Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

tài trợ xuất nhập khẩu trong luật hợp đồng thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.01 KB, 77 trang )

1

MỤC LỤC
Chữ viết tắt 3
MỞ ĐẦU 4
Chương 1: Lý luận chung về các loại hợp đồng tài trợ tài chính cho các hoạt động xuất
nhập khẩu trong hoạt động thương mại quốc tế 5
1.1 Lịch sử hình thành về hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu 5
1.2 Hợp đồng thuê TCQT 10
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm 10
1.2.1.1Khái niệm 10
1.2.1.2 Đặc điểm 12
1.2.2 Phân loại 15
1.2.3 Căn cứ pháp lý của hợp đồng thuê TCQT 17
1.2.4 Hợp đồng thuê tài chính 18
1.2.4.1 Các điều khoản cơ bản của hợp đồng thuê tài chính 18
1.2.4.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên 20
1.2.5 Chấm dứt hợp đồng thuê tài chính 23
1.3 Hợp đồng bao thanh toán quốc tế (Factoring) 24
1.3.1 Khái niệm, đặc điểm 24
1.3.1.1 Khái niệm 24
1.3.1.2 Đặc điểm 27
1.3.2 Phân loại 27
1.3.3 Luật áp dụng 30
1.3.4 Sự khác biệt giữa bao thanh toán với các quan hệ tương tự 31
1.3.5 Nội dung hợp đồng bao thanh toán 35
1.3.5.1 Đối tượng của hợp đồng bao thanh toán 35
1.3.5.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bao thanh toán 36
1.3.5.3 Khi người bán không thực hiện nghĩa vụ từ hợp đồng mua bán 41
1.4 Bảo lãnh NH 41
1.4.1 Khái quát BLNH 41


2

1.4.1.1 Khái niệm 41
1.4.1.2 Đặc điểm 43
1.4.2 Phân loại BLNH 47
1.4.2.2 Bảo lãnh bảo đảm thực hiện 48
1.4.2.3 Bảo lãnh để hoàn lại tiền đặt cọc (Bảo lãnh hoàn thanh toán) 49
1.4.2.4 Bảo lãnh thanh toán 50
1.4.2.5 Bảo lãnh thanh toán vô điều kiện( Bảo lãnh theo yêu cầu) 52
1.4.2.6 Bảo lãnh có điều kiện (Bảo lãnh thanh toán kèm chứng từ) 52
1.4.3 Căn cứ pháp lý của BLNH trong thương mại quốc tế 53
1.4.4 Hợp đồng BLNH 53
1.4.4.1 Kí kết hợp đồng BLNH 54
1.4.4.2 Thực hiện BLNH 55
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị cho hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Việt Nam . 57
2.1 Thực trạng 57
2.1.1 Về hoạt động thuê TCQT 57
2.1.1.1 Tình hình chung của hoạt động thuê TCQT 57
2.1.1.2 Lợi ích và hạn chế của hoạt động CTTC tại Việt Nam 58
2.1.2 Về hoạt động bao thanh toán quốc tế 60
2.1.2.1 Tình hình chung về hoạt động bao thanh toán 60
2.1.2.2 Lợi ích và hạn chế của hoạt động bao thanh toán hiện nay 62
2.1.3 Về hoạt động bảo lãnh 65
2.1.3.1 Tình hình chung của hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của NH 65
2.1.3.2 Lợi ích và hạn chế của nghiệp vụ BLNH 66
2.2 Kiến nghị khắc phục những hạn chế trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu 70
2.2.1 Trong hoạt động CTTC 70
2.2.2 Trong hoạt động bao thanh toán 71
2.2.3 Trong hoạt động BLNH 72
KẾT LUẬN 75

Tài liệu tham khảo 76
3


Chữ viết tắt
NHTM
Ngân hàng thương mại
NH
Ngân hàng
CTTC
Cho thuê tài chính
TCQT
Tài chính quốc tế
BLNH
Bảo lãnh ngân hàng
4

MỞ ĐẦU
Đối với mỗi quốc gia, phát triển nền kinh tế luôn là vấn đề được quan tâm hàng
đầu. Để làm được điều này, bên cạnh chú trọng phát triển nội thương, các quốc gia còn
phải đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế
đối ngoại luôn là một trong những định hướng phát triển của nhiều quốc gia. Xác định
được tầm quan trọng này, vấn đề cần thiết là tìm cách thúc đẩy ngoại thương phát triển
sao cho phát huy được tối đa vai trò của hoạt động này đối với nền kinh tế. Hoạt động
thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên giới quốc gia sẽ là
cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế nước ngoài, đồng thời tạo ra động lực
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên thế giới. Thương mại quốc tế
được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản là xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, xác định được
vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là
nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế.

Đóng vai trò quan trọng và trực tiếp thực hiện các hoạt động thương mại quốc tế là
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Đồng thời, bên cạnh nhu cầu về vốn thì vấn đề luôn
luôn được các doanh nghiệp quan tâm là các biện pháp hạn chế rủi ro trong quá trình thực
hiện các hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Đây là các yếu tố nền tảng
để tiến hành sản xuất kinh doanh, do đó, các dịch vụ tài chính nhằm đảm bảo hiệu quả
của hoạt động xuất nhập khẩu luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp.
Từ tình hình thực tế này, với đề tài “Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu”, nhóm sẽ
tiến hành phân tích các hoạt động CTTC, bao thanh toán và bảo lãnh ở các tổ chức tài
chính và các công ty chuyên biệt, từ đó đánh giá về tình hình tài trợ xuất nhập khẩu hiện
nay và đề ra các phương hướng phát triển, hoàn thiện hoạt động này trong thời gian tới.
Nhóm thực hiện rất mong nhận được những nhận xét, góp ý từ cô và các bạn!

5

Chương 1: Lý luận chung về các loại hợp đồng tài trợ tài chính cho các hoạt động
xuất nhập khẩu trong hoạt động thương mại quốc tế
1.1 Lịch sử hình thành về hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh tế quốc dân và ngày càng được mở rộng và phát triển. Ngay từ xa xưa, hoạt
động này rất cần đến sự hỗ trợ của các NH. Trong các hội chợ thương mại diễn ra ở thế
kỷ 12, các NH đầu tiên thường giữ vai trò tổ chức trung gian trao đổi cần thiết, cho phép
thực hiện các giao dịch giữa những người buôn bán với nhau từ khắp các khu vực châu
âu và bằng các đồng tiền khác nhau.
Có thể nói, để một thương vụ thành công, bên cạnh vấn đề chất lượng, giá cả,
thương hiệu, của sản phẩm thì vấn đề tài chính phục vụ nó được đặt ra không kém phần
quan trọng. Hoạt động ngoại thương ngày càng được mở rộng về quy mô, với số thành
viên tham gia ngày càng lớn đã làm cho nhu cầu về hoạt động tài chính ngày càng trở nên
cấp thiết, đặc biệt là trong thương mại xuyên lục địa. Việc tạo điều kiện thuân lợi về mặt
tài chính đã là công cụ của hoạt động cạnh tranh bên cạnh các yếu tố khác.
Hoạt động xuất nhập khẩu càng phát triển thì các hình thức thanh toán cũng đa

dạng và tất yếu dẫn tới sự đa dạng của các hình thức tài chính tài trợ xuất nhập khẩu. Mỗi
một hình thức thanh toán đòi hỏi phải có một hình thức tài chính tương ứng, phục vụ nó
và đảm bảo cho nó. Ngược lại, hoạt động tài chính đối ngoại ngày càng được mở rộng
bao nhiêu thì mối quan hệ thương mại càng được mở rộng bấy nhiêu. Chất lượng của
hoạt động tài chính ngoại thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng trong thương mại,
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu thông hàng hoá, tạo thêm sức mạnh cạnh tranh
trên toàn thế giới. Một số loại giao dịch nhằm mục đích tài trợ tài chính cho hoạt động
xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến bao gồm: Thuê tài chính, Bao thanh toán, BLNH.
- Thuê tài chính
Thuê tài chính mà nguồn gốc đầu tiên là thuê tài sản đã được sáng tạo ra từ rất
sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch thuê tài sản đã
xuất hiện từ năm 2800 tr.CN tại thành phố Sumerian thuộc Iraq ngày nay. Các thầy tu giữ
vai trò người cho thuê, người thuê là những nông dân tự do. Tài sản được đem giao dịch
6

bao gồm: Công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa, ruộng đất; nói chung bao
gồm nhiều loại tài sản rất đa dạng.
Tuy nhiên các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền
thống (Traditional Lease). Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương
thức thuê mua vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó, đã
không có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch.
Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua thuần (Net
Lease hay thuê tài chính - Finance Lease, hay còn gọi là thuê tư bản - Capital Lease) đã
được sáng tạo ra trước tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1952, do công ty tư nhân Unitel State
leasing Corporation sáng tạo ra. Sau đó nghiệp vụ thuê mua tài chính phát triển mạnh và
lan rộng ra khắp các châu lục.
Chính thức xuất hiện từ năm 1996 tại Việt Nam,hoạt động thuê tài chính dường
như còn rất mới mẻ. Nguyên nhân là do nền kinh tế Việt Nam mới mở cửa chưa được bao
lâu, thói quen giao dịch tín dụng với các NH hoặc tổ chức tín dụng khác hầu như không
thay đổi của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, thói quen đó

trong thời gian dài vẫn tồn tại ngoài các yếu tố như: lãi suất đi thuê chưa thật sự hấp dẫn,
hoạt động CTTC trên thực tế còn vướng một số chính sách cơ chế cần sửa đổi, tháo gỡ
cho phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội,… thì một phần lớn là do thông tin
về họat động CTTC, các tiện ích mà các công ty CTTC mang lại cho khách hàng khi sử
dụng dịch vụ thuê tài chính chưa thật đầy đủ. Nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất
cấp tín dụng của dịch vụ CTTC, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ CTTC
mang lại.
- Bao thanh toán
Bao thanh toán xuất phát từ đại lý hưởng hoa hồng, những người thực hiện việc
mua bán và luân chuyển hàng hóa khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã. Do hệ
thống thông tin còn sơ khai, đại lý hoa hồng thực hiện chức năng marketing quan trọng
trong giao dịch thương mại giữa nhà sản xuất nước ngoài và người mua trong nước. Là
đại lý, họ nắm giữ quyền sở hữu (chứ không phải danh nghĩa) của hàng hóa bên ủy nhiệm
– nhà sản xuất nước ngoài – rồi giao hàng hóa đó cho người mua trong nước, ghi sổ
7

doanh thu/thu nợ và thu nợ khi đến hạn, chuyển dư nợ cho bên uỷ nhiệm thu sau khi đã
trừ phần hoa hồng của mình.
Với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp Anh vào thế kỷ 14 và thế kỷ 15
là sự lớn mạnh trong tầm quan trọng của đại lý bao thanh toán. Khi họ dần dần tin cậy
vào khả năng trả nợ của người mua trong nước mà họ giao dịch cùng, họ bắt đầu cấp tín
dụng cho người ủy nhiệm mình để lấy hoa hồng cao hơn. Thực tế là, với khoản hoa hồng
nhiều hơn, đại lý bao thanh toán bắt đầu bảo đảm khả năng trả nợ của người mua bằng
cách hứa trả cho người ủy nhiệm trong tương lai, nếu người mua không thể trả nợ đúng
hạn do khả năng tài chính không cho phép. Không lâu trước đó, là kết quả tự nhiên của
việc bảo lãnh tín dụng, đại lý thanh toán có đủ vốn bắt đầu trả trước một phần (tạm ứng)
cho người ủy nhiệm của mình dựa trên khoản thanh toán của người mua trong tương lai
hoặc là của đại lý bao thanh toán, nếu người mua không trả tiền và nếu nó bảo lãnh khoản
tín dụng đó của người mua. Do có những khoản tạm ứng này mà đại lý bao thanh toán
tính thêm phí hoa hồng hay lãi suất. Thông thường, để tránh khỏi tình trạng không thanh

toán hay thanh toán không đủ do những vấn đề không thuộc phạm trù tín dụng như là
người mua khiếu nại nguời bán về số lượng, chất lượng hàng hóa hay thời gian giao hàng
không đúng hạn, đại lý bao thanh toán không tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng.
Thay vào đó, họ sẽ giữ lại một phần để dự trữ phải trả cho người bán cho tới khi tất cả
những sự việc không thanh toán không còn tồn tại nữa. Người mua thường được thông
báo là đại lý bao thanh toán đã mua quyền nhận thanh toán của họ. Vào thời điểm
Columbus phát hiện ra Châu Mỹ năm 1492, đại lý bao thanh toán đã phát triển từ vai trò
duy nhất với chức năng marketing thành đóng hai vai trò vừa có chức năng marketing
vừa có chức năng tài chính.
Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chế độ thực dân Mỹ, và cùng với nó là vai trò
ngày càng tăng và nhiều cơ hội mới cho bao thanh toán – đặc biệt là đối với những người
thiết lập hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Khoảng cách giữa Châu Âu và thị trường thực
dân rất lớn và càng trở nên lớn hơn khi Mỹ mở rộng biên giới phía Tây của nó. Khoảng
cách lớn này khiến cho các nhà sản xuất Châu Âu khó quen với thị trường Châu Mỹ và
sự tin cậy về tín dụng của những khách hàng tiềm năng. Điều này cũng làm cho vòng
tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất đến khi nhận được thanh toán cuối cùng dài hơn. Kết
hợp những yếu tố trên tạo nên sự căng thẳng đáng kể đối với những nhà sản xuất này. Vì
vậy, những đại lý bao thanh toán người Mỹ quen thuộc với thị trường và người mua trong
8

nước họ, được tổ chức để cung cấp cho các nhà sản xuất Châu Âu những dịch vụ
marketing và tài chính tương tự như trước đây những người anh em của họ ở nước khác
đã từng làm.
Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương mại đã xảy
ra. Ở trong nước, Mỹ phát triển thành một quốc gia chủ quyền và trở nên ít bị phụ thuộc
vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành công nghiệp trong nước là do dân số
và lực luợng lao động trong nước tăng rất nhanh, tài nguyên thiên nhiên dư thừa, và sự
áp đặt biểu thuế gắt gao đối với hàng hóa nước ngoài. Đồng thời, những nhà sản xuất Mỹ
phát triển đội ngũ kinh doanh (marketing) của mình và vì vậy, nhu cầu chức năng
marketing mà trước đây các đại lý bao thanh toán thường thực hiện giảm đi. Tuy nhiên,

môt lần nữa, các đại lý bao thanh toán lại phát triển và điều chỉnh theo nhu cầu của nền
kinh tế mới trong nước, tập trung vào tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính
(thường là thông báo cho người mua việc bán các khoản phải thu). Việc giao cho các đại
lý bao thanh toán thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản xuất ngành dệt của
Mỹ tập trung vào sản xuất và tiếp thị trong thời kỳ phát triển rất nhanh này. Khi các nhà
sản xuất Mỹ mở rộng vào đầu thế kỷ 20 sang các sản phẩm may mặc và phụ
kiện, đồ nội thất và thảm thì các đại lý bao thanh toán của Mỹ cũng mở rộng chuyên
môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp này.
Đến giữa thế kỷ 20, bao thanh toán của Mỹ phát triển sang những ngành công
nghiệp mới đang phát triển như điện, hoá chất, và sợi tổng hợp. Ngày nay, để làm dịu
bớt nhu cầu kiểm soát hàng hóa về mặt vật lý, bao thanh toán đã mở rộng sang nhiều
ngành nghề khác như giao nhận, cung cấp nhân sự tạm thời, quảng cáo, thiết kế đồ
họa,… Tuy có những tình cảnh đặc biệt này, nhưng chúng ta cũng sẽ thấy một số lượng
giới hạn các đại lý bao thanh toán cung cấp những dịch vụ của mình trong những ngành
công nghiệp có ảnh hưởng liên quan.
- BLNH
Hoạt động bảo lãnh đã có từ thời kỳ cổ Hy lạp trong những giao dịch nhỏ lẻ, dù rất
sơ khai. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, BLNH bắt đầu được sử dụng tại các nước Tây
Âu và Hoa Kỳ. Đến những năm 70, thương mại mậu dịch quốc tế ngày càng phát triển đã
làm gia tăng nhu cầu đa dạng hóa và hợp pháp hóa công cụ tài trợ và bảo đảm quốc tế có
tính linh hoạt, được tin tưởng, phù hợp với tập quán quốc tế và không trái với luật pháp
9

quốc gia, ngoài phương thức tín dụng chứng từ truyền thống. BLNH đáp ứng được các
yêu cầu này và được sử dụng ngày càng phổ biến.
Ngày nay, BLNH được sử dụng rất rộng rải và đáp ứng được nhu cầu phát triển
của nền kinh tế tại các quốc gia, các khu vực và trên toàn thế giới. Doanh số BLNH gia
tăng nhanh chóng. Không chỉ được sử dụng trong mọi lĩnh vực các nước phát triển,
BLNH còn là phương tiện bảo đảm khá phổ biến trong giao dịch kinh tế và dân sự ở các
quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, hầu hết các giao dịch quốc tế lớn đều có sự hỗ trợ của

BLNH.
Tại Việt Nam, trước năm 1975, một số NH thuộc chế độ cũ ở Sài Gòn đã cung cấp
dịch vụ BLNH. Sau khi đất nước thống nhất, hoạt động này được thực hiện từ cuối những
năm 80 của thế kỷ XX, trong giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường. Đến
những năm 90, khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới, hoạt động NH trở nên đa dạng và BLNH được phát triển như một tất yếu khách
quan. Nhưng do thiếu sự chỉ đạo thống nhất bằng 2 các văn bản pháp lý nên hoạt động
BLNH thời kỳ này thiếu hiệu quả.Từ những năm 1994 – 1995, hoạt động bảo lãnh dần
được hoàn thiện nhờ việc ban hành một số quy định thống nhất. Những năm sau đó, cùng
với xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế trong và ngoài nước, BLNH đã nhanh chóng phát
triển. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm về doanh số và dư nợ bảo lãnh của các NHTM ngày
càng tăng. Các hình thức bảo lãnh được áp dụng ngày càng đa dạng, với doanh số ngày
càng cao cho thấy tiềm năng phát triển của dịch vụ này trong nền kinh tế nước ta là rất
lớn. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cơ
hội hợp tác và mở rộng thương mại quốc tế ngày càng nhiều; cùng với đó, nhu cầu sử
dụng các dịch vụ tài chính – NH ngày càng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động NH nói chung và BLNH nói riêng phát triển.





10

1.2 Hợp đồng thuê TCQT
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm
1.2.1.1Khái niệm
Theo quy định tại khoản 7, điều 3 nghị định 39/2014/NĐ- CP thì: “CTTC là hoạt
động cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng CTTC giữa bên CTTC với bên
thuê tài chính. Bên CTTC cam kết mua tài sản CTTC theo yêu cầu của bên thuê tài chính

và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản CTTC trong suốt thời hạn cho thuê. Bên thuê tài
chính sử dụng tài sản thuê tài chính và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê quy
định trong hợp đồng CTTC.”
Vậy hợp đồng CTTC là gì? Hợp đồng CTTC lần đầu tiên được định nghĩa tại
LEASEUROPE
1
năm 1983, theo đó thuê tài chính động sản được đầu tư là máy móc thiết
bị của nhà máy xí nghiệp với mục đích sử dụng chuyên nghiệp. Những tài sản này trước
hết được các công ty CTTC mua riêng để cho thuê và vẫn thuộc sở hữu của người cho
thuê trong thời hạn hợp đồng. Như vậy:
- Người thuê tài chính tự chọn đối tượng của thuê tài chính, tự lựa chọn
người bán và sau đó sử dụng đối tượng này cho các mục đích kinh doanh thương mại
của mình.
- Người cho thuê mua đối tượng cho thuê và là chủ sở hữu của đối tượng này
trong thời gian hợp đồng thuê tài chính có hiệu lực.
- Người thuê phải chịu mọi rủi ro liên quan đến đối tượng và việc sử dụng
này.
- Thời gian của hợp đồng thuê tài chính phụ thuộc vào thời gian hao mòn của
máy móc thiết bị.
- Khi hết thời hạn của hợp đồng, người thuê có quyền hoặc trả lại tài sản thuê,
hoặc gia hạn hợp đồng, hoặc mua đứt tài sản.
Định nghĩa hợp đồng CTTC đã phân tích ở trên được soạn thảo với mục đích thể
chế hóa hoạt động CTTC trong phạm vi EU.Sau đó, đến năm 1984, trên cơ sở phân tích


1
Hiệp hội thương mại đại diện CTTC tại Châu Âu
11

so sánh thực tiễn việc CTTC của nhiều nước và kết quả nghiên cứu của UNIDROIT

2

hiệp hội thuê TCQT trong lĩnh vực này, trung tâm Công nghiệp đoàn đa quốc gia thuộc
Liên Hợp Quốc (UNCTC) cũng đưa ra định nghĩa hợp đồng thuê tài chính. Tuy nhiên
định nghĩa này cũng không có nhiều khác biệt so với định nghĩa của LEASEUROPE.
Điểm 1, điều 1 Công ước Ottawa 1988 về thuê TCQT quy định, hợp đồng thuê
TCQT là một giao dịch theo đó một bên (bên cho thuê- là NH hay tổ chức tài chính) phù
hợp với những đặc điểm và điều kiện được bên kia nhất trí (người thuê) kí kết hợp đồng
mua bán với bên thứ ba (người bán) và theo hợp đồng này người cho thuê mua máy móc
thiết bị công nghiệp hay những thiết bị khác và như vậy tham gia vào hợp đồng CTTC
với người thuê khi giao cho người thuê quyền sử dụng máy móc và được thanh toán theo
định kì.
3

Như vậy, hợp đồng CTTC là một giao dịch đặc biệt được sử dụng trong lĩnh vực
hoạt động thương mại, vì vậy chủ thể của nó là những chủ thể chuyên nghiệp trong lưu
thông thương mại. Trong hợp đồng thuê tài chính có các chủ thể tham gia như sau:
- Bên cho thuê thông thường là những tổ chức tài chính hay NH, nói cách
khác là nhựng chủ thể thương mại được phép huy động vốn.
- Bên thuê tài chính là bên nhận tài sản để tạm thời chiếm hữu và sử dụng
trên cơ sở hợp đồng thuê tài chính.
- Người bán là người kí kết hợp đồng mua bán tài sản với bên cho thuê và
sau đó giao hàng cho người sử dụng. Ở đây người bán được biết trước rằng người sử
dụng tài sản này không phải là người đã trả tiền mua nó, người sử dụng nó mà là người
thuê, người này có quyền trực tiếp có những yêu cầu đối với người bán liên quan đến
lượng hàng hóa (máy móc thiết bị) hay là nghĩa vụ bảo lãnh của người bán.
Như vậy, điểm đặc biệt của hợp đồng thuê tài chính nằm ở chỗ người thuê tài sản
không nằm trong mối liên hệ hợp đồng với người bán nhưng lại có một số quyền đối với
người bán.




2
Linternational Institute for the Unification of Private Law /Iinstitut International Pour l'unification du
Droit Prive: Viện quốc tế về nhất thể hoá pháp luật tư. UNIDROIT là tổ chức liên Chính phủ có trụ sở tại
Rome - Ý. Mục đích của Viện là nghiên cứu nhu cầu và phương pháp hiện đại hoá, hài hoà hoá và điều
hoà luật tư, đặc biệt là luật thương mại giữa các quốc gia và các nhóm quốc gia.
3
Xem Luật thương mại quốc tế, Minsk, 2000, trang 439.
12

Để nắm rõ hơn mối quan hệ giữa ba bên, nhóm xin đưa ra sơ đồ như sau:









Hợp đồng thuê tài chính nội địa và hợp đồng thuê TCQT có nội dung và dấu hiệu
giống nhau. Điểm khác biệt cơ bản giữa chúng là trong hợp đồng thuê TCQT trụ sở
thương mại của bên cho thuê và trụ sở thương mại của bên thuê phải nằm trên lãnh thổ
của các quốc gia khác nhau.
4

Dưới góc độ kinh tế, bản chất của CTTC là một hoạt động tín dụng
5
, và như vậy

có thể hiểu rằng một hợp đồng CTTC là một hợp đồng tín dụng tài chính, có nghĩa là
người thuê muốn mua sắm máy móc thiết bị của một người bán xác định tuy nhiên không
có khả năng tài chính để sở hữu chúng vì vậy phải yêu cầu NH hay tổ chức tài chính
thanh toán.
1.2.1.2 Đặc điểm
Hợp đồng CTTC là một đặc thù của hợp đồng thuê tài sản. Trên cơ sở công ước
quốc tế về hợp đồng thuê TCQT, pháp luật của một số nước cũng như thực tiễn áp dụng


4
Điểm 2 điều 1 Công ước Ottawa 1988
5
Khi một hợp đồng thuê tài chính được ký kết, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được cấp một khoản
vốn. Khoản vốn này có được do doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra mua tài sản mà vẫn có tài sản sử
dụng lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì đáng lẽ ra, có thể doanh nghiệp đã phải đi vay một số
vốn tương đương giá trị tài sản trong hợp đồng thuê trả cho công ty CTTC bao gồm cả vốn gốc và lãi.
Người cho
thuê
(Lessor)
Người thuê
(Lessee)
Hợp đồng
thuê tài sản
Quyền sử
dụng tài sản
Trả tiền
thuê tài sản
Nhà cung cấp
(Manufacturer or Supplier)
Hợp

đồng
mua
tài
sản
Quyền
sở hữu
pháp lý
đối với
tài sản
Trả
tiền
mua
tài
sản
Giao
tài
sản
Bảo trì
và phù
tùng
thay
thế
Trả tiền
bảo trì
phụ
tùng
13

hợp đồng thuê tài chính có thể khái quát một số dấu hiệu của hợp đồng thuê tài chính như
sau:

Thứ nhất, người cho thuê phải có mục đích cung cấp tài chính (đầu tư)
6
, có nghĩa
là người cho thuê kí kết hợp đồng thuê tài chính với mục đích là đầu tư vào tài sản và sau
đó cho thuê tài sản này, còn tiền do người thuê thanh toán theo bản chất là một hình thức
thu nhập từ việc đầu tư. Rõ ràng người cho thuê không cần tài sản trong hình thức vật
chất tự nhiên của nó mà người cho thuê mua tài sản với mục đích cho thuê để thu lời. Ở
đây quyền lợi của người cho thuê được bảo đảm bởi tài sản cho thuê thuộc sở hữu của họ,
trong trường hợp người thuê không thực hiện nghĩa vụ của mình thì người cho thuê
không cần yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chỉ đơn giản là yêu cầu trả lại tài sản. Như vậy,
hợp đồng thuê tài chính còn thực hiện chức năng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.
Thứ hai, sau khi kí kết hợp đồng, bên cho thuê mua tài sản do người thuê lựa chọn,
người bán cũng do người thuê chỉ định và giao tài sản đó cho bên thuê. Theo Công ước
Ottawa 1988 về thuê TCQT thì đây là dấu hiệu chủ yếu của hợp đồng thuê tài chính.
Trong trường hợp này, bên cho thuê không chịu trách nhiệm về sự lựa chọn đối tượng
của hợp đồng cũng như sự lựa chọn người bán (bao gồm cả các chi tiết kĩ thuật và sự phù
hợp của thiết bị hay hàng hóa). Trong thực tế, các bên có thể thỏa thuận, bên cho thuê có
nghĩa vụ lựa chọn đối tượng của hợp đồng và người bán. Tuy nhiên quyền chọn mua
không phải là yếu tố bắt buộc phải có để hình thành hợp đồng CTTC
7
.
Thứ ba, tài sản được bên thuê thuê chỉ để sử dụng trong hoạt động kinh doanh
thương mại. Đây là một trong những điểm khác biệt quan trọng của hợp đồng thuê tài
chính so với hợp đồng thuê tài sản. Thật vậy, hợp đồng thuê tài chính cho phép người có
ít tiền có thể sử dụng khối tài sản lớn gấp nhiều lần tài sản của mình, vì vậy nếu tài sản
không được sử dụng trong kinh doanh thương mại, tức là sinh lời, thì người thuê không
thể có khả năng trả tiền thuê.
Thứ tư, người thuê đồng thời vửa chiếm hữu vừa sử dụng tài sản được bên cho
thuê giao theo hợp đồng thuê tài chính. Nếu người thuê chỉ sử dụng tài sản không thôi thì
hợp đồng không có ý nghĩa của hợp đồng thuê tài chính, bởi vì người cho thuê không cần



6
Người CTTC mong muốn đầu tư vào đối tượng thuê tài chính, việc mua tài sản là đối tượng thuê tài
chính không phải để sử dụng mà để cho thuê kiếm lời.
7
Điều 1, Công ước Unidroit về Cho thuê TCQT
14

thiết phải giữ lại quyền chiếm hữu đối với tài sản cho thuê. Mục đích của bên cho thuê
trong hợp đồng thuê tài chính là thu lợi nhuận thông qua việc cho thuê tài sản, vì vậy việc
chiếm hữu tài sản đã cho thuê có thể gặp nhiều vấn đề phức tạp bởi vì trong nhiều trường
hợp bên cho thuê có thể phải chịu một số chi phí bổ sung.
Thứ năm, bên thuê có khả năng mua lại đối tượng thuê tài chính nếu việc mua lại
này được quy định trong hợp đồng. Cũng phải nói rằng quyền mua lại tài sản thuê luôn
được quy định trong mọi hợp đồng thuê tài sản. Tuy nhiên để mua lại tài sản người thuê
phải trả một khoản tiền mua đặc biệt được quy định trong hợp đồng thuê tài sản hay trong
thỏa thuận bổ sung cho hợp đồng. Còn trong hợp đồng thuê tài chính, tiền thuê đồng thời
cũng là tiền mua lại tài sản. Tất nhiên, khả năng mua lại đối tượng của hợp đồng thuê tài
chính phải được quy định trực tiếp trong hợp đồng.
Pháp luật Việt Nam cũng có quy định các điều kiện để một hợp đồng giao dịch
được coi là hợp đồng thuê tài chính như sau:
“Điều 113. Hoạt động CTTC
Hoạt động CTTC là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng CTTC và
phải có một trong các điều kiện sau đây:
1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển quyền sở
hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;
2. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản
cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại thời điểm
mua lại;

3. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao
tài sản cho thuê đó;
4. Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng CTTC ít nhất phải bằng giá trị của
tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Căn cứ pháp lý của hợp đồng thuê TCQT.”
8




8
Điều 113, Luật các tổ chức tín dụng 2011
15

1.2.2 Phân loại
Thứ nhất, căn cứ vào tổng số tiền thuê trong thời hạn cơ bản:
- Hợp đồng CTTC hoàn trả toàn bộ: Trong giao dịch này, tổng số tiền thuê
mà bên cho thuê nhận được trong thời hạn cơ bản của hợp đồng đủ bù đắp toàn bộ chi
phí mua sắm tài sản, lãi suất vốn tài trợ, các chi phí quản lý cho bên thuê. Với phương
thức giao dịch này mang lại những tiện ích cho cả hai bên (cho thuê và đi thuê) nên nó
được áp dụng rất phổ biến. Theo thống kê của cơ quan thuế Hoa Kỳ, số lượng hợp
đồng theo phương thức này chiếm 90%. Phương thức CTTC này cũng được áp dụng
phổ biến ở Việt Nam.
- Hợp đồng CTTC hoàn trả từng phần: Tức là sau khi kết thức thời hạn cho
thuê, tổng số tiền thu được chưa đủ bù đắp chi phí để thu hồi đủ vốn và đem lại lợi
nhuận, người cho thuê cần phải cho thuê tiếp bằng hợp đồng mới. Với phương thức
giao dịch này, đưa ra cho người thuê quyền lựa chọn mua tài sản thuê hoặc tiếp tục
thuê tài sản thêm một thời gian trước khi kết thức thời hạn của hợp đồng.
Thứ hai, căn cứ vào tính chất của giao dịch CTTC:
Loại hợp đồng tiếp cận từ phương diện người cho thuê sử dụng sẵn máy móc thiết
bị của họ để cho thuê. Trên thực tế, nhiều nhà sản xuất ở các nước phát triển được thực

hiện loại cho thuê này như một giải pháp mở rộng doanh số bán hàng.
- Hợp đồng CTTC liên kết: Là loại hợp đồng gồm nhiều bên cùng tài trợ cho
một bên thuê. Trong trường hợp này do một người cho thuê không đủ vốn để tài trợ
hoặc sợ rủi ro vì tập trung vốn quá lớn với một khách hàng, nên họ liên kết với nhau
để CTTC. Đối với loại hợp đồng này, tài sản cho thuê thường có giá trị lớn.
- Hợp đồng cho thuê bắc cầu: Là trường hợp người cho thuê đi vay để mua
tài sản rồi cho thuê, loại cho thuê này thường áp dụng cho những dự án đầu tư lớn.
Đây không phải là phương thức cùng tài trợ mà người cho thuê vẫn phải là trái chủ
9

của người cho thuê trong quan hệ cho vay. Trong quá trình thực hiện hợp đồng CTTC
người cho vay được hoàn trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê và thường là
do bên thuê trực tiếp chuyển trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê, sau khi
thanh toán hết các món nợ vay bên cho thuê được hưởng những khoản tiền thuê còn lại.


9
Chủ nợ
16

Hình thức cho thuê này mở rộng khả năng tài trợ khỏi phạm vi nguồn vốn của người
cho thuê.
Loại hợp đồng tiếp cận từ phương diện người thuê
- Hợp đồng bán rồi tái cho thuê: Các doanh nghiệp nghiệp có thể bán tài sản
của họ cho các công ty CTTC sau đó cho thuê lại. Đây là trường hợp mà doanh
nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản cố định hiện có trong hợp động sản xuất
kinh doanh song lại không đủ uy tín để vay vốn NH, trong trường hợp này họ buộc
phải bán một phần tài sản cố định cho NH hoặc công ty CTTC, sau đó thuê lại tài sản
đó để sử dụng, và như vậy sẽ có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động.
- Đặc trưng chủ yếu của loại hợp đồng này là bên thuê giữ lại quyền sử dụng

tài sản và chuyển giao quyền sở hữu pháp lý cho thuê, đồng thời nhận tiền bán tài sản,
nhưng tài sản đem bán phải còn giá trị sử dụng hữu ích và giá trị của tài sản đó tùy
thuộc vào giá cả hợp lý của tài sản đó trên thị trường tại thời điểm diễn ra hoạt động
mua bán.
- Hợp đồng cho thuê giáp lưng: Với sự cho phép của bên cho thuê, bên thuê
có thể cho người khác thuê tiếp. Loại hợp đồng cho thuê này được áp dụng trong
những trường hợp bên thuê thứ hai cần tài sản muốn đi thuê nhưng không thực hiện
trực tiếp từ những người cho thuê chuyên nghiệp (bên công ty CTTC), do hoạt động
yếu kém, hay không đảm bảo uy tín hoặc đơn giản chỉ vì doanh nghiệp đó chưa được
người cho thuê biết đến. Hình thức cho thuê này cũng có thể áp dụng trong trường hợp
bên thuê thứ nhất khi đã thực hiện một phần hợp đồng, không còn nhu cầu thuê, do đó
họ phải tìm bên thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng với sự chấp nhận của người cho
thuê. Phương thức này giúp bên thuê thứ nhất không bỏ chi phí tài sản thuê, đồng thời
có thể kiếm lời từ bên thuê thứ hai. Bù lại bên đi thuê thứ nhất vẫn phải liên đới chịu
trách nhiệm đối với những rủi ro thiệt hại liên quan đến tài sản thuê vì họ là người trực
tiếp kí kết hợp đồng với bên cho thuê ban đầu. Mặc dù, kể từ thời điểm hợp đồng thuê
mới lại được kí kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ và tài sản được chuyển giao sang bên
thuê thứ hai.
- Hợp đồng cho thuê trả góp: Đây là phương thức tài trợ khá đặc biệt của
CTTC. Thực chất là hình thức mua trả góp tà sản trong khoảng thời gian từ 1- 5 năm,
được áp dụng đối với người mua có tài sản thế chấp và cả người không có thế chấp.
Theo phương thức này, hợp đồng CTTC có hiệu lực và người mua thường phải trả
17

ngay cho nhà tài trợ một khoản tiền chiếm từ 25%- 30% giá trị tài sản và vào thời điểm
kết thúc hợp đồng chủ tài sản sẽ chuyển giao quyền sử dụng cho bên thuê, hình thức
tài trợ này giúp cho bên cung ứng bán được tài sản của mình và tạo cho bên thuê có
ngay tài sản để sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải trả ngay
những khoản tiền đó.
- Nhưng bên cạnh đó, cũng có những bất lợi trong phương thức này đó là tỷ

lệ lãi suất thực tế quá cao (thường lên tới 15%/năm) và nguy cơ mất quyền sở hữu tài
sản vào thời điểm kết thúc hợp đồng nếu không thực hiện đúng tiến độ thanh toán.
- Như vậy, phương thức tài trợ vốn thông qua hình thức CTTC có thể được
thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Các chủ thể tham gia trong hợp đồng CTTC
có thể lựa chọn cho mình một phương thức phù hợp để đạt được mục đích hoạt động
kinh doanh của mình.
1.2.3 Căn cứ pháp lý của hợp đồng thuê TCQT
Hợp đồng thuê tài chính được công nhận trong thực tiễn xét xử của những quốc
gia, ở đó pháp luật không dành riêng những quy phạm để điều chỉnh loại hợp đồng này,
ví dụ như Mỹ, Nhật, Đức,… Ở một số quốc gia khác, loại hợp đồng này được pháp luật
điều chỉnh một cách đặc biệt, ví dụ, ở Nga được quy định trong Bộ luật dân sự và Luật
thuê tài chính; ở Pháp- Luật thuê tài chính năm 1966; ở Anh- Luật về Thuê bán năm 1965.
Văn bản pháp luật quốc tế chủ yếu điều chỉnh hoạt động thuê TCQT là Công ước
Ottawa được kí kết ngày 28/05/1988. Việc thông qua Công ước này tạo nên sự quan tâm
đến vấn đề hệ thống hóa việc điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực thuê tài chính ở nhiều
quốc gia. Liên minh Châu Âu EU mong muốn các thành viên tham gia Công ước này.
Những quy định của Công ước Ottawa 1988 được Ủy ban Pháp luật của LEASEUROPE
sử dụng để soạn thảo hợp đồng thuê tài chính mẫu áp dụng trong hoạt động thuê tài chính
trong phạm vi Châu Âu. Hiện nay, số lượng quốc gia tham gia công ước này không nhiều
và vì vậy mà các quan hệ phát sinh từ hợp đồng thuê TCQT được điều chỉnh bằng quy
phạm của luật quốc gia (có thể áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng thuê tài
sản).
18

Ở Việt Nam thì hợp đồng thuê tài chính được Luật Các tổ chức tín dụng 2011
10

điều chỉnh. Ngoài ra Chính phủ cũng vừa mới ban hành thêm một nghị định mới là nghị
định số 39/2014/NĐ-CP quy định về hoạt động của tổ chức tài chính và công ty CTTC,
thay thế cho những nghị định cũ từ năm 2008 trở về trước. Nghị định này đã khắc phục

được những nhược điểm của các VBPL cũ khi không chỉ dừng lại ở mức độ quy định
quyền và nghĩa vụ của bên thuê và bên cho thuê mà còn nêu rõ được bản chất, đặc điểm
của hợp đồng thuê tài chính. Tuy nhiên, trong nghị định này không quy định rõ mối quan
hệ giữa người bán và người thuê, chưa nêu rõ được một cách toàn diện mối quan hệ giữa
3 bên (tức người bán, người mua-người cho thuê và người đi thuê), điều này sẽ làm ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động thương mại quốc tế của nước ta trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc Việt Nam đã và đang sắp bước vào Cộng Đồng kinh tế
ASIAN.
1.2.4 Hợp đồng thuê tài chính
Hợp đồng CTTC bao gồm 2 hợp đồng: Hợp đồng mua bán giữa tổ chức tài chính
và hợp đồng thuê giữa tổ chức tài chính và bên thuê.
Nội dung cơ bản của hợp đồng thuê tài chính bao gồm các điều khoản chủ yếu và
quyền, nghĩa vụ của các bên.
1.2.4.1 Các điều khoản cơ bản của hợp đồng thuê tài chính
- Về đối tượng của hợp đồng thuê tài chính:
Là mọi tài sản không phải hàng tiêu dùng, gồm có: nhà máy, xí nghiệp, máy móc
thiết bị, các phương tiện vận tải, những tài sản là bất động sản hay động sản được sử
dụng trong hoạt động kinh doanh. Thông thường, đối tượng của hợp đồng thuê tài chính
là động sản, bởi vì hoạt động thương mại có tính hệ thống đại trà thường mang lại nhiều
lợi nhuận. Đất đai, mặt nước không thể là đối tượng của hợp đồng thuê tài chính.
Theo nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng thuê TCQT là bất động sản, động sản,
tuy nhiên theo Công ước Ottawa 1988 không coi bất động sản là đối tượng của hoạt động
này do tính đặc thù của giao dịch này trong lưu thông quốc tế. Có thể thấy rằng quy định
về bất động sản và động sản trong Công ước viên 1980 và trong Công ước Ottawa 1988


10
Xem điều 112-116 Luật các tổ chức tín dụng 2011
19


có một số điểm khác nhau. Ví dụ máy bay, tàu thủy, tàu hỏa là bất động sản theo Công
ước viên 1980
11
nhưng trong thực tiễn thương mại các loại tài sản trên được coi là đối
tượng của hợp đồng thuê TCQT.
- Thời hạn của hợp đồng CTTC:
Do các bên thỏa thuận, phụ thuộc vào giá trị và thời gian khấu hao của tài sản cho
thuê. Thông thường hợp đồng được kí dài hạn, thời hạn này thường tương đương với thời
gian khấu hao của tài sản cho thuê, tức là thời gian mà bên cho thuê có thể thu hồi cả vốn
lẫn lãi. Khả năng mà hợp đồng CTTC vô thời hạn hay không quy định thời hạn không
được pháp luật cho phép cũng như không được công nhận trong thực tiễn hoạt động thuê
tài chính.
- Giá của hợp đồng thuê tài chính:
Được hiểu là tiền thuê tài sản, bao gồm 2 phần: chi phí đầu tư và thù lao của bên
cho thuê. Tiền thuê tài chính được thanh toán phụ thuộc vào thời gian hao mòn của tài
sản cho thuê. Những chi phí đầu tư bao gồm:
 Giá thành ban đầu của đối tượng hợp đồng thuê tài chính
 Lãi suất mà bên cho thuê phải trả cho NH theo hợp đồng vay tín dụng
 Những chi phí liên quan đến bảo lãnh hợp đồng nếu có
 Thuế và những khoản thanh toán khác
 Những chi phí của bên cho thuê liên quan đến việc thực hiện bảo dưỡng, đại tu
đối tượng của hợp đồng nếu bên cho thuê có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ này.
 Tiền mua bảo hiểm cho đối tượng của hợp đồng thuê tài chính nếu bên cho
thuê mua bảo hiểm và nếu hợp đồng tài chính không có quy định khác.
Thù lao là là khoản tiền được quy định trong hợp đồng thuê tài chính mà bên thuê
phải trả cho bên cho thuê ngoài chi phí đầu tư ban đầu. Đây chính là thu nhập của bên
cho thuê tài sản. Trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế, tiền thuê tài sản theo hợp
đồng thuê tài chính được xác định theo nguyên tắc dưới dạng thanh toán cho toàn bộ tài
sản được thuê. Trong trường hợp nếu đối tượng của hợp đồng gồm nhiều tài sản có thời



11
Điểm e, điều 2 Công ước viên 1980
20

hạn sử dụng khác nhau thì tiền thuê sẽ được xác định phù hợp và được tính vào thời hạn
sử dụng của mỗi loại tài sản.
1.2.4.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên
- Nghĩa vụ của bên nhà cung cấp thiết bị (tức đối tượng trong hợp đồng CTTC)
 Nghĩa vụ của nhà cung cấp phát sinh từ hợp đồng mua bán cũng là nghĩa vụ
đối với bên thuê, như thể người thuê là một bên trong hợp đồng mua bán và thiết bị
được cung cấp trực tiếp cho người thuê (người thuê không có quyền hủy bỏ hợp đồng
mua bán mà không có sự đồng ý của công ty CTTC)
 Không chịu trách nhiệm trước cả tổ chức tài chính lẫn người thuê cho cùng
một thiệt hại.
- Quyền và nghĩa vụ bên cho thuê:
Quyền của bên cho thuê
 Theo quy định tại điều 12 Công ước Ottawa, nếu người giao hàng vi phạm
nghĩa vụ do không giao hàng hay chậm giao hàng cho bên thuê thì bên thuê có quyền
đơn phương hủy bỏ hợp đồng thuê TCQT và từ chối nhận máy móc thiết bị. Tuy nhiên
bên cho thuê có quyền sửa chữa sai sót của mình bằng cách đề nghị thay thế thiết bị
máy móc phù hợp với hợp đồng bên thuê.
 Bên cho thuê (Tổ chức tài chính) vẫn có quyền thực hiện các biện pháp
khắc phục cho việc không thể cung cấp thiết bị phù hợp với hợp đồng mua bán.
 Bên cho thuê có vật quyền đối với tài sản (tức là được ưu tiên thanh toán
bằng chính tài sản trong trường hợp bên thuê phá sản)
Trường hợp bên thuê vi phạm hợp đồng CTTC, bên cho thuê có các quyền:
 Có quyền thu hồi các khoản tiền thuê chưa được thanh toán cùng với lãi và
tiền bồi thường thiệt hại.
 Có quyền chuyển nhượng quyền đối với thiết bị hoặc quyền từ hợp đồng

CTTC (Không giải phóng tổ chức tài chính khỏi các nghĩa vụ từ hợp đồng CTTC hay
thay đổi bản chất của hợp đồng này).
 Khi vi phạm của người thuê là đáng kể: Bên cho thuê có quyền yêu cầu
thanh toán ngay các khoản tiền thuê trong tương lai nếu hợp đồng thuê tài chính có
quy định. Hoặc, hủy bỏ hợp đồng và thu hồi lại thiết bị.
21

Nghĩa vụ của bên cho thuê
 Mua tài sản của người bán do bên thuê chỉ định
12
trên cơ sở hợp đồng mua
bán hàng hóa. (Hợp đồng cũng có thể quy định, bên cho thuê tự chọn tài sản và tự
chọn người bán).
 Bên cho thuê, khi mua tài sản phải thông báo cho người bán biết rằng tài
sản được mua để cho thuê và chỉ rõ tên người thuê. Theo quy định tại điều 8 Công ước
Ottawa 1988 thì bên cho thuê không chịu trách nhiệm trước người thuê về chất lượng
của đối tượng hợp đồng thuê tài chính, ngoại trừ trường hợp khi mà người thuê chịu
những thiệt hại do sự can thiệp của người cho thuê trong việc lựa chọn người bán hay
đối tượng hợp đồng gây ra cũng như trong trường hợp nếu người thuê quá tin tưởng
vào kinh nghiệm của người cho thuê. Theo hợp đồng này, người cho thuê không chịu
trách nhiệm trước người thứ ba về những thiệt hại do đối tượng hợp đồng thuê tài
chính gây ra.
 Bên cho thuê phải bảo đảm cho bên thuê quyền sử dụng đối tượng của hợp
đồng thuê tài chính và bảo vệ quyền này khỏi sự can thiệp của người thứ ba, ngoại trừ
trường hợp can thiệp đó là hậu quả của những hành vi hay sơ suất của chính bên thuê.
Đồng thời, bên cho thuê phải thực hiện nghĩa vụ riêng biệt phát sinh từ hai hợp đồng:
hợp đồng mua bán và hợp đồng CTTC.
- Quyền và nghĩa vụ bên thuê:
Quyền của bên thuê
 Bên thuê có quyền từ chối thiết bị hoặc hủy bỏ hợp đồng CTTC trong

trường hợp bên nhà cung cấp không giao hàng, giao hàng muộn hoặc hàng hóa không
phù hợp người thuê.
 Bên thuê có quyền chưa thanh toán tiền thuê theo định kì nếu bên cho thuê
chưa khắc phục sửa chữa sai sót trong việc thực hiện hợp đồng thuê TCQT bằng cách
thay thế thiết bị máy móc phù hợp với điều kiện hợp đồng. Nếu bên thuê nhất định đơn
phương hủy hợp đồng thì có quyền yêu cầu bên cho thuê phải trả lại các khoản đã
thanh toán.
 Bên thuê không có quyền đưa ra cho bên thuê bất kì một yêu cầu nào khác
liên quan đến việc người bán không giao hàng, không giao đủ hay giao chậm ngoại trừ


12
Bên thuê chỉ định cả loại tài sản, cả người bán
22

trường hợp là do hậu quả của những hành vi của bên cho thuê. Tuy nhiên, mặc dù bên
cho thuê không chịu trách nhiện trước bên thuê do tài sản được giao theo hợp đồng
thuê TCQT không phù hợp với điều kiện hợp đồng nhưng có quyền cùng với bên thuê
đưa ra những yêu cầu liên quan đến chất lượng của máy móc thiết bị cho bên bán.
Nghĩa vụ của bên thuê
 Theo quy định tại điều 9 Công ước Ottawa 1988, bên thuê có nghĩa vụ phải
quan tâm một cách đúng mức đến đối tượng của hợp đồng thuê tài chính. Nghĩa vụ sửa
chữa, bảo dưỡng định kì hay đại tu máy móc thiết bị của các bên được quy định trong
hợp đồng. Theo nguyên tắc chung, trong thuê TCQT bên thuê phải thực hiện nghĩa vụ
này.
 Phải trông coi thiết bị một cách đúng đắn, sử dụng thiết bị với cách thức
hợp lý và giữ gìn nó trong tình trạng như khi nó được giao. Khi hợp đồng CTTC kết
thúc bên thuê phải hoàn trả lại thiết bị cho tổ chức tài chính ở tình trạng được nêu ở
trên trừ khi thực thi quyền mua thiết bị hoặc thuê tiếp.
 Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng thuê TCQT, bên thuê còn có nghĩa

vụ cho phép bên cho thuê (tức bên cho thuê có quyền) tiếp cận đối tượng của hợp đồng,
tiếp cận những thông tin tài chính với mục đích thực hiện giám sát việc sử dụng đối
tượng của hợp đồng, tuân thủ những điều kiện của hợp đồng liên quan đến bảo quản
tài sản, giữ gìn đối tượng.
 Bảo hiểm cho tài sản thường được người thuê hoặc người cho thuê mua.
Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng được bên cho thuê mua bảo hiểm thì tiền
mua bảo hiểm sẽ được tính vào tiền thuê phù hợp với điều kiện của hợp đồng. Nếu bên
thuê tài chính kí hợp đồng mua bảo hiểm cho đối tượng thuê tài chính thì hợp đồng
này sẽ được kí kết vì lợi ích của bên cho thuê, có nghĩa là bên cho thuê sẽ nhận bảo
hiểm trong trường hợp rủi ro.
 Theo điều 7 Công ước Ottawa, bên cho thuê vẫn là chủ sở hữu đối với đối
tượng của hợp đồng thuê tài chính, tức là máy móc, thiết bị, vì vậy trong trường hợp
bên thuê bị phá sản thì chủ nợ của bên thuê không có quyền yêu cầu đối với đối tượng
thuê TCQT.
 Theo quy định của điều 14 Công ước Ottawa 1988, bên cho thuê có thể
chuyển nhượng một phần hay tất cả quyền liên quan đến đối tượng của thuê TCQT.
Tuy nhiên, sự chuyển nhượng các quyền này không ảnh hưởng và làm thay đổi bản
23

chất của hợp đồng thuê tài chính được kí kết trước đó và cũng không miễn trừ một
trách nhiệm nào cho bên thuê.
 Bên thuê không có quyền định đoạt đối tượng thuê tài chính theo ý mình
bẳng cách chuyển nhượng cho bên thứ ba. Bên cạnh đó, điểm 2 điều 14 lại cho phép
bên thuê giao quyền sử dụng đối tượng hợp đồng thuê tài chính hay một quyền nào
khác theo hợp đồng cho người thứ ba nếu được sự đồng ý của bên cho thuê và phải
phù hợp với lợi ích của người thứ ba.
 Theo pháp luật Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ của bên thuê và bên cho
thuê được quy định rõ ràng và cụ thể tại điều 17, 18, 19, 20 của Nghị định số
39/2014/NĐ- CP.
1.2.5 Chấm dứt hợp đồng thuê tài chính

Bên cho thuê có thể đơn phương hủy bỏ hợp đồng thuê tài chính trong những
trường hợp sau:
- Nếu bên thuê sử dụng đối tượng cảu hợp đồng thuê tài chính không phù
hợp với điều kiện được quy định trong hợp đồng hay sử dụng không đúng mục đích.
- Bên thuê cho thuê lại tài sản khi chưa có sự đồng ý của bên cho thuê.
- Nếu bên thuê không bảo quản tài sản theo đúng quy định.
- Nếu bên thuê không trả tiền thuê đúng thời hạn (có thể 2-3 lần liên tiếp, tùy
vào quy định tại từng hợp đồng).
Ngoài ra, trong hợp đồng các bên còn có thể quy định một số trường hợp khác mà
bên cho thuê có thể đơn phương hủy hợp đồng. Bên cho thuê có thể đơn phương hủy hợp
đồng trong trường hợp bên cho thuê không giao tài sản thuê đúng thời hạn và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
Ví dụ, trong một hợp đồng thuê tài chính có quy định như sau:
“Điều 24: Chấm dứt hợp đồng trước thời hạn
Công ty CTTC có thể chấm dứt hợp đồng trước khi kết thúc thời hạn cho thuê nếu:
Bên thuê không trả tiền thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng;
Bên thuê vi phạm một trong các điều khoản của hợp đồng;
24

Bên thuê mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể;
Trong trường hợp bên thuê phải có người bảo lãnh nếu người bảo lãnh mất khả năng
thanh toán, phá sản, giải thể nhưng bên thuê không tìm được người bảo lãnh khác thay
thế được công ty CTTC chấp thuận.
Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước khi chấm dứt thời hạn cho thuê trong các
trường hợp:
Tài sản cho thuê không được giao đúng thời hạn do lỗi của công ty CTTC;
Bên cho thuê vi phạm các điều khoản trong hợp đồng.
Hợp đồng được chấm dứt trước khi kết thúc thời hạn cho thuê trong trường hợp tài sản
thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sữa chữa được.”
1.3 Hợp đồng bao thanh toán quốc tế (Factoring)

1.3.1 Khái niệm, đặc điểm
1.3.1.1 Khái niệm
Trong hoạt động thương mại và thương mại quốc tế nói riêng, những người bán
hàng và cung cấp dịch vụ bao giờ cũng mong muốn được phía đối tác thanh toán tiền
mua hàng hay dịch vụ một cách nhanh chóng nhất. Tuy nhiên mong muốn này không
phải lúc nào cũng được thỏa mãn do nhiều hoàn cảnh, trước hết là khả năng tài chính, mà
người mua hay người hưởng dịch vụ không phải bao giờ cũng thực hiện việc thanh toán
một cách nhanh chóng.
Để giải quyết mâu thuẫn nói trên, trong thực tiễn thương mại quốc tế đã hình
thành một loại quan hệ hợp đồng gọi là Hợp đồng Factoring – Hợp đồng bao thanh toán.
Theo quy định của Điều 2 Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín
dụng (sau đây gọi là Quy chế bao thanh toán)
13
, “bao thanh toán là một hình thức cấp tín
dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu
phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận
trong hợp đồng mua, bán hàng”.


13
Xem: Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc NH nhà nước Việt Nam ngày 6-9-2004
25

Cũng theo Quy chế này, tại Khoản 1 Điều 21 quy định “Hợp đồng bao thanh toán
là văn bản thoả thuận giữa đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng về việc mua lại các
khoản phải thu phù hợp với các quy định của pháp luật”. Định nghĩa này khác với định
nghĩa được quy định trong Công ước Ottawa 1988. Theo Điều 1.2 của Công ước, hợp
đồng bao thanh toán (Factoring) được ký kết giữa một bên là người giao hàng với bên
khác là NH hay tổ chức tín dụng khác, theo đó:
- Người giao hàng (người xuất khẩu) phải hay sẽ nhượng lại cho NH hay tổ

chức tín dụng khác quyền yêu cầu thanh toán phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa
được ký kết giữa người bán và người mua, ngoại trừ những trường hợp khi hàng hóa
được mua bán dùng cho mục đích cá hay gia đình.
- NH hay tổ chức tín dụng khác – có nghĩa vụ phải thực hiện ít nhất là hai
trong các hành vi sau đây:
 Cung cấp tài chính cho người bán trong đó bằng cả hình thức cho vay vốn
hay trả trước tiền hàng.
 Thực hiện kế toán liên quan đến việc nhận tiền từ người mua hàng.
 Nhận tiền bán hàng từ người mua.
 Có biện pháp bảo vệ trong trường hợp người mua hàng không có khả năng
thanh toán.
- Người mua hàng (người mắc nợ) cần phải nhận được sự thông báo về sự
tồn tại hợp đồng bao thanh toán giữa người bán với NH hay tổ chức tín dụng khác.
So với quy định tại Điều 21 Quy chế bao thanh toán với Điều 1 Công ước Ottawa
có thể thấy rằng, đối tượng của hợp đồng bao thanh toán theo Công ước không chỉ giới
hạn bởi khoản phải thu.
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy rằng, hợp đồng bao thanh toán là một hợp
đồng phức tạp, bao gồm một số loại nghĩa vụ và là một quan hệ pháp luật ba bên:
- Chủ nợ là người bán, thực hiện công việc hay người cung cấp dịch vụ
- Người mắc nợ là người mua, người đặt hàng hay người hưởng dịch vụ
- Tổ chức tài chính được người bán bán lại khoản phải thu.
Mặc dù có ba chủ thể tham gia vào hoạt động bao thanh toán: người bán, ngân
hàng, người mua nhưng chủ thể của hợp đồng bao thanh toán chỉ có người bán và NH.
Người mua, mặc dù có tham gia vào hoạt động bao thanh toán nhưng lại không
tham gia vào hợp đồng và không có một sự ảnh hưởng nào đến nội dung của hợp đồng.
Điều này được giải thích bởi việc, đối với người mua thì việc họ thanh toán cho ai, cho

×