Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số biện pháp hoàn thiện công tác quản lý nguồn vốn tại chi nhánh Nam Hà Nội - ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.16 KB, 78 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU:
Bất cứ một kế hoạch sản xuất kinh doanh nào để có thể thực hiện được
thì yếu tố đầu tiên, quan trọng là vốn. Điều đó có nghĩa là với người có vốn thì
việc sản xuất kinh doanh có thể thực hiện được, nhưng có thể xảy ra trường
hợp người có ý tưởng kinh doanh nhưng không có vốn hoặc số vốn có không
đủ thì cũng không thể tiến hành kế hoạch kinh doanh được, ngược lại một số
người có tiền nhưng không có ý định kinh doanh. Ngân hàng ra đời chính là
cầu nối giữa người cần vốn và người có vốn nhưng chưa sử dụng đến, đó là
một điều thật tuyệt vời làm cho nguồn vốn trong nền kinh tế được toàn dụng,
làm cho sự phát triển không bị gián đoạn vì không có vốn. Chức năng huy
động vốn và cho vay của ngân hàng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh
trến lĩnh vực tiền tệ, vì vậy mà yếu tố nguồn vốn là yếu tố cạnh tranh giữa các
ngân hàng thương mại. Cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt khi mà trên
thị trường có rất nhiều tổ chức cùng huy động vốn, khi mà trong giai đoạn gần
đây hàng loạt các ngân hàng thương mại cổ phần ra đời làm thị phần của các
ngân hàng hiện tại bị chia nhỏ. Chính vì vậy đòi hỏi mỗi ngân hàng phải xây
dựng và tiến hành thực hiện công tác quản lý nguồn vốn sao cho hoạt động huy
động và cho vay luôn nhịp nhàng ăn khớp với nhau, tạo được lòng tin, uy tín
đối với khách hàng, đồng thời thu được lợi nhuận cao nhất.
Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để các ngân hàng thương mại có thể
quản lý nguồn vốn có được từ nền kinh tế ?
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý nguồn vốn cũng
như khó khăn công tác quản lý vốn tại các ngân hàng, em chọn đề tài: “Một
số biện pháp hoàn thiện công tác quản lý nguồn vốn tại chi nhánh Nam
Hà Nội - ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn”
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bài viết của em gồm 3 phần chính:


Chương I: Lý luận chung về quản lý nguồn vốn tại ngân hàng thương
mại.
Chương II: Thực trạng quản lý nguồn vốn tại chi nhánh Nam Hà Nội -
ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn.
Chương III: Một số biện pháp hoàn thiện công tác quản lý nguồn vốn
tại chi nhánh Nam Hà Nội - ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn.
Kết luận
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chuyên đề của em chắc chắn vẫn còn
nhiều thiếu sót. Em rất mong các thầy cô giáo nhiệt tình chỉ bảo, sửa chữa
giúp chuyên đề của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn giảng viên
PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà đã hướng dẫn cùng sự giúp đỡ, quan tâm của Ban
lãnh đạo và cán bộ phòng Nguồn vốn kế hoạch tổng hợp của chi nhánh Nam
Hà Nội - ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn đã giúp em hoàn
thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNGI: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ VỐN TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. QUẢN LÝ NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.1. Khái niệm nguồn vốn
Nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại được định nghĩa là toàn bộ tài
sản bên nợ trong Bảng cân đối Kế toán của Ngân hàng.
Bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi vay, trong đó nguồn
vốn đi vay là chính và quan trọng vì đây là nguồn tạo ra lợi nhuận.
Quy mô và kết cấu của nguồn tuỳ thuộc vào cách thức, mục tiêu huy
động vốn của mỗi Ngân hàng. Thông qua kết cấu nguồn vốn của mỗi Ngân
hàng người ta có thể đánh giá được sự hoạt động cũng như khả năng quản trị
Ngân hàng của ban lãnh đạo.
1.2. Vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động của ngân hàng thương

mại:
Trước hết, Nguồn vốn là tiền đề cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động
của Ngân hàng. Bất kì một ngân hàng nào muốn tiến hành các hoạt động cho
vay hay cung cấp các dịch vụ đều phải có một số vốn đủ lớn đảm bảo. Số vốn
đó giúp ngân hàng ban đầu tiến hành nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách
hàng, thực hiện hoạt động tín dụng và mở rộng việc cung cấp các dịch vụ
khác như : bảo lãnh, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền, thanh toán hộ… Trong
quá trình hoạt động, nguồn vốn của ngân hàng không ngừng tăng lên, lớn hơn
rất nhiều lần so với số vốn tự có của ngân hàng nhờ hoạt động huy động vốn
được thực hiện song song với các hoạt động trên . Nguồn vốn của ngân hàng
được huy động: từ dân cư, từ các doanh nghiệp, các tổ chức hay trên thị
trường vốn. Quy mô vốn của một ngân hàng càng lớn thì sức mạnh và uy tín
của nó trên thị trường tài chính càng được khẳng định, đó là điều kiện thuận
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lợi cho ngân hàng phát triển. Tóm lại, nguồn vốn đóng vai trò quan trọng,
nòng cốt trong hoạt động kinh doanh của tất cả các ngân hàng.
1.3. Các nguồn hình thành nên nguồn vốn trong NHTM
1.3.1. Vốn chủ sở hữu.
Đây là loại vốn ngân hàng tự có của ngân hàng, do đó nó được sử dụng
lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, cơ sỏ vật chất, trụ sở hoạt động của ngân
hàng. Nguồn vốn này được coi là nệm chống rủi ro, bảo đảm an toàn cho sự
hoạt động của tất cả các ngân hàng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác.
Vốn chủ sở hữu bao gồm các thành phần sau:
Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Nguồn vốn ban đầu hay Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình
thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Ví dụ ngân hàng thương
mại nhà nước thì 100% vốn do nhà nước cấp, ngân hàng thương mại cổ phần
thì vốn ban đầu do cả cổng đông đóng góp (vốn điều lệ)…

Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Để bổ xung vốn sở hữu, các ngân hàng thường lấy từ các nguồn sau:
- Nguồn từ lợi nhuận: Khi ngân hàng hoạt động có lợi nhuận thì một
phần thu nhập sẽ được chuyển thành vốn đầu tư, làm gia tăng vốn chủ sở hữu.
- Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp
thêm… để mở rộng quy mô hoạt động của Ngân hàng hoặc đáp ứng yêu cầu
gia tăng vốn chủ sở hữu do NHNN quy định. Tuy nhiên, không phải lúc nào
ngân hàng cũng có thể có được nguồn này. Đối với các NHTM nhà nước, việc
được cấp thêm vốn tuỳ thuộc vào chính sách mỗi năm của nhà nước. Còn đối
với các NHTM cổ phần, việc tăng thêm vốn điều lệ phụ thuộc vào sự cân
nhắc của hội đồng quản trị ngân hàng.
Các quỹ.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các quỹ này đều được hình thành từ thu nhập của ngân hàng nhằm hỗ
trợ các hoạt động khác nhau của ngân hàng. Như: Quỹ dự phòng tổn thất:
được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất đã
và sẽ xảy ra; Quỹ bảo toàn vốn : nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động
của lạm phát. Ngoài ra, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng,…
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Ngân hàng thường có các khoản vay trung và dài hạn, các khoản này có
thể được chuyển đổi thành vốn cổ phần là nguồn vốn bổ sung vốn chủ sở hữu
của ngân hàng.
1.3.2. Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi.
Tiền gửi là nguồn vốn huy động từ bên ngoài đầu tiên và quan trọng
nhất đối với mỗi NHTM. Trong cơ cấu vốn của tất cả các ngân hàng, tiền gửi
luôn chiếm tỷ trọng lớn và có ảnh hưởng nhiều nhất tới các hoạt động của
ngân hàng. Vì thế để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có

được nguồn tiền gửi chất lượng ngày càng cao thì các ngân hàng đã đa dạng
hoá hình thức huy động tiền gửi.
Tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi không kì hạn với mục đích là thanh toán
khi cần. Thông thường, chủ các tài khoản tiền gửi không kì hạn thường yêu
cầu ngân hàng thanh toán hộ mình cho các đối tác qua tài khoản mà không
cần phải đến ngân hàng rút tiền nữa. Ngày nay tài khoản tiền gửi thanh toán
còn đảm nhiệm rất nhiều chức năng hữu ích đối với người dùng. Mạng lưới
ngân hàng càng mở rộng và phát triển thì càng tạo nhiều thuận lợi cho những
người sở hữu các tài khoản tiền gửi thanh toán. Các ngân hàng thường trả lãi
suất cho các khoản tiền gửi thanh toán, dù lãi suất rất thấp. Điều đó càng làm hấp
dẫn khách hàng vì sự tiện lợi muốn rút tiền lúc nào cũng được, mặt khác nếu họ
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chưa có nhu cầu sử dụng khoản tiền trong tài khoản trong một khoảng thời gian
thì tiền của họ vẫn đảm bảo khả năng sinh lời.
Tiền gửi thanh toán cũng là khoản vốn có chi phí (lãi suất) thấp nhất
trong các loại tiền gửi. Các ngân hàng ngày càng tạo ra rất nhiều sản phẩm
cũng như tiện ích sử dụng, hấp dẫn khách hàng gửi tiền thanh toán.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn có một
lượng tiền tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các kì hạn
khác nhau để hưởng lãi nhằm tạo thêm thu nhập cho mình. Tuy nhiên, lượng
tiền gửi có kì hạn của các tổ chức chiếm một lượng rất nhỏ so với lượng tiền
gửi không kì hạn, và lượng tiền này phụ thuộc vào chu kỳ hoạt động kinh
doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng
đến, họ tích luỹ lại để tiêu dùng trong tương lai. Một trong những cách để

người dân có thể giữ tiền của mình là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Ngân
hàng đảm bảo an toàn cho tài sản của họ đồng thời trả lãi để khuyến khích họ
gửi nhiều tiền với thời hạn dài. Huy động tiền gửi trong dân cư là nghiệp vụ
truyền thống đem lại cho ngân hàng một lượng vốn rất lớn để có thể tiến hành
các hoạt động cho vay và đầu tư tìm kiếm lợi nhuận. Có 2 loại: tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, người gửi có thể rút bất cứ khi nào
họ muốn. Còn với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, người gửi chỉ có thể rút tiền
khi đến hạn nhưng lại được hưởng mức lãi suất cao hơn nhiều so với tiền gửi
tiết kiệm không kì hạn. Hiện nay, để cạnh tranh hầu như các ngân hàng đều
cho người gửi tiền tiết kiệm có kì hạn rút tiền trước hạn khi cần, tuy nhiên
mức lãi suất sẽ thấp hơn so với rút tiền khi đáo hạn, hơn nữa các ngân hàng
thường mua bảo hiểm bảo hiểm tiền gửi. Điều này làm tăng sức hấp dẫn của
tiền gửi tiết kiệm có kì hạn.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiền gửi của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
Các ngân hàng đều gửi một lượng tiền ở các ngân hàng khác nhằm mục
đích tạo sự thuận tiện cho việc thanh toán hộ, chuyển khoản hay mua bán,
giao dịch khác…Lượng tiền gửi này thường không lớn.
1.3.3 Tiền vay và nghiệp vụ đi vay.
Bên cạnh việc huy động vốn từ nhận tiền gửi, các ngân hàng còn đi vay
khi cần, có nhiều nguồn khác nhau như: vay từ NHNN, vay từ các TCTD
khác hoặc vay trên thị trường vốn…
Tiền vay NHNN.
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của tất cả các ngân hàng, sẽ hỗ trợ
các ngân hàng trong các trường hợp khó khăn nhất, là người cho vay sau
cùng. Thông thường NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái chiết khấu,
hoặc tái cấp vốn. Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu sẽ trở

thành tài sản của NHTM. Khi cần tiền NHTM mang chúng lên NHNN để tái
chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ
tăng lên. NHNN kiểm soát việc vay mượn này một cách chặt chẽ. Thông
thường NHNN chỉ chiết khấu cho các thương phiếu có chất lượng (có khả
năng trả nợ cao và thời hạn đáo hạn ngắn), và phải phù hợp với mục tiêu của
NHNN trong từng thời kì. NHNN sẽ cho NHTM vay dưới dạng tái cấp vốn
khi NHTM chưa có thương phiếu, tuy nhiên số vốn cho vay theo hạn mức tín
dụng nhất định.
Tiền vay các tổ chức tín dụng khác.
Trong trường hợp cấp bách các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau và
vay của các tổ chức tài chính khác trên thị trường liên ngân hàng, đây là hoạt
động thường xuyên và là cũng một kênh huy động vốn tốt cho các ngân hàng.
Quá trình vay mượn này đơn giản hơn rất nhiều so với việc vay vốn tại
NHNN, Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông qua ngân hàng đại lí (hoặc NHNN ). Khoản vay có thể không cần bảo
đảm hoặc được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc. Thông thường,
các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về
các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng
khác (đang thiếu hụt dự trữ ) vay. Đối với ngân hàng cho vay đây là cơ hội để
kiếm lời, còn với ngân hàng đi vay họ có được một lượng vốn để giải quyết nhu
cầu thanh khoản đang cần gấp, nói chung 2 bên đều có lợi.
Vay trên thị trường vốn.
Để huy động được lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường
xuyên (đặc biệt là cho vay trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi,
các Ngân hàng thường chủ động đi vay trên thị trường vốn bằng cách phát
hành các giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu) trên thị trường. Đây là các
khoản vay thường không cần có đảm bảo, nên những ngân hàng lớn có uy tín

hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ vay được nhiều vốn hơn. Các ngân hàng nhỏ
khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ phải thông qua ngân hàng đại lí
hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Thị trường tài chính càng phát
triển thì khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của các ngân hàng càng
tăng.
Vay nợ khác.
Ngoài những nguồn vốn đi vay cơ bản trên, Ngân hàng còn có các
nguồn vốn vay khác như:
- Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác
cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ….Trong
đó Uỷ thác Đầu tư là dịch vụ khá hấp dẫn của ngân hàng, khách hàng có thể
uỷ thác tiền bạc, tài sản của họ cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành đầu tư
vào những dự án khả thi để sinh lãi.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền
ký quỹ L/C…). Vì phần lớn chúng nguồn này ở trong trạng thái chờ luân
chuyển, do đó các ngân hàng ít khi chỉ sử dụng chúng để cho vay lâu dài mà
chỉ sử dụng để bổ sung thêm nguồn ở thời điểm hiện tại.
- Nguồn khác: thuế chưa nộp, lương chưa trả…Đây là nguồn mà ngân
hàng có thể tạm thời sử dụng khi cần.
Dưới đây chỉ tập trung vào nghiên cứu nguồn vốn kinh doanh của ngân
hàng thông qua hoạt động huy động, về đặc điểm và phương pháp quản lý
chúng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh mà ngân hàng để ra.
1.4. Đặc điểm của các nguồn và các nhân tố ảnh hưởng tới nguồn tiền:
1.4.1 Đặc điểm nguồn tiền gửi và các nhân tố ảnh hưởng:
Đặc điểm chung của nguồn tiền này là thời gian thanh toán phụ thuộc
vào yêu cầu của khách hàng gửi tiền (bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp chưa

đến hạn). Sự thay đổi của các loại tiền gửi ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản của ngân hàng đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn.
Tiền gửi thường chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số vốn của ngân
hàng, chiếm khoảng 50% tổng số vốn. Tiền gửi chính là mục tiêu tăng trưởng
hàng năm của ngân hàng.
Do đặc điểm phải thanh toán ngay khi khách hàng có yêu cầu nên tiền
gửi có tính dự trữ bắt buộc, dẫn tới chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi suất
trả cho tiền gửi và nhiều ngân hàng đã mua bảo hiểm cho tiền gửi.
Sự biến động thay đổi lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều
nhân tố khác sẽ ảnh hưởng đến tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn. Lãi suất
cao là nhân tố thu hút lượng tiền nhàn dỗi tạm thời từ dân cư, các tổ chức,
doanh nghiệp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của lạm phát nên lãi suất thực tế
dương thì mới thực sự là nhân tố thu hút gửi tiền tiết kiệm. Thời vụ chi tiêu
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Các nhân tố khác như
địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, các loại hình huy động đa dạng,
chương trình khuyến mại, các dịch vụ đa dạng,… đều ảnh hưởng đến quy mô
và kết cấu của nguồn tiền.
Ngân hàng cần phải nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi
thông qua nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền của ngân hàng nhằm
đưa ra biện pháp quản lý nguồn vốn một cách thích hợp. Tuy nhiên việc xác
định chính xác sự thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi thường rất khó.
1.4.2 Đặc điểm nguồn đi vay và các nhân tố ảnh hưởng:
Trong tổng nguồn, nguồn này thường chiếm tỷ lệ thấp hơn so với
nguồn tiền gửi. Các khoản đi vay thường có thời hạn và quy mô xác định
trước, do vậy tạo thành nguồn vốn ổn định. Ngân hàng hoàn toàn xác định
được thời điểm vay và khối lượng cần vay, ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết,
theo nhu cầu sử dụng. Nguồn đi vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc

giống như nguồn tiền gửi và không cần có bảo hiểm. Tuy nhiên, lãi suất trả
cho nguồn tiền vay thường lớn hơn lãi suất nguồn tiền gửi do rủi ro lớn hơn.
Các khoản vay từ NHNN hoặc từ các ngân hàng khác có lãi suất thấp song
thường có thời hạn ngắn, do đó chỉ đáp ứng nhu cầu ngắn hạn của ngân hàng.
Việc cho vay vốn của NHNN phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà nó theo
đuổi theo từng thời kỳ. Việc vay vốn từ các ngân hàng trên cùng một địa bàn
cùng không thuận lợi khi các ngân hàng cùng trở nên khan hiếm phương tiện
thanh toán. Vì vậy, muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường tiền tệ
các ngân hàng cần thiết lập mối quan hệ liên ngân hàng với các ngân hàng
nước ngoài, phải có khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Việc phát hành các giấy tờ nhằm vay vốn thời hạn là trung và dài hạn
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo và gia tăng nguồn vốn trung và dài hạn
có tính ổn định cao cho ngân hàng. Thông qua nguồn vốn này ngân hàng có
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể cho vay các dự án, tài trợ trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp
và người tiêu dùng. Điều kiện để nguồn này được đảm bảo là thu nhập của
dân cư, sự ổn định vĩ mô, và các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo
tính thanh khoản của các giấy tờ ghi nợ và thuận tiện cho người cho vay. Tuy
mức lãi suất của nguồn này thường cao hơn so với các nguồn khác song đổi
lại nguồn này đáp ứng được những yêu cầu: ổn định, qui mô đủ lớn trong
khoảng thời gian xác định.
1.4.3 Đặc điểm của các nguồn khác:
Hầu hết các nguồn khác của ngân hàng đều có lãi suất bằng không(lãi
suất danh nghĩa) do ngân hàng không phải trả lãi. Trên thực tế để có và duy trì
chúng cần bỏ ra một khoản chi phí đáng kể. Ví dụ, để có các nguồn uỷ thác
đầu tư ngân hàng cần phải tìm kiểm chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ,
nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ… Nói chung các nguồn khác trong ngân
hàng thường không lớn, việc gia tăng nguồn này nằm trong chính sách tăng

nguồn thu cho ngân hàng và phụ thuộc rất lớn vào khả năng thực hiện và mở
rộng các loại hình dịch vụ của ngân hàng.
1.5. Nội dung của quản lý vốn tại ngân hàng thương mại:
1.5.1 Mục tiêu của quản lý nguồn vốn:
Quản lý nguồn vốn tức là quản lý tài sản nợ, nó cần thiết đối với bất cứ
ngân hàng nào, nhằm mục đích:
- Khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế
- Đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, tạo tiền đề nâng cao thị phần của
ngân hàng, thoả mãn tốt nhất nhu cầu vốn cho khách hàng về cả số lượng,
thời hạn và lãi suất
- Đảm bảo khả năng thanh toán và năng cao hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng.
1.5.2 Nội dung quản lý nguồn vốn tại ngân hàng theo quy trình quản lý:
1.5.2.1 Nội dung quản lý nguồn vốn:
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo quy trình quản lý, quản lý nguồn vốn tại NHTM bao gồm những
nội dung chủ yếu sau:
- Trước hết, để quản lý nguồn vốn ngân hàng cần xây dựng kế hoạch
nguồn vốn bao gồm các nội dung: quy mô, cơ cấu, tốc độ gia tăng nguồn vốn
năm kế hoạch so với năm trước, đề xuất các phương án huy động, chính sách
lãi suất tiền gửi, chương trình marketing,…
Kế hoạch nguồn vốn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng vốn thực tế và cần
đảm bảo khả năng thanh toán. Vì vậy, khi lập kế hoạch nguồn vốn phải căn cứ
vào cơ cấu và quy mô tài sản Có để quyết định cơ cấu và quy mô tài sản Nợ, phù
hợp với trình độ quản lý và đảm bảo hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Kế
hoạch nguồn vốn của toàn hệ thống được xây dựng trên cơ sở tổng hợp kế hoạch
nguồn vốn của các chi nhánh và hội sở chính. Sau khi đã được các nhà quản lý
xem xét ký duyệt sẽ được giao xuống từng chỉ nhánh theo chỉ tiêu.

- Thực hiện công tác điều hành vốn trong toàn hệ thống: giao kế hoạch
nguồn vốn đối với từng chi nhánh, xác định hạn mức điều chuyển vốn, lãi
suất điều chuyển vốn,…
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch nguồn vốn trong
từng thời kỳ của riêng từng chi nhánh và chung cho toàn hệ thống.
- Theo dõi việc thực hiện lãi suất, chênh lệch lãi suất bình quân cho vay
và huy động của từng chi nhánh cũng như toàn bộ hệ thống.
2.5.2.2 Quy trình quản lý vốn tại ngân hàng thương mại:
Nhìn chung, các NHTM Việt Nam đều quản lý vốn theo quy trình cơ
bản sau:
Tại các chi nhánh:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch nguồn vốn:
- Căn cứ xây dựng:
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Chính sách phát triển kinh tế của địa phương kết hợp với mục tiêu
tăng trưởng nguồn vốn của hệ thống.
+ Mục tiêu tăng trưởng riêng của hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
+ Kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước, kết quả huy động vốn, thị
phần huy động vốn trên địa bàn, chu kỳ tăng trưởng vốn của những năm trước
đó và dự đoán xu hướng tăng trưởng vốn trong năm kế hoạch.
- Lập kế hoạch nguồn vốn:
Kế hoạch nguồn vốn của chi nhánh lập theo năm có kế hoạch chi tiết
từng quý và gửi về hội sở chính trước khi năm kế hoạch bắt đầu.
Kế hoạch nguồn vốn của chi nhánh được xây dựng trên cơ sở kế hoạch
nguồn vốn của các đơn vị trực thuộc như các chi nhánh khu vực và phòng
giao dịch, phòng nguồn vốn, phòng tín dụng, phòng thanh tra quốc tế, và các
phòng chức năng có liên quan.
Trong đó phòng kế hoạch nguồn vốn là đơn vị chuyên trách trong việc

xây dựng kế hoạch nguồn vốn của chi nhánh. Phòng nguồn vốn kế hoạch sẽ
tổng hợp kế hoạch huy động vốn, có kèm các giải pháp thực hiện của các đơn
vị trực thuộc, đồng thời phân tích tình hình môi trường kinh doanh, thuận lợi,
khó khăn của chi nhánh, để xây dựng kế hoạch nguồn vốn. Trong đó đặc biệt
chú trọng tới kế hoạch nguồn vốn huy động, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu loại tiền
dự kiến của tài sản Có. Mặt khác xây dựng chính sách lãi suất phù hợp với
chính sách tín dụng, chính sách khách hàng đồng thời dự kiến các biện pháp
và công cụ huy động vốn.
Bước 2: Thực hiện công tác huy động và điều hành vốn:
- Chỉnh sửa kế hoạch nguồn vốn cho phù hợp với chỉ tiêu Hội sở
chính(HSC) giao
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Giao chỉ tiêu huy động vốn ( theo tháng và theo quý) cho các phòng,
các chi nhánh khu vực căn cứ vào kế hoạch mà đơn vị đã lập và khả năng huy
động của đơn vị.
- Quy định mức lãi suất huy động căn cứ vào chính sách lãi suất của hệ
thống, phù hợp với mặt bằng lãi suất trên thị trường huy động vốn của các
ngân hàng, và yêu cầu của hoạt động kinh doanh.
- Triển khai thực hiện huy động theo kế hoạch. Các đơn vị lập nhu cầu
chi trả hàng tuần hàng tháng, hàng quý trên cơ sở đó phòng vốn xây dựng dự
báo lưu chuyển dòng tiền mặt làm căn cứ điều hành nguồn vốn toàn chi
nhánh. Chi nhánh điều chuyển vốn về HSC hoặc nhận vốn điều chuyển từ
HSC theo hạn mức điều chuyển và lãi suất điều chuyển được giao. Hàng ngày
phòng nguồn vốn làm báo cáo về sự tăng giảm nguồn và sử dụng nguồn để
ban giám đốc điều hành và có sự chỉ đạo kịp thời, riêng cân đối tháng gửi
phòng nguồn vốn HSC để tổng hợp cân đối chung toàn hệ thống.
- Trong quá trình triển khai, chi nhánh có thể đề nghị HSC điều chỉnh
các chỉ tiêu nguồn vốn tuỳ thuộc vào tình hình thực hiện cụ thể.

- Chi nhánh đánh giá công tác nguồn vốn, so sánh với cùng kỳ năm
trước một cách định kỳ (hàng tháng, quý, năm), từ đó biết được các mặt được,
mặt còn hạn chế, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất các biện pháp, kiến nghị
các điều kiện để chuẩn bị xây dựng kế hoạch nguồn vốn và thực hiện tốt kế
hoạch nguồn vốn trong năm sau.
Lập kế hoạch nguồn vốn tai Hội sở chính:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch nguồn vốn:
- Căn cứ xây dựng:
• Chiến lược phát triển dài hạn của toàn ngành trong từng thời kỳ nhất
đinh.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Mục tiêu tăng trưởng hàng năm về tổng tài sản, tổng dư nợ, và các
chỉ tiêu liên quan tới nguồn vốn khác.
• Kế hoạch nguồn vốn của các chi nhánh.
• Số liệu thực hiện năm trước, thị phần đã đạt được của toàn hệ thống
và của từng chi nhánh.
• Điểm mạnh, điểm yếu của ngân hàng, khó khăn và thuận lợi.
- Lập kế hoạch nguồn vốn:
Đầu năm dựa vào các căn cứ trên, phòng nguồn vốn xây dựng kế hoạch
nguồn vốn cho cả hệ thống theo các nội dung: số lượng, cơ cấu nguồn vốn,
tốc độ gia tăng so với năm trước. Đề ra các biện pháp thực hiện, các phương
án nguồn vốn dự phòng với số lượng và mức độ chi phí cần thiết. Ngoài kế
hoạch huy động vốn, phải xây dựng các kế hoạch phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu một cách cụ thể.
Phòng kế hoạch và nguồn vốn tổng hợp phân tích kế hoạch nguồn vốn
của các chi nhánh sau đó xây dựng chỉ tiêu chung cho toàn bộ ngân hàng và
chỉ tiêu huy động vốn riêng cho từng chi nhánh và các phòng tại HSC.
Nguồn vốn Sử dụng vốn

1. Huy động:
- Tiền gửi
- Phát hành giấy tờ có giá
2. Đi vay
3. Nhận vốn tài trợ uỷ thác
4. Vốn và các quỹ
5. Tài sản nợ khác
1. Dự trữ
2. Cho vay
3. Kinh doanh khác
4. Tài sản có khác
Ngân hàng phải xác định phần vốn dành cho dự trữ, bao gồm:
- Tồn quỹ
- Tiền gửi NHTƯ: Trong đó: Dự trữ bắt buộc
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tiền gửi các TCTD khác
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà NHTM phải duy trì trên tài khoản tiền gửi
tại ngân hàng trung ương. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy
định trong từng thời kỳ, quy mô của dự trữ bắt buộc nhiều hay ít phụ thuộc
vào số dư tiền gửi huy động của từng loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc được thực thi theo luật vì vậy các NHTM phải duy trì
đầy đủ khoản tiền này, nếu thiếu sẽ bị phạt theo quy định.
Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hàng ngày ngân hàng cần phải có các
khoản dự trữ khác bên ngoài khoản dự trữ bắt buộc. Phần dự trữ này phụ
thuộc vào thời hạn của các khoản nợ, các cam kết giải ngân của ngân hàng,
nhu cầu rút tiền hàng ngày của khách hàng,…
Bước 2: Thực hiện công tác nguồn vốn gắn với việc điều hành vốn tại
hội sở chính:

- Trực tiếp thực hiện công tác nguồn vốn:
+ Nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu chủ yếu đối với các khách hàng lớn có tiềm năng (các TCTD khác, các
tổng công ty,…)
+ Vay ngân hàng Trung ương (tái chiết khấu, tái cấp vốn), vay các
TCTC trong và ngoài nước, các TCTD khác…
+ Huy động vốn qua thị trường mở, thị trường chứng khoán.
- Thực hiện đảm bảo khả năng thanh toán, điều hành vốn trong toàn hệ
thống:
Phòng nguồn vốn kế hoạch chịu trách nhiệm chính
Triển khai thực hiện công tác điều hành vốn đối với các chi nhánh qua
việc giao kế hoạch tăng trưởng vốn huy động, xác định hạn mức điều chuyển
vốn, lãi suất điều chuyển vốn,…đối với từng chi nhánh cụ thế.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hạn mức điều chuyển vốn là giới hạn tối thiểu của số vốn chi nhánh
điều chuyển về Hội sở chính và giới hạn tối đa của số vốn chi nhánh nhận từ
hội sở chính, được xác định như sau:
A = B – C
Trong đó:
A: Hạn mức điều chuyển vốn kỳ kế hoạch
B =
Tổng dư nợ nghiệp
vụ kinh doanh kỳ
kế hoạch
+
Chênh lệch TS Có
khác lớn hơn TS Nợ
khác kỳ kế hoạch

+
Dự trữ kỳ
kế hoạch
C =
Tổng nguồn huy
động kỳ kế hoạch
+
Chênh lệch TS Nợ khác lớn hơn
TS Có khác kỳ kế hoạch
Bước 3: Quản lý công tác nguồn vốn của các chi nhánh
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch và tiến độ thực hiện
công tác nguồn vốn từng thời kỳ qua cân đối vốn, so sánh với tiềm năng và
tốc độ trung bình toàn hệ thống.
- Theo dõi thực hiện chính sách lãi suất, chênh lệch lãi suất bình quân
- Đánh giá tiềm năng nguồn vốn, chỉ đạo công tác nguồn vốn tại các
chi nhánh.
- Xử lý các vấn đề kiến nghị của chi nhánh.
- Điều chỉnh chỉ tiêu nguồn vốn cho chi nhánh khi cần thiết.
Những chi nhánh hoạt động độc lập có thể tự xây dựng công tác kế
hoạch nguồn vốn cũng như thực hiện kế hoạch đó một cách độc lập. Khi thiếu
vốn có thể điều chuyển từ ngân hàng trung tâm hoặc vay trực tiếp trên thị
trường liên ngân hàng
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.5.3 Nội dung quản lý nguồn vốn tại ngân hàng theo các nhân tố:
1.5.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý vốn tại ngân hàng
thương mại:
Để huy động được nguồn vốn, ngân hàng phải mất một khoản chi phí
trả lãi, chi phí trả lãi bị tác động trực tiếp bởi quy mô, cơ cấu các nguồn vốn

phải trả lãi và lãi suất cá biệt.
Vì vậy nội dung đầu tiên trong quản nguồn vốn ngân hàng là quản lí quy
mô, cơ cấu và lãi suất của các khoản nợ, các chi phí lãi suất gắn với các khoản
nợ. Tiếp đó, là tính ổn định của các khoản nợ quyết định một phần an toàn
trong kinh doanh ngân hàng và thời hạn tín dụng. Do đó tính ổn định của các
khoản nợ là nội dung thứ hai của quản lý nguồn vốn trong ngân hàng. Cuối
cùng tính thanh khoản của các khoản nợ được nhiều nhà quản lý ngân hàng
quan tâm tới. Nó phản ánh khả năng tìm kiếm các nguồn mới nhanh chóng với
lãi suất thấp nhằm tăng cường khả năng thanh khoản cho ngân hàng.
1.5.3.2 Quản lý quy mô và cơ cấu:
Quản lý quy mô và cơ cấu là đưa ra các biện pháp để gia tăng quy mô
và thay đổi cơ cấu nguồn sao cho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả nhất.
Gia tăng của tiền gửi và các khoản vay là một chỉ tiêu phản ánh chất
lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện để ngân hàng mở rộng quy mô
các hoạt động khác, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn
vốn. Cơ cấu nguồn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của
ngân hàng. Quản lý quy mô và cơ cấu nguồn bao gồm những nội dung sau:
- Luôn luôn thống kê đầy đủ và kịp thời bất cứ sự thay đổi nào về các
loại nguồn, tốc độ quay vòng vốn của các nguồn. Thông qua công tác thống
kê nguồn các nhà quản lý ngân hàng sẽ nghiên cứu mối liên hệ giữa số lượng,
cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính của
thị trường nguồn của ngân hàng
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi đó( các nhân tố
ảnh hưởng và bị ảnh hưởng)
- Lập kế hoạch cho nguồn vốn từng giai đoạn (kế hoạch năm, quý,
tháng) phù hợp với yêu cầu sủ dụng. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch
sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh

hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị,…
- Trong điều kiện cụ thể, các nguồn của một ngân hàng có thể có tốc
độ và quy mô thay đổi khác nhau. Các ngân hàng nhỏ qui mô nguồn nhỏ
nhưng tốc độ tăng nguồn có thể cao hơn so với các ngân hàng lớn.
- Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu
của nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Đó là cơ sở để ngân hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi quy mô
và kết cấu của nguồn tiền. Nhà quản lý ngân hàng cần phân chia các loại
khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn. Cần chú ý
quan tâm tới khách hàng có tiền gửi lớn, khách hàng truyền thống, ngân hàng
cũng nghiên cứu cụ thể đối với nhóm khách hàng nhạy cảm với sự thay đổi
về công nghệ, lãi suất, chất lượng dịch vụ đi kèm. Nhà quản lý cũng cần xem
xét thị phần nguồn tiền của các ngân hàng đối thủ trên địa bàn và khả năng
cạnh tranh của họ.
1.5.3.3 Quản lý lãi suất chi trả:
Quản lý lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại và cơ cấu lãi
suất cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kết cấu
nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của ngân hàng. Quản lý lãi suất của
nguồn vốn có liên quan chặt chẽ với quản lý lãi suất cho vay và đầu tư của
ngân hàng.
Nội dung của quản lý lãi suất chi trả bao gổm: nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng tới lãi suất huy động. đa dạng hoá lãi suất.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của ngân hàng và với
mỗi ngân hàng. Lãi suất huy động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như:
- Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của nền kinh tế
- Tỷ lệ lạm phát
- Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp, Nhà nước và dân cư

- Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác
- Trình độ phát triển của thị trường tài chính
- Khả năng sinh lời của ngân hàng
- Độ an toàn của các ngân hàng,...
Trên cơ sở tác động của hàng loạt các yếu tố, hình thành nên lãi suất
huy động của NHTM. Lãi suất huy động được phân biệt theo nhiều hướng:
- Lãi suất phân biệt theo thời gian: Thời gian huy động càng dài thì lãi
suất huy động càng cao
- Lãi suất phân biệt theo loại tiền (nội tệ, ngoại tệ)
- Lãi suất phân biệt theo mục đích gửi, theo mục đích huy động.
- Lãi suất phân biệt theo rủi ro của ngân hàng: Các ngân hàng nhỏ,
hoặc ngân hàng tư nhân lãi suất cao hơn so với ngân hàng lớn, hoặc NHNN.
- Lãi suất phân biệt theo các dịch vụ đi kèm ví dụ như tiết kiệm có
thưởng, tiết kiệm có bảo hiểm lãi suất thấp hơn tiết kiệm khác.
- Lãi suất phân biệt theo quy mô,…
Nhìn chung, lãi suất tỷ lệ nghịch với những tiện ích mà ngân hàng cung
cấp cho người gửi tiền, tiện ích mà ngân hàng cung cấp càng nhiều thì lãi suất
càng thấp. Một số nguồn tiền lãi suất ngân hàng bằng không và người gửi
phải trả phí để được hưởng tiện ích của ngân hàng( tiền gửi để thanh toán).
Trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất Ngân hàng có
nhiều mức lãi suất danh nghĩa khác nhau tuỳ theo tính chất của từng khoản
nợ, đó là mức lãi suất cá biệt.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ví dụ: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm VND loại thời hạn 6 tháng là
0.88%/tháng, loại 12 tháng là 0.92%/tháng, loại tiết kiệm 12 tháng USD là
5.8%/năm… Trong quá trình cạnh tranh để mở rộng nguồn tiền, các ngân
hàng đều cố gắng tạo ra ưu thế của mình trong đó có ưu thế về lãi suất cạnh
tranh. Ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất danh nghĩa cao hơn so với các

ngân hàng khác, trong điều kiện lãi suất tối đa bị khống chế, ngân hàng có thể
trả lãi làm nhiều lần trong kỳ hoặc trả lãi trước. Phương pháp trả lãi làm nhiều
lần và trả lãi trước điều làm cho lãi suất thực tế cao hơn lãi suất danh nghĩa.
Ngân hàng quản lý chi phí trả lãi và hoạch định các mức lãi suất cạnh
tranh (gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay) bằng lãi suất bình quân:
Có hai loại lãi suất bình quân:
(1) Lãi suất bình quân của một nguồn hay của một nhóm nguồn trong kỳ.
(2) Lãi suất bình quân của các nguồn phải trả lãi tại một thời điểm
trong kỳ.
Lãi suất bình quân cho ta thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn và
mức độ thay đổi lãi suất của mỗi nguồn, sự kết hợp giữa lái suất cá biệt và tỷ
trọng mỗi nguồn trong tổng nguồn, nó cũng cho thấy những nguồn có chi phí
đắt tương đối ( lãi suất cá biệt > lãi suất bình quân) và các nguồn có chi phí rẻ
tương đối ( lãi suất cá biệt < lãi suất bình quân). Điều đó có ý nghĩa quan
trọng trong việc hoạch định chiến lược nguồn vốn.
Ví dụ: Một ngân hàng có các số liệu về nguồn vốn như sau:
Đơn vị: tỷ đồng, %.
Nguồn
số dư
1/1
Lãi suất
1/1
Số dư
1/2
Lãi suất
1/2
Số dư
1/3
Lãi suất
1/3

Dưới 12 tháng 100 10 120 11 140 10.5
Trung hạn 55 12 65 13 75 12.5
Dài hạn 45 13 55 14 65 13.8
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(Giả sử số dư và lãi suất không thay đổi trong tháng, lãi suất tính theo
tháng)
Theo bảng trên ta có thể tính được lãi suất bình quân đối vói các nguồn
tại một thời điểm trong 3 tháng, và lãi suất bình quân của từng nguồn trong 3
tháng.
Lãi suất bình quân của các nguồn vào ngày 1/1:
LSBQ = (100x10% + 55x12% + 45x13%)/ 200 = 0.11225 tức là 11,2 %
Lãi suất bình quân của nguồn trung hạn trong 3 tháng là
LSBQ = (55x12% + 65x13% + 75x12.5%)/195 = 0.1253 tức là 12,53%
Lãi suất bình quân đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chênh
lệch lãi suất, phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng.
1.5.3.4 Quản lý kì hạn:
Quản lý kỳ hạn tức là xác định kì hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu
về kỳ hạn của sử dụng, đồng thời tạo ra sự ổn định của nguồn, bao gồm các
nội dung sau:
Kỳ hạn danh nghĩa:
Kỳ hạn danh nghĩa là kỳ hạn đối với các khoản nợ được ngân hàng
tuyên bố, ví dụ tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,..và tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Mỗi kỳ hạn thường gắn với một mức lãi suất nhất
định và kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ
tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn và liên quan tới kỳ hạn sử dụng
vốn. Vì vậy việc xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với
hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, kỳ hạn còn liên quan tới chi phí nguồn
vốn: để có nguồn vốn ổn định cao ngân hàng cân phải bỏ ra một khoản chi phí

lớn. Vì vậy quản lý kỳ hạn là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lời cho
ngân hàng.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn danh nghĩa: Thu nhập dân cư, ổn
định vĩ mô, khả năng chuyển đổi của giấy nợ, kỳ hạn của các khoản cho vay
và đầu tư,…
Trong đó nhân tố quan trọng nhất là thu nhập của dân cư, bởi các khoản
tiền gửi có kỳ hạn dài thường là từ nguồn tiết kiệm của dân cư. Nếu thu nhập
của dân cư thấp thì mức tiết kiệm thấp và ngược lại. Trong điều kiện lạm phát
cao, tỷ giá biến động theo hướng không có lợi cho đồng nội tệ,…đều ảnh
hưởng đến việc kéo dài kỳ hạn danh nghĩa. Nếu thị trường tài chính kém phát
triển, khả năng chuyển đổi của các giấy nợ thấp (tính thanh khoản của các
giấy nợ thấp) thì việc phát hành các giấy nợ kỳ hạn dài sẽ rất khó khăn.
Kỳ hạn thực tế của nguồn tiền:
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới kì hạn danh nghĩa là cơ sở để
ngân hàng đưa ra kỳ hạn huy động phù hợp với thị trường. Tuy nhiên, kỳ hạn
thực tế mới là nhân tố ảnh hưởng chặt chẽ tới kỳ hạn cho vay và đầu tư, chính
vì vậy mà các ngân hàng đã quan tâm hơn tới kỳ hạn thực tế của các nguồn.
Ví dụ: nhiều người có nhu cầu gửi tiền với thời hạn danh nghĩa là 6
tháng, nếu người gửi tiền không rút tiền và khoản tiền gửi được duy trì nhiều
lần 6 tháng( các kỳ hạn 6 tháng liên tiếp nhau) và như vậy thực tế khoản tiền
trên đã trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn.
Như vậy kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi tại một ngân hàng chính là
khoản thời gian mà khoản tiền đó tồn tại tại ngân hàng. Kỳ hạn thực tế của
khoản tiền gửi cũng bị ảnh hưởng bởi: thu nhập, tính ổn định vĩ mô của nền
kinh tế. Bên cạnh đó, nhu cầu chi tiêu đột xuất và lãi suất cạnh tranh giữa các
ngân hàng, lãi suất cạnh tranh giữa các nguồn tiền gửi cũng góp phần ảnh
hưởng đến kỳ hạn thực tế. Sự thay đổi lãi suất sẽ gây ra sự chuyển tiền gửi từ

ngân hàng này sang ngân hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác làm
giảm kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ví dụ: Một ngân hàng tại Hà Nội (ngân hàng M) tăng lãi suất tiền gửi
tiết kiệm thời hạn 12 tháng từ 0.88%/tháng lên 0.92%/tháng có thế gây ra 2
hiệu ứng:
(1) Do sức hấp dẫn của lãi suất huy động ngân hàng M có thể nhận
được lượng tiền gửi trong dân cư, hoặc từ lượng tiền gửi trong các ngân hàng
khác. Tuy nhiên, các khoản tiền nhỏ thường ít bị hấp dẫn khi lãi suất tăng ít,
và một khoản tiền gửi tại ngân hàng nảo đó trong Cà Mau sẽ không dễ gì
chuyển ra Hà Nội trong điều kiện công nghệ ngân hàng và chi phí chuyển tiền
như hiện nay. Các khoản tiền đã gần đến hạn có thể ít bị dịch chuyển, do
người gửi tiền cố chờ tới hạn để rút tiền nhằm được hưởng lãi suất đầy đủ.
(2) Sự dịch chuyển giữa các loại tiền gửi trong nội bộ ngân hàng. Loại
hiệu ứng này chỉ tác động tới tính ổn định của các nguồn khác kém hấp dẫn
hơn về lãi suất do sự thay đổi kết cấu của nguồn chứ không làm gia tăng quy
mô của nguồn.
Để phân tích kỳ hạn thực tế phải dựa trên số liệu thống kê thấy được sự
biến động số dư của mỗi nguồn, của nhóm nguồn, số dư thấp nhất trong quý,
trong năm, trong nhiều năm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi , từ đó,
người quản lý đo được kỳ hạn thực gắn liền với các loại số dư.
Quản lý kỳ hạn phải luôn gắn liền với quản lý lãi suất. Vì vậy các nhà
quản lý ngân hàng cần phả lựa chọn xây dựng một cơ cấu lãi suất sao cho vừa
đảm bảo gia tăng tổng nguồn, tiết kiệm chi phí, lại vừa mang tính ổn định của
nguồn tiền. Một số phương pháp để cải tiến sự ổn định của các khoản nợ:
- Dựa vào những loại tiền gửi chủ yếu: tiền gửi giao dịch hoặc tiền
gửi tiết kiệm. Mặc dù tiền gửi phải hoàn trả theo yêu cầu, song nó tương đối
ổn định. Các ngân hàng cố gắng tăng tiền gửi để giảm các khoản vay.

- Ngân hàng cần xây dựng mối quan hệ tạo được uy tín với người gửi
tiền lớn làm sao cho họ không rút tiền trong thời kỳ khủng khoảng.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Đa dạng hoá các nguồn tiền, huy động từ nhiều nguồn khác nhau,
giảm sự phụ thuộc của ngân hàng vào một nhóm khách hàng.
- Phát triển công tác quản lý tài sản bên cạnh quản lý các khoản nợ.
1.3.4.3 Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn:
Tính thanh khoản của nguồn vốn là sự sẵn sàng chi trả khi khách hàng
yêu cầu, là khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ
nhất.
Tính thanh khoản của nguồn trước hết thể hiện ở sự dự trữ ngân quỹ
với quy mô và kết cấu nhất định, các loại tài sản mà ngân hàng nắm giữ có
khả năng chuyển thành tiền mặt khi cần.
Vì vậy tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường của
ngân hàng và chính sách tiền tệ đang được vận dụng. Đối với các ngân hàng
lớn có nhiều chi nhánh ở nhiều nơi và gần các trung tâm chuyển tiền có nhiều
khả năng tìm kiếm các nguồn nhanh chóng hơn là các ngân hàng nhỏ, ít chi
nhánh và ở xa. Ngân hàng có thể tiếp cận với một số nguồn khác thông qua
các công cụ nợ, tại các nước mà thị trường nợ kém phát triển thì tính thanh
khoản của nguồn vốn các ngân hàng cũng bị giảm thấp.
Ngân hàng phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn bắt đầu từ việc phân
tích thị trường nguồn vốn của mỗi ngân hàng để thấy được đặc điểm của nguồn
(như qui mô, tốc độ tăng trưởng, vòng quay, lãi suất và sự biến đổi của lãi suất,
tỷ trọng thị trường của ngân hàng so với các tổ chức tín dụng khác,… Ngoài ra
ngân hàng cũng tập trung phân tích nguồn vay từ ngân hàng nhà nước và các tổ
chức tín dụng khác, tuy nguồn này có thời hạn ngắn nhưng có thể có được trong
thời gian ngắn, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản ngắn hạn. Mặt khác ngân
hàng cũng cần xem xét tới các nguồn mà ngân hàng có ưu thế.

Tính thanh khoản cao được đảm bảo bằng tài sản thanh khoản thoả mãn 3
đặc điểm sau: (1) tài sản thanh khoản phải có một thị trường sẵn sàng để có thể
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
25

×