Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn ths luật áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo thực tiễn tại tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.5 KB, 101 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN VĂN CƯỜNG



¸P DôNG PH¸P LUËT VÒ GI¸O DôC Vµ §µO T¹O -
THùC TIÔN T¹I TØNH NAM §ÞNH


Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. MAI VĂN THẮNG





HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn này chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong Luận văn
này đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Văn Cường


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ 9
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 9
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật 9
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật 9
1.1.2. Hình thức và quy trình áp dụng pháp luật 12
1.2. Những vấn đề lý luận về giáo dục, đào tạo và pháp luật về giáo dục, đào

tạo 23
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của giáo dục, đào tạo 23
1.2.2. Khái luận về hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam hiện nay 27
1.3. Lý luận áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo 35
1.3.1. Khái niệm về áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo 35
1.3.2. Những đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo . 36
Kết luận chương 1 37

Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC GIÁO
DỤC ĐÀO TẠO TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 38
2.1. Khái quát về tỉnh Nam Định và bối cảnh, tình hình chung của tỉnh Nam
Định trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo 38
2.1.1. Khái quát về tỉnh Nam Định 38
2.1.2. Bối cảnh, tình hình chung về hoạt động giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh
Nam Định 39
2.2. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Nam Định 43
2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về
giáo dục đào tạo do các cơ quan trung ương ban hành 43
2.2.2. Hệ thống văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động áp dụng pháp
luật về giáo dục đào tạo do các cơ quan chức năng của tỉnh Nam Định ban hành 54
2.3. Thực tiễn và kết quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
ở các cấp học trên địa bàn Nam Định 58
2.3.1. Những đặc trưng cơ bản trong hoạt động áp dụng pháp luật trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo tại tỉnh Nam Định 58


2.3.2. Thực tiễn và kết quả áp dụng pháp luật giáo dục, đào tạo tại tỉnh Nam Định ở
cấp mầm non và các cấp học phổ thông 59
2.3.3. Thực tiễn và kết quả áp dụng pháp luật dạy nghề, giáo dục chuyên nghiệp,

giáo dục đại học 71
2.4. Những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp luật về giáo dục, đào tạo tại
tỉnh Nam Định và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó 73
2.4.1. Những hạn chế chung của nền giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định 73
2.4.2. Những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật về giáo dục đào tạo
trên địa bàn tỉnh Nam Định 75
2.4.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế 78
Kết luận chương 2 80
Chương 3. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO 82
3.1. Những quan điểm, định hướng chung của việc áp dụng pháp luật về giáo dục,
đào tạo 82
3.2. Những đề xuất, kiến nghị chung 83
3.2.1. Những đề xuất, kiến nghị chung hoàn thiện hoạt động áp dụng pháp luật trên
phạm vi cả nước 83
3.2.2. Những đề xuất, kiến nghị chung hoàn thiện hoạt động áp dụng pháp luật trên
phạm vi tỉnh Nam Định 83
3.3. Một số kiến nghị, đề xuất cụ thể 87
3.3.1. Những đề xuất kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hoạt động áp dụng pháp luật
trên phạm vi cả nước 87
3.3.2. Những đề xuất, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hoạt động áp dụng pháp
luật trên phạm vi tỉnh Nam Định 88
Kết luận chương 3 91
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 1.1: Quy mô học sinh 39
Bảng 1.2: Quy mô học sinh/giáo viên 40
Bảng 1.3: Quy mô lớp học của các trường trung học 40




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CBQL: Cán bộ quản lý
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CSDN: Cơ sở dạy nghề
CSVC: Cơ sở vật chất
ĐH: Đại học
GD&ĐT: Giáo dục và đào tạo
HĐND: Hội đồng nhân dân
LĐTBXH: Lao động – Thương binh và Xã hội
PCGDTH: Phổ cập giáo dục trung học
TCCN: Trung cấp chuyên nghiệp
TCN: Trung cấp nghề
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
UBND: Ủy ban nhân dân



1
MỞ ĐẦU



1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt" và "Giáo dục và đào
tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam".
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã định hướng: "Phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến
lược". Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 nhằm quán triệt và cụ thể hóa các
chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020 của đất nước.
Để xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trong thời kỳ hội nhập quốc tế chúng ta cần tháo gỡ 3 điểm nút, đó là: Một là có cơ
chế chính sách phải đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều chỉnh được, phù
hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là phát triển cơ sở hạ
tầng như đường giao thông, điện, mặt bằng sản xuất cho các nhà đầu tư; ba là xây
dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu ứng dụng công
nghệ tiên tiến, hiện đại, có trình độ khoa học kỹ thuật, có khả năng ứng dụng thực
tiễn, có kỷ luật lao động, có tư duy làm việc nhóm, hiệu quả [9].
Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: người học, chế độ
chính sách, việc áp dụng các chế độ, chính sách đó, cơ sở vật chất, chương trình giáo
trình, chất lượng đội ngũ giáo viên…
Chế độ, chính sách về giáo dục và đào tạo, việc áp dụng pháp luật trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực
có chất lượng cao theo Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp



2
hành Trung ương Đảng khoá XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Một khâu quan trọng trong việc phát triển giáo dục và đào tạo là việc áp dụng
pháp luật trong lĩnh vực đó. Việc xây dựng pháp luật về giáo dục và đào tạo như là cho
một chiếc gậy vững chắc, nhưng việc áp dụng là việc chống gậy đó như thế nào, đầu
nào cầm, đầu nào chống, chống đứng hay chống nghiêng để vững chắc nhất.
Như vậy, việc áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo là khâu then chốt để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục và đào tạo. Để áp dụng có hiệu lực, hiệu quả
phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: chính sách áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo
của địa phương đó có quyết liệt hay không; đội ngũ cán bộ, công chức thực thi việc áp
dụng pháp luật như thế nào, trình độ của họ ra sao, sự áp dụng tiến bộ của khoa học
công nghệ vào quản lý giáo dục và đào tạo như thế nào.
Trong nhiều năm qua, giáo dục và đào tạo đã được Đảng, nhà nước quan tâm,
đầu tư có sở vật chất, hệ thống trường, lớp đã được củng cố, mở rộng, đáp ứng phần
lớn nhu cầu học tập của nhân dân; hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo dần dần
hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế và theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đội ngũ giáo viên được nâng cao cả về chất lượng và số lượng, đảm bảo cơ cấu
các bộ môn và cơ cấu trình độ… Đặc biệt với Nam Định là tỉnh có truyền thống hiếu
học, học giỏi, kết quả là tỉnh liên tục 20 năm trong tốp dẫn đầu toàn quốc về chất
lượng giáo dục toàn diện, nhất là giáo dục phổ thông, hàng năm hoàn thành 10 đến
13/15 tiêu chí của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việc áp dụng pháp luật tại tỉnh được sự
quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp, các gia đình, dòng họ; vì vậy thu được
nhiều kết quả cao, là điểm sáng về chất lượng giáo dục phổ thông của cả nước, nhiều
mô hình trường học thân thiện được xây dựng và là cơ sở để cả nước nhân rộng như
trường “Xanh – Sạch – Đẹp – an toàn”, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực. Tuy nhiên chất lượng chưa bền vững, đồng đều trong các trường, giáo dục
chuyên nghiệp và giáo dục đại học chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được phát triển
kinh tế xã hội của địa phương, chưa là trung tâm giáo dục của tiểu vùng Nam đồng

bằng sông Hồng.


3
Bởi vì, trong mọi cơ chế, chính sách con người luôn được coi là trung tâm. Hay
nói cách khác, muốn đưa cơ chế, chính sách vào cuộc sống thì nâng cao trình độ, đổi
mới tư duy, phương pháp thực hiện phải được thực hiện đầu tiên. Công tác áp dụng
pháp luật về giáo dục đào tạo mặc dù đã được quan tâm nhưng chưa linh hoạt, chưa
đồng bộ, quyết liệt, nên vẫn còn một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa vào cuộc
trong việc triển khai pháp luật giáo dục và đào tạo, có quan niệm cho rằng đó là công
việc của riêng ngành giáo dục và đào tạo. Nhằm góp phần hoàn thiện việc áp dụng pháp
luật về giáo dục nói chung, trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng, cùng với mong muốn
hoàn thiện hơn nữa công cuộc phát triển dân trí, nhân lực và nhân tài của Tỉnh, tôi
quyết định chọn đề tài “Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo – thực tiễn tại tỉnh
Nam Định” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tính hình nghiên cứu đề tài
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục đào tạo nói chung và áp dụng
pháp luật về giáo dục đào tạo nói riêng bước đầu đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn
nhân lực có chất lượng cho đất nước, đã và đang thuộc đối tượng nghiên cứu của
nhiều bộ môn khoa học như: chính trị học, luật học, giáo dục học, đạo đức học Sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước đối với giáo dục đào tạo được
xem là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định đến việc đào tạo nguồn nhân
lực - tháo gỡ nút thứ 3 của đất nước đạt hiệu quả.
Trong thực tiễn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang thực hiện công cuộc
đổi mới để xây dựng đất nước, vai trò lãnh đạo của Đảng cả về lý luận và thực tiễn
đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết. Có thể nói đây là vấn đề quan trọng, thu
hút được sự nghiên cứu của nhiều tác giả.
Trong phạm vi đề tài đã được nghiên cứu có liên quan đến đề tài mà tác giả
biết có thể liệt kê sơ bộ như sau:
- Đặng Quốc Bảo (2001), Kinh tế học giáo dục: Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn và những ứng dụng trong việc xây dựng chiến lược giáo dục, Nhà xuất bản chính
trị Quốc gia;
- Đặng Quốc Bảo (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai: Vấn đề và
giải pháp, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia


4
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu nhiệm vụ năm học 2005-2006, Nhà
XB Giáo dục.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Tài liệu nhiệm vụ năm học 2011-2012, Nhà
XB Giáo dục.
- Phạm Minh Hạc, (2003), Về giáo dục, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hồi – Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu cấp trường: Áp
dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay”; Hà Nội, năm 2009.
Chủ trương về giáo dục và đào tạo là vấn đề đã và đang được Đảng, Nhà nước
đặc biệt quan tâm và thường xuyên có những đổi mới nhằm góp phần vào việc xây
dựng nguồn nhân lực đáp ứng công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, các chủ trương, pháp luật, Chương trình, Kế hoạch, Đề án do Đảng và Nhà nước
ban hành chỉ mang tính chất điều chỉnh chung, ở mỗi địa phương cụ thể do điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau; đặc điểm tình hình khác nhau nên công tác áp dụng pháp
luật về giáo dục đào tạo cũng có những điểm khác biệt mang tính đặc thù và do đó cũng
có những điểm khác nhau.
Những công trình khoa học trên đây đã tập trung nghiên cứu việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước trong việc
xây dựng, thực hiện pháp luật giáo dục nói chung và áp dụng pháp luật giáo dục
đào tạo nói riêng trên phạm vi cả nước.
Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo là một đề tài rất rộng bao gồm pháp
luật giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, giáo dục phổ thông, giáo dục
chuyên nghiệp; trong giáo dục phổ thông có giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học,
giáo dục trung học cơ sở, giáo dục trung học phổ thông; trong giáo dục chuyên nghiệp

có giáo dục đại học, cao đẳng, giáo dục trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Giáo
dục đại học có giáo dục đại học và giáo dục sau đại học, tuy nhiên trong phạm vi của
luận văn này, tôi chỉ đi sâu nghiên cứu về áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo –
thực tiễn tại tỉnh Nam Định, nhằm đưa ra giải pháp có tính hiệu quả ở tùng cấp học,
bậc học.
- Nhiệm vụ của luận văn: tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của việc áp dụng


5
pháp luật về giáo dục và đào tạo, trong đó nghiên cứu sâu vào lý luận và hệ thống
pháp luật về giáo dục và đào tạo của cả nước nói chung và tại tỉnh Nam Định nói
riêng. Tình hình áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại tỉnh Nam
Định, nguyên nhân đạt được kết quả, những hạn chế yếu kém, giải pháp khắc phục và
kiến nghị mô hình áp dụng pháp luật hiệu quả trong phạm vi cả nước.
- Tình hình nghiên cứu: tại tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung chưa
có đề tài nào nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, đây là
đề tài mới, chưa được nghiên cứu sâu, nên còn nhiều vấn đề chưa được đúc kết, xây
dựng mô hình chuẩn cho cả nước và cho các địa phương trong khu vực có điều kiện
kinh tế tương tự như Nam Định.
Nhưng để đi sâu nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có chất lượng cao ở
Nam Định để đảm bảo tính đồng đều và có mũi nhọn thì hiện tại chưa có đề tài
nào. Mặc dù vậy, các công trình khoa học trên đây là những tài liệu tham khảo có
giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận
văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
- Lý luận chung về áp dụng pháp luật, về giáo dục và đào tạo; Những vấn đề lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về giáo dục vào đào tạo ở cấp tỉnh.

- Phân tích một cách khái luận hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt
động áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như là cơ sở để từ đó phân
tích chuyên sâu về thực trạng công tác áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo trên địa bàn tỉnh Nam Định, trong đó nhấn mạnh thực trạng, nguyên nhân hạn chế,
tích cực của áp dụng pháp luật giáo dục đào tạo;
- Phân tích những quan điểm, định hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và
chính quyền địa phương trong việc áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo;


6
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận của áp
dụng pháp luật giáo dục đào tạo, trong đó nhấn mạnh đến áp dụng pháp luật giáo dục
đào tạo trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2010 đến nay.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng, hiệu quả của
công tác áp dụng pháp luật về giáo dục đào tạo trên đơn vị hành chính cấp tỉnh, cụ thể
là tỉnh Nam Định nhằm nêu lên thực trạng và qua đó đưa ra các chủ trương, đường lối
của Đảng, Nhà nước cũng như đề xuất, kiến nghị của bản thân nhằm nâng cao công
tác xây dựng và áp dụng pháp luật về giáo dục đào tạo.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công tác áp dụng pháp luật
của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật về giáo dục và
đào tạo.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của chất
lượng áp dụng pháp luật về giáo dục đào tạo, rút ra những bài học kinh nghiệm, trên
cơ sở đó xác định các giải pháp để đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy,
UBND tỉnh trong việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật về giáo dục
đào tạo nói riêng.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ hơn một cách có hệ thống về hệ thống pháp luật giáo dục đào tạo bao
gồm: các khái niệm về giáo dục đào tạo, pháp luật giáo dục đào tạo, áp dụng pháp luật
giáo dục đào tạo; mục tiêu, nhiệm vụ của áp dụng pháp luật giáo dục đào tạo trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế;
- Làm rõ hơn những yêu cầu cơ bản về quy trình, nội dung, chủ thể áp dụng
pháp luật giáo dục đào tạo và hiệu quả của công tác đó, chính là chất lượng giáo dục
đào tạo của các cấp học trong phạm vi toàn tỉnh;
- Nêu và phân tích thực trạng áp dụng pháp luật giáo dục đào tạo, những kết


7
quả, hạn chế, nguyên nhân của công tác giáo dục đào tạo – sản phẩm của công tác áp
dụng pháp luật.
- Đề ra quan điểm và các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về giáo dục đào tạo. Trong đó nêu ra những quan điểm, định hướng chung;
quan điểm, định hướng của tỉnh Nam Định và đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể
mang tính đặc thù của bản thân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, vai trò công tác áp dụng pháp luật giáo dục đào tạo.
- Mục tiêu, nhiệm vụ và sự cần thiết của sự nghiệp giáo dục đào tạo, thực sự là
quốc sách hàng đầu theo đúng quan điểm của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn thực
hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, xem xét các sự vật, hiện tượng một cách toàn diện, có hệ thống, tìm ra
được bản chất, mối liên hệ phổ biến; tránh chủ quan, duy ý chí. Đồng thời, Luận

văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: hệ thống, phân tích - tổng hợp, lịch sử -
cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: So sánh, khảo sát thực
tế, thống kê, logic
6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn
6.1. Điểm mới của đề tài
- Chỉ ra một cách có hệ thống về pháp luật giáo dục và đào tạo và công tác áp
dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo;
- Đã làm rõ những nguyên nhân của những hạn chế trong công tác áp dụng
pháp luật về giáo dục đào tạo của đội ngũ cơ quan có thẩm quyền, những cán bộ có
trách nhiệm trong quá trình áp dụng pháp luật về giáo dục đào tạo trên địa bàn tỉnh
Nam Định.
- Chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đồng thời nâng cao chất lượng đồng


8
đều trong giáo dục phổ thông, vừa xây dựng cơ sở giáo dục chất lượng cao cả trong
giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệp, nêu
những giải pháp để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo để
nhân rộng cả nước.
6.2. Ý nghĩa của Luận văn
- Kết quả luận văn góp phần đánh giá thực trạng công tác áp dụng pháp luật và
chất lượng của giáo dục đào tạo trong phạm vi cấp tỉnh thông qua thực tiễn tại tỉnh
Nam Định từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo
dục đào tạo và công tác áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo kịp thời đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo đối với các nhà lãnh
đạo, nhà hoạch định chính sách trong sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý điều
hành của Nhà nước, sự thực hiện pháp luật của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của việc áp dụng pháp luật về giáo dục, đào tạo.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại
tỉnh Nam Định.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện
hoạt động áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.1.1. Áp dụng pháp luật là hình thức đặc biệt của thực hiện pháp luật
Theo Từ điển Black/s Law, từ áp dụng (apply) có thể được hiểu theo nghĩa đưa
vào sử dụng với một vụ việc của một chủ thể riêng biệt (áp dụng pháp luật trong thực
tế) [29, tr.96]. Trong từ điển tiếng Việt, từ áp dụng có thể được hiểu là “Đem dùng
trong thực tế điều đã nhận thức được” [28, tr.9]. Từ các cách hiểu về từ áp dụng
trong hai từ điển trên, có thể hiểu rằng áp dụng pháp luật là đem pháp luật ra dùng
trong thực tế. Nếu hiểu theo cách này thì áp dụng pháp luật có thể dùng để chỉ tất cả
các hình thức thực hiện pháp luật mà không phải là một hình thức thực hiện pháp luật
cụ thể. Trong thực tế đã có nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ áp dụng pháp luật theo
nghĩa này.
Trong các sách báo pháp lý của Việt Nam, khái niệm áp dụng pháp luật được
đề cập với nội dung có những điểm khác nhau nhất định. Đa số các nhà nghiên cứu
coi áp dụng pháp luật chỉ là một trong các hình thức thực hiện pháp luật, song có nhà
nghiên cứu lại coi áp dụng pháp luật đồng nghĩa với thực hiện pháp luật, tức là bao
gồm tất cả các hình thức thực hiện pháp luật [14, tr.16].
Để đảm bảo cho các quy định của pháp luật được tôn trọng thực hiện trên thực

tế cần phải trải qua quá trình áp dụng pháp luật được tiến hành bởi các cơ quan nhà
nước, các cá nhân có thẩm quyền. Vì vậy người ta còn gọi áp dụng pháp luật là quá
trình thể chế hoá quyền lực và ý chí nhà nước thông qua cơ chế điều chỉnh pháp luật
trên thực tế.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì việc áp dụng pháp luật không
thể tuỳ tiện của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, mà phải là các hoạt
động, các hành vi áp dụng pháp luật được pháp luật quy định bằng các hình thức, cách


10
thức cụ thể, theo nguyên tắc “cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền chỉ được làm
những gì mà pháp luật quy định”.
Vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào
các quy định của pháp luật hiện hành để đưa ra quyết định có tính cá biệt nhằm điều
chỉnh quan hệ xã hội theo mục tiêu cụ thể.
1.1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Quan phân tích khái niệm nói trên, về cơ bản áp dụng pháp luật có các đặc
điểm sau:
- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính quyền lực nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật và đảm bảo pháp luật được thực hiện trên thực
tế; áp dụng pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền nhân
danh quyền lực nhà nước để thực thi. Nhờ có sự đảm bảo của nhà nước nên pháp luật
mới có sức mạnh bắt buộc đối với mọi chủ thể có liên quan. Tính quyền lực thể hiện ở
những điểm sau:
+ Áp dụng pháp luật chỉ được tiến hành bởi cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Không phải ai cũng có quyền áp dụng pháp luật, mà chỉ có cơ quan nhà nước,
cá nhân có thầm quyền. Cũng là cơ quan nhà nước, nhưng không có thẩm quyền áp
dụng pháp luật ở lĩnh vực đó cũng không được áp dụng pháp luật. Ví dụ: Bộ Giao
thông vận tải là cơ quan nhà nước, có chức năng quản lý nhà nước, áp dụng pháp luật

về lĩnh vực giao thông, vận tải trên phạm vi cả nước, nhưng không được áp dụng pháp
luật ở lĩnh vực tài chính trên phạm vi cả nước, mà chỉ được áp dụng tài chính trong
ngành giao thông vận tải. Pháp luật quy định chặt chẽ về thẩm quyền, điều kiện áp
dụng pháp luật theo từng lĩnh vực cũng như chế độ công vụ cụ thể để tránh tuỳ tiện
hoặc vượt rào trên thực tế [14, tr.14].
+ Áp dụng pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước.
Quá trình này có thể mang tính đơn phương của ý chí nhà nước, cũng có thể
nhà nước thừa nhận ý chí của các chủ thể. Xét về nội dung, áp dụng pháp luật phụ
thuộc vào đặc điểm của các quan hệ xã hội có liên quan và các sự kiện pháp lý cụ thể
trên thực tế [14, tr.15].


11
- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao. Áp dụng pháp luật có
tính tổ chức cao bởi vì nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức nhà
nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của pháp luật.
Hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất
chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục này thường khác nhau trong các
trường hợp áp dụng pháp luật khác nhau tuỳ theo quy định cụ thể của pháp luật.
Chẳng hạn, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể
khác với trình tự, thủ tục cấp đăng ký kết hôn hoặc khác trình tự thủ tục tuyển sinh,
đào tạo, công nhận tốt nghiệp và cấp Bằng tốt nghiệp cho người học.
Nói chung, các quyết định do các chủ thể có thẩm quyền ban hành ra trong quá
trình áp dụng pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của người được áp dụng, nó
có thể mang lại cho người ta lợi ích rất lớn (ví dụ, quyết định giao quyền sử dụng đất,
quyết định lên lương, quyết định công nhận tốt nghiệp…), song nó cũng có thể bắt
người ta phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề (ví dụ, quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, bản án hình sự…). Do vậy, để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của quá
trình áp dụng pháp luật, hoạt động này không thể được tiến hành một cách tuỳ tiện mà
phải theo những trình tự, thủ tục và trên cơ sở những điều kiện rất chặt chẽ do pháp

luật quy định. Đương nhiên, trình tự, thủ tục đó không thể như nhau trong tất cả các
vụ việc mà nó sẽ khác nhau từ vụ việc này sang vụ việc khác tuỳ theo tính chất của vụ
việc. Ví dụ, trình tự, thủ tục xem xét để cấp Đăng ký kết hôn sẽ khác với trình tự, thủ
tục công nhận tốt nghiệp cho người học, càng khác với trình tự, thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính… [14, tr.15].
- Áp dụng pháp luật có điều kiện, quy trình, thủ tục được pháp luật quy định
chặt chẽ. Đó là quá trình đặc biệt của việc thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho
pháp luật có giá trị trên thực tế, để tránh sự tuỳ tiện, hoạt động đó phải được quy định
chặt chẽ về thủ tục, trình tự, thời gian cũng như hình thức; tuỳ thuộc vào từng lĩnh
vực mà có các trình tự, thủ tục, hình thức áp dụng pháp luật khác nhau, các quy định
về thủ tục có thể là đầy đủ hoặc rút gọn theo quy định của pháp luật, không có một
trình tự chung cho tất cả các lĩnh vực áp dụng pháp luật trên thực tế.


12
- Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, hoạt động này có thể là cụ
thể hoá quyền, nghĩa vụ hoặc cá biệt hoá chế tài quy phạm pháp luật [14, tr.16]. Về
phía chủ thể, nhờ có áp dụng pháp luật mới xác định được giới hạn pháp lý cần thiết
cả về nội dung của quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, cũng như trách nhiệm pháp lý có
liên quan khi tham gia quan hệ pháp luật, áp dụng pháp luật là hoạt động cần phải
dược chi tiết hoá một cách chính xác, tỉ mỉ về những yêu cầu chung thành những yêu
cầu sát thực với chính điều kiện mà quy phạm đó tồn tại.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo cao của chủ thể có
thẩm quyền. Các chủ thể có thẩm quyền chủ động phân tích đánh giá các tình huống
có thể xảy ra để tìm kiếm khả năng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất. Tính
sáng tạo trong quá trình áp dụng pháp luật đòi hỏi rất cao, không thụ động, máy móc,
bởi nếu không sẽ không đảm bảo tính thời hiệu, thời hạn theo quy định của pháp luật
đặt ra cho việc xử lý các vụ việc. Sáng tạo chủ yếu là ở góc độ kỹ thuật, tổ chức, chứ
không phải sáng tạo về mặt nội dung.
- Kết quả của việc áp dụng pháp luật là ban hành các quyết định áp dụng pháp

luật mang tính cá biệt. Đó là các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang
tính cá biệt của người có thẩm quyền để thực hiện các quy định của pháp luật
1.1.2. Hình thức và quy trình áp dụng pháp luật
1.1.2.1. Hình thức áp dụng pháp luật
Hình thức áp dụng pháp luật trên thực tế vô cùng đa dạng, linh hoạt, xét về khả
năng hiện thực hoá quyền và nghĩa vụ pháp lý thì có thể thấy hoạt động áp dụng pháp
luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt.
Xem xét nội dung các quy định cụ thể của pháp luật, ta thấy, mặc dù trong
nhiều quy phạm pháp luật đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể,
song các chủ thể không thể tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó mà cần
phải có sự can thiệp của nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan, tổ chức hoặc


13
cá nhân có thẩm quyền. Ví dụ, trong Hiến pháp và luật đã thừa nhận quyền và nghĩa
vụ học tập cho công dân, song công dân chỉ có thể thực hiện dược quyền và nghĩa vụ
ấy khi được gọi nhập học và theo học trong một cơ sở đào tạo nào đó. Chính hoạt
động chiêu sinh và tổ chức đào tạo của các cơ sở đào tạo đã giúp cho công dân thực
hiện được quyền và nghĩa vụ học tập của mình. Tương tự như vậy, nếu một người nào
đó không được bổ nhiệm vào một chức vụ cao hơn trong cơ quan thì quan hệ pháp
luật giữa người đó với cơ quan không hề thay đổi. Kể từ thời điểm có quyết định bổ
nhiệm của người có thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ pháp lý của người được bổ nhiệm
với cơ quan đã có sự thay đổi so với trước. Nếu không có quyết định cho nghỉ hưu
của cơ quan thì quan hệ pháp luật lao động giữa một người nào đó với cơ quan vẫn
chưa chấm dứt. Như vậy, có thể thấy, nếu không có sự can thiệp của một cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì nhiều quan hệ pháp
luật cụ thể không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt. Chính hoạt động áp dụng
pháp luật của chủ thể có thẩm quyền đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt

quan hệ pháp luật.
Thứ hai, khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể
mà họ không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can thiệp của một chủ thể
có thẩm quyền.
Nếu như trong trường hợp trên, phải nhờ hoạt động áp dụng pháp luật mới làm
phát sinh một quan hệ pháp luật cụ thể thì trường hợp này khác ở chỗ một quan hệ
pháp luật cụ thể đã phát sinh, các bên chủ thể đã có quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với
nhau, nhưng một trong các bên hoặc tất cả các bên không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý của mình nên dẫn đến tranh chấp mà
họ không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can thiệp của một chủ thể có
thẩm quyền. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ đóng vai trò là trọng tài để
giải quyết tranh chấp đó. Ví dụ, một người cho thuê nhà kiện ra toà án đòi nhà cho
thuê, toà án thụ lý và giải quyết vụ án đó tức là áp dụng pháp luật để giải quyết tranh
chấp giữa người cho thuê nhà với người thuê nhà.


14
Thứ ba, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với các chủ
thể vi phạm pháp luật.
Để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác
bởi mọi chủ thể trong xã hội, nhiều quy phạm pháp luật đã quy định các biện pháp
cưỡng chế nhà nước cần áp dụng với người vi phạm trong phần chế tài của nó. Việc
áp dụng một biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể với một chủ thể cụ thể là bắt họ
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi hay những sự thiệt hại nhất định về tài
sản, về nhân thân, về tự do… Vì thế, để đảm bảo công bằng xã hội, chỉ có các chủ thể
có thẩm quyền mới có thể áp dụng và hoạt động áp dụng của họ phải được tiến hành
theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ cho
trường hợp này là việc cảnh sát giao thông xử phạt người vi phạm luật giao thông,
Hội đồng kỷ luật nhà trường xử lý kỷ luật đối với cán bộ, giáo viên hoặc sinh viên vi
phạm kỷ luật

Thứ tư, khi cần áp dụng sự cưỡng chế của nhà nước đối với các chủ thể không
vi phạm pháp luật mà chỉ vì lợi ích chung của xã hội.
Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có và đều quan tâm đến lợi ích riêng của
mình và những lợi ích chính đáng sẽ được nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên, có những
trường hợp đặc biệt, để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả cộng đồng, nhà
nước buộc phải xâm hại đến lợi ích riêng của những chủ thể nhất định. Để bảo đảm
tính đúng đắn, hợp tình, hợp lý của sự “xâm hại” đó, nhà nước phải quy định cụ thể
trong pháp luật các biện pháp “xâm hại”, chủ thể, điều kiện, trình tự, thủ tục để áp
dụng các biện pháp đó. Khi một chủ thể cụ thể nào đó bị áp dụng một trong các biện
pháp đó có nghĩa là họ đã phải gánh chịu sự cưỡng chế của nhà nước, họ đã phải chịu
những sự thiệt hại nhất định mặc dù họ không vi phạm pháp luật mà hoàn toàn chỉ vì
lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Ví dụ, để phục vụ cho việc xây dựng các
công trình công cộng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã phải ra quyết định thu hồi
đất của các chủ thể đang có quyền sử dụng hợp pháp trên diện tích đất đó, và đương
nhiên, các chủ thể đang sử dụng phải giao lại đất đó cho nhà nước và nhận sự đền bù
của nhà nước.


15
Thứ năm, khi cần áp dụng các hình thức khen thưởng đối với các chủ thể có
thành tích theo quy định của pháp luật.
Pháp luật của các nhà nước đương đại không chỉ quy định các biện pháp trừng
phạt đối với các chủ thể vi phạm pháp luật mà còn quy định nhiều hình thức khen thưởng
đối với các chủ thể có thành tích trong những hoạt động nhất định hoặc trong việc thực
hiện pháp luật. Mục đích của việc quy định các biện pháp đó là nhằm đền đáp công ơn
của những người có công với đất nước, với xã hội; để khuyến khích, động viên các chủ
thể nhiệt tình công tác, phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong hoạt động của mình
cũng như để khuyến khích các chủ thể tự giác thực hiện tốt pháp luật, làm cho pháp luật
được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn. Vì thế, ở Việt Nam, bên cạnh Bộ
luật hình sự và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn có Luật thi đua, khen thưởng, và

trong đa số các văn bản quy phạm pháp luật đều có quy định việc khen thưởng những
người thực hiện tốt những quy định trong văn bản trước khi quy định việc xử phạt đối với
những người vi phạm nó. Ví dụ, việc các chủ thể có thẩm quyền xét tặng bằng khen,
danh hiệu vinh dự nhà nước cho một chủ thể nào đó chính là áp dụng pháp luật trong
trường hợp này.
Thứ sáu, khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của
các chủ thể trong một số quan hệ pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật.
Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, các chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ
nhất định do pháp luật quy định. Có những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực
hiện nó chỉ liên quan đến lợi ích của cá nhân người thực hiện, song có những quyền
và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện nó lại liên quan đến lợi ích của các chủ thể
khác, lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đó để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của nó.
Hoạt động kiểm tra, giám sát đó chỉ do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo trình
tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ: hoạt động giám sát của Quốc hội đối
với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… là nhằm áp dụng Luật giám sát của Quốc hội;
hoạt động của cơ quan kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án…


16
Thứ bảy, khi cần phải xác nhận sự tồn tại của một sự kiện thực tế cụ thể nào
đó theo quy định của pháp luật.
Trong thực tế có những thứ giấy tờ, bằng cấp, chứng chỉ có giá trị pháp lý lâu
dài mà chủ thể của nó cần phải cất giữ cẩn thận. Song thỉnh thoảng, các giấy tờ đó lại
cần phải được sao chụp để chứng minh cho sự hiện diện và tồn tại của nó trong thực
tế. Hoạt động chứng thực của uỷ ban nhân dân, của cơ quan công chứng nhằm tạo ra
cơ sở pháp lý cho các giấy tờ, văn bằng nhất định… là sự áp dụng các quy định của
pháp luật công chứng trong thực tế.
1.1.2.2. Quy trình áp dụng pháp luật

Quy trình là các bước, trình tự phải tuân theo khi tiến hành công việc nào đó.
Áp dụng pháp luật là một quy trình bao gồm nhiều hoạt động có mối liên hệ hữu cơ
với nhau, do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo qui định của pháp luật nhằm cá
biệt hoá chế tài pháp luật hoặc cá thể hoá quyền nghĩa vụ pháp lý đối với chủ thể. Do
pháp luật điều chỉnh đa dạng các lĩnh vực nên việc áp dụng pháp luật cũng rất đa
dạng. Trên thực tế, sự khác biệt về nội dung, yêu cầu ở các lĩnh vực điều chỉnh của
pháp luật đã đem lại sự khác biệt nhất định về quá trình thực thi và áp dụng pháp luật.
Không thể có qui trình áp dụng pháp luật chung cho mọi lĩnh vực, mọi quan hệ xã hội.
Tóm lại, qui trình áp dụng pháp luật là trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt
động có mối liên hệ hữu cơ, thống nhất với nhau do các chủ thể có thẩm quyền thực
hiện nhằm hiện thực hoá nội dung các qui định pháp luật trong đời sống khi giải
quyết các vụ việc pháp lý cụ thể [14, tr.22].
Qui trình áp dụng pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau:
- Qui trình áp dụng pháp luật do pháp luật qui định
Áp dụng pháp luật là một hoạt động đặc thù của nhà nước trong quản lý xã hội.
Áp dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước. Toàn bộ các hoạt động, các bước
(hay giai đoạn) của qui trình áp dụng pháp luật do pháp luật qui định. Các hoạt động
trong quá trình áp dụng pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Điều
đó đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện quyền
nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ qui định của pháp luật. Ngay cả các chủ thể


17
không có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật nhưng có liên quan đến việc áp
dụng pháp luật cũng không thể tuỳ tiện tiến hành các hoạt động trái hoặc không được
pháp luật cho phép. Do được pháp luật điều chỉnh nên, qui trình áp dụng pháp luật có
liên quan đến cả hai loại quy phạm pháp luật là quy phạm pháp luật nội dung và qui
phạm pháp luật hình thức hay qui phạm thủ tục.
- Qui trình áp dụng pháp luật chịu sự quy định của nội dung và tính chất của
vụ việc cần giải quyết

Khi áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải xác định được nội
dung và tính chất của vụ việc cần giải quyết rồi trên cơ sở đó mới có thể lựa chọn
đúng quy trình cần tiến hành. Nghĩa là chúng ta không thể lấy thủ tục áp dụng pháp
luật trong lĩnh vực này để tiến hành cho lĩnh vực khác. Chẳng hạn, không thể lấy quy
trình xét xử các vụ án hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự để thay thế
cho thủ tục xét xử các vụ án dân sự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự được.
Điều này cho thấy, qui trình áp dụng pháp luật bao gồm nhiều hoạt động cụ thể khác
nhau và do nhiều chủ thể tiến hành nhưng nó có liên quan chặt chẽ đến nội dung của
vụ việc cần giải quyết.
- Tham gia quy trình áp dụng pháp luật luôn có một chủ thể nhân danh nhà nước
hoặc được phép sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật
Nói đến áp dụng pháp luật là nói đến vai trò của nhà nước trong giải quyết các
vấn đề pháp lý thực tiễn. Thực chất của áp dụng pháp luật là quá trình thể chế hóa
quyền lực nhà nước để điều chỉnh sự kiện cụ thể. Chính vì lẽ đó, tham gia qui trình áp
dụng pháp luật luôn luôn có mặt chủ thể nhân danh nhà nước hoặc được phép sử dụng
quyền lực nhà nước, chủ thể này trực tiếp tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, có
vai trò quyết định trong quá trình áp dụng pháp luật và là chủ thể có quyền đưa ra
quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc. Chủ thể đó chủ yếu là các cơ
quan, tổ chức nhà nước hoặc các cá nhân đảm trách nhiệm vụ trong các cơ quan, tổ
chức đó tiến hành, song cũng có thể do các cơ quan, tổ chức được nhà nước cho phép
hoặc trao quyền tiến hành. Ví dụ, các cơ sở đào tạo do Nhà nước thành lập hoặc cho
phép thành lập đều có thể áp dụng pháp luật trong việc tổ chức tuyển sinh, đào tạo,


18
công nhận tốt nghiệp và cấp bằng cho người học.
Các hoạt động áp dụng pháp luật đa dạng và cần được đảm bảo bởi sức mạnh quyền
lực nhà nước thì các chủ thể có liên quan mới tôn trọng thực thi một cách hợp pháp.
Qui trình áp dụng pháp luật có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác
nhau.

- Dựa trên nội dung thực tế của hoạt động áp dụng pháp luật có thể phân thành
qui trình truy cứu trách nhiệm pháp lý và qui trình cá thể hoá quyền, nghĩa vụ pháp lý.
Qui trình truy cứu trách nhiệm pháp lý là các bước tiến hành tố tụng bao gồm nhiều
hoạt động do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành nhằm cá biệt hoá chế tài pháp luật,
áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Truy cứu trách
nhiệm pháp lý là hoạt động được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau do đó, mỗi
chủ thể tham gia vào một khâu nhất định trong các giai đoạn của qui trình đó. Chẳng
hạn, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cần trải qua các giai đoạn
như khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Các giai đoạn đó được quyết định bởi các chủ
thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự như công an, viện kiểm sát, tòa án và có
nhiều cơ quan, cá nhân khác tham gia tố tụng. Qui trình cá thể hóa quyền, nghĩa vụ
pháp lý có sự khác biệt với qui trình truy cứu trách nhiệm pháp lý là nó không liên
quan đến vi phạm pháp luật mà đơn thuần chỉ xác định nội dung, phạm vi quyền và
nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật mà thôi.
- Dựa trên trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động cụ thể trên thực tế có thể phân
thành qui trình đầy đủ và qui trình rút gọn. Qui trình đầy đủ là qui trình bao gồm đầy
đủ các hoạt động của các giai đoạn áp dụng pháp luật. Còn qui trình rút gọn là qui
trình không nhất thiết phải trải qua đầy đủ các hoạt động của các giai đoạn áp dụng
pháp luật.
- Qui trình áp dụng pháp luật có thể được nhận diện theo từng lĩnh vực điều
chỉnh pháp luật, chẳng hạn như qui trình áp dụng pháp luật dân sự trong việc thừa
nhận, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu, trong việc giải quyết các tranh
chấp dân sự; quy trình áp dụng pháp luật đất đai trong việc cấp giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, quy trình áp dụng pháp luật lao động trong


19
việc tuyển dụng lao động, trong việc tăng lương hoặc xử lý kỷ luật đối với người lao
động v.v.
Áp dụng pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có

thẩm quyền để áp dụng các quy định của pháp luật vào cuộc sống, vì vậy nó cũng có
các giai đoạn, quá trình áp dụng mang tính chung nhất, không chó riêng cho từng lĩnh
vực, áp dụng cho từng lĩnh vực cần đòi hỏi tính sáng tạo. Quy trình áp dụng pháp luật
gồm các giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Phân tích, đánh giá nội dung, điều kiện hoàn cảnh, sự kiện thực
tế cần áp dụng: Đây là giai đoạn khởi đầu của cả quá trình áp dụng pháp luật, nên nó
có tính chất bản lề, trước hết cần xác định rõ đối tượng, phạm vi, hoàn cảnh, bản chất
pháp lý của sự kiện đó, nếu xác định bản chất pháp lý không chính xác thì toàn bộ quá
trình áp dụng pháp luật sẽ sai và gây hậu quả pháp lý, hậu quả xã hội không dự toán
hết được. Vì vậy, cần áp dụng pháp luật thì phải làm rõ chủ thể nào có thẩm quyền
giải quyết sự kiện đó, điều chỉnh quan hệ pháp luật đó. Cần chuẩn bị về mặt tổ chức,
nhân sự, kỹ thuật, cũng như xác định thời gian, thời điểm tiến hành áp dụng pháp luật.
Đồng thời, cũng phải lường hết được những thuận lợi, khó khăn, hậu quả pháp lý, hậu
quả xã hội, những rủi do có thể gây cản trở việc áp dụng pháp luật. Đồng thời phải lựa
chọn một hướng thuận lợi, tiết kiệm, hiệu quả về chi phí thời gian, sức lực, vật chất.
Từ đó chuẩn bị một phương án tỉ mỉ, chi tiết cả về nội dung, hình thức cũng như
phương thức, lịch trình tiến hành. Nếu thấy chưa đủ hoặc không cần thiết phải tiến
hành áp dụng pháp luật thì các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc
áp dụng pháp luật.
* Giai đoạn 2: Lựa chọn quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đưa ra
các quyết định áp dụng pháp luật: Đây là giai đoạn quan trọng trong quá trình áp
dụng pháp luật, nếu không đưa ra cơ sở pháp lý có tính thuyết phục, phù hợp sẽ ảnh
hưởng trực tiếp các giai đoạn sau. Cần phải lựa chọn quy phạm pháp luật còn hiệu lực
và sát với quan hệ cần điều chỉnh, thuộc loại quan hệ nào, quan hệ pháp luật đó thuộc
ngành luật nào điều chỉnh. Trên thực tế, việc lựa chọn quan hệ pháp luật thường xảy
ra các khả năng sau:

×