo đức trong đời sống hàng ngày không chỉ có tác dụng tôn vinh,
nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử
thách . - Trong xã hội, mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm
việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao
thượng.

- Kiên trì, tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh:
- Sinh viên phải có “6 cái yêu”: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu
lao động, yêu khoa học và kỷ luật
- Sinh viên phải:
+ Rèn luyện cho mình những đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà, chính trực.
+ Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình.
+ Trong học tập, phải kết hợp lý luận và thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi
biểu hiện của chủ nghĩa các nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi, chống lười biếng,
coi khinh lao động, kiêu ngạo, giả dối, khoa khoang…Phải trả lời được câu hỏi: học để
làm gì? Học để phục vụ cho ai?
+ Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?
2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
+ Phần lớn sinh viên, thanh niên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch,
lành mạnh, khiêm tốn, cần cù và sáng tạo, có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng
động nhạy bén, dám chịu trách nhiệm; gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc,
phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Do tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận sinh viên
phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập
nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ
với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập hút xách, thiếu trung thực, gian lận trong thi
cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… Đây là những biểu hiện không
thể coi thường.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con

người.
+ Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt
qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
VI.TÍNH NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HCM
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản
bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà nó vốn có, trước hết là
quyền được sống theo nghĩa “người ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu
hạnh phúc”.
-Đất nước Việt Nam - cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam được
gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương Tây xa xôi tới “khai
hoá”! Đã là con người thì ai cũng có quyền làm người, quyền tự do, quyền sống bình
đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để họ làm chủđất nước mình, tự mình
xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân bản
cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh. Trên cơ sởđó, Người kêu
gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là Con Người chân chính.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ
những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng,
Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa
học, trở thành học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa
của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.
-Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự nguyện đứng vào
hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi sinh cho lý tưởng nhân văn cộng
sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đãtrở thành một trong những chiến sĩđi tiên phong trong
cuộc đấu tranh lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chếđộ xã hội mới trên phạm vi toàn thế
giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng dân tộc, từng quốc gia
khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ
giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.
- Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lấy nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ thể của con người: xoá bỏ xã hội

cũ thối nát và phản nhân đạo để xây dựng một xã hội mới màởđó, người với người
làđồng chí, bạn bè, anh em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng.
Chính vì vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau, Người đã
chọn Quốc tế III, vì nóđề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của Người là chống phong kiến,
đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa - vấn
đề bức xúc nhất, bản chất nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.
-Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không phải là nhiệm vụ cuối
cùng, mà là khâu đột pháđể tiến tới giải quyết vấn đề cách mạng thế giới. Giải phóng
từng dân tộc làđiều kiện cho việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai
cấp vô sản làđểđi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần đoàn kết giữa các dân
tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là
tiền đềđể thực hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản
chất người với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực sáng tạo cũng như
khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính mình sáng tạo ra.
-Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh có một thái độ hết
sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết, hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng
biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất
cả tinh hoa trí tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích
cuối cùng làđem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những tinh hoa của tất cả
các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung,
Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo
Phật, đến ước mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo Thiên chúa.
Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng Tử, Thích ca Mâu ni, Tôn Dật
Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm thấy ở học thuyết Mac-Lênin nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu điểm là
mưu cầu hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự nóđã thể hiện một tinh
thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì cuộc sống tốt đẹp của con người, vì hạnh
phúc và tiến bộ của nhân gian.

- Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc ở khát vọng và
tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt lõi của thế giới quan duy vật,
phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh
chuyển hoá thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh , rồi nó lại được
thăng hoa, biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện giữa
chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng, tinh
thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của
mình là biến tình thương người , tình yêu cuộc sống thành hành động.
Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân loại thì cũng sâu
nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam. Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng
sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở
thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà , Người không màng danh lợi cá
nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự
phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng
Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân
dân. Tư tưởng đóđược kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉđối với nhân dân
Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
-Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam là “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân
tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là
“làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập, tự
do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ
chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của Người. Bởi vìđó làđiều kiện tiên
quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
- Lý tưởng nhân văn đó được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam
là xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa
Mac- Lênin, với niềm tin sắt đá vào tương lai vàý chí quyết tâm của người cộng sản,
Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lam nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, trở thành ngọn cờ hướng dẫn
nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 chấn động địa cầu vàđại

thắnng mùa xuân 1975 thần thánh.
-Đất nước giành được độc lập, dân tộc giành được tự do,nhiệm vụ trọng tâm của dân tộc
Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là lô-gích tất yếu của lý thuyết phát triển theo
hướng nhân văn, vì chủ nghĩa xã hội là xã hội phù hợp nhất với bản chất con người, là xã
hội tốt đẹp nhất mà loài người hằng vươn tới. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Người lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là thứ chủ nghĩa xã hội cực đoan, hẹp hòi,
vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái nào. Mục tiêu và phương thức tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không
phải là một cái gìđó mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên
thế giới quan niệm. Đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể gắn liền với dặc điểm lịch
sử, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà người lãnh đạo ở Việt
Nam là một xã hội mới công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.
-Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách
mạng giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của dân tộc, của xã hội, cụ thể là giải phóng
và phát triển con người. Người luôn quan niệm rằng: “ Nếu nước độc lập mà người dân
không hưởng hạnh phúc tự do thìđộc lập cũng chẳng cóý nghĩa gì”. Chính tấm lòng nhân
hậu Hồ Chí Minh đãđúc kết nên tư tưởng nhân văn của Người: con người không chỉđược
giải phóng về mặt xă hội, mà chủ yếu và cuối cùng là giải phóng và phát triển toàn bộ
bản chất và bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa, lớn lao trong tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh là, tất cảđều vì sự phát triển con người Việt Nam: xoá bỏ tha hoá, trả lại
cho con người phẩm chất Người, giải phóng toàn bộ tiềm năng, thể chất, trí tuệ, tài năng
sáng tạo của con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện - hài hoà
vềđức - trí - thể - mỹ . Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh, thiếu
niên. Vì thanh niên là:” người chủ tương lai của nước nhà”,”nước nhà thịnh hay suy, yếu
hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người yêu cầu Chính phủ phải chúýđặc
biệt tới việc giáo dục thanh, thiếu niên về thể dục, đức dục và trí dục.
Một điểm đáng được lưu ý là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại,
đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong
chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện

chứng, Hồ Chí Minh đã thấy trước thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người
luôn nghĩ tới vàđặt kế hoạch cho sự phát triển tương lai của đất nước. Người có kế hoạch
đào tạo nhân tài cho đất nước, kể cảđào tạo ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh đời sống vật
chất còn rất nhiều khó khăn, Người vẫn quan tâm xây dựng đời sống văn hoá, phát triển
khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh
thần của nhân dân. Theo Người, giá trị thiêng liêng nhất, cao quý nhất và trường tồn nhất
của con người chính là giá trị tinh thần. Càng lùi xa chiến tranh, lùi xa đời sống vật chất
khó khăn, thiếu thốn của quá khứ, chúng ta càng thấy tư tưởng đó của Người làđúng đắn
và sẽ mãi giữ nguyên giá trị
VII.TƯ TƯỞNG HCM ĐỐI VỚI SỰ PT CỦA THẾ GIỚI
a. Phản ánh khát vọng thời đại:
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp
công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Bởi lẽ, Người có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường cách mạng vô
sản.
-Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và các vấn đề về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các
dân tộc… có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề
quốc tế ngày nay.
b. Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người:
Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là việc xác định con đường cách
mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc. Các
dân tộc thuộc địa cần phải đoàn kết, liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
-Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặc điểm
của thời đại, đặt cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô
sản: xác định giai cấp lãnh đạo, phương pháp cách mạng và hướng phát triển của phong
trào giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa ở một
nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần

chúng nhân dân rộng rãi, trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân
yêu nước trong Mặt trân thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách
mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất
định thắng lợi”.
c. Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
-Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là nguồn cổ vũ đối với tất cả các dân tộc thuộc địa châu Á, châu Phi đứng dậy đấu tranh
giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, đấu tranh cho độc lập tự do.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đường cho các dân tộc đi tới thực hiện ước mơ cao đẹp của
con người.
VII.QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
VẤN ĐỀ GIAI CẤP
* Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc. Sự kết hợp vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện:
- Khẳn định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam;
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng;
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng
của kẻ thù;
- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân;
- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
* Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội
- Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa

phong kiến hoặc tư bản, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.
* Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn
đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng
lợi ích dân tộc.
* Giữ vững độc lập dân tộc cho dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của dân
tộc khác
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng
Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới. Người đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là giúp mình” và chủ
trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung
của cách mạng thế giới.
VIII.QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ MỤC TIÊU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA CNXH Ở VN
* Mục tiêu
-Mục tiêu chung:
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của CNXH và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó
là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Về chính trị: phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dâ, do dân, và vì
dân.

+ Về kinh tế: Đó là nền kinh tế XHCN với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ
thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của
nhân dân ngày càng được cải thiện.
+ Về văn hóa – xã hội: Theo Người, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng
XHCN. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt của nhân dân, đó là xóa nạn mù chữ, xây
dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng, phát triển văn hóa nghệ thuật, thực
hiện nếp sống mới…
+ Về bản chất của nền văn hóa XHCN Việt Nam, Người khẳng định: “Phải XHCN về
nội dung”. Để có một nền văn hóa như thế, ta phải phát huy vốn quý báu của dân tộc,

×