Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Tác động của việc chấm dứt của hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO đối với hoạt động xuất nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại quốc tế Việt Phượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.4 KB, 82 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lời mở đầu
Dệt may là một ngành sản xuất và xuất khẩu lâu đời trên thế giới. Ngay
từ thời xa xưa con người đã chú ý đến vấn đề ăn mặc trong sinh hoạt hàng
ngày và cả trong giao tiếp. Họ đã có không ngừng cải tiến về kiểu dáng, màu
sắc, mẫu mã để cho ra đời những bộ trang phục ngày càng gọn nhẹ, sang
trọng và hợp thời.
Dệt may Việt Nam cũng là ngành lâu đời của Việt Nam. Việc sản xuất
phục vụ nhu cầu cho người tiêu dùng trong nước đã tồn tại từ lâu nhưng việc
xuất khẩu sang thị trường nước ngồi thì mới thực sự phát triển trong mấy
năm gần đây. Cùng với sự phát triển của ngành Dệt may thế giới, Việt Nam
cũng không ngừng đổi mới và hồn thiện mình. Nếu như trước đây dệt may
Việt Nam chỉ xuất hiện tại các nước Đơng Âu thì hiện nay đã xuất hiện ở
khắp nơi trên thế giới đặc biệt là các thị trường Mỹ và EU và trở thành nhà
cung cấp có uy tín trên thế giới hiện nay.
Sau khi hiệp định dệt may giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, EU được ký kết
mở đường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu dệt may vào hai thị trường này,
dệt may Việt Nam không ngừng phát triển và ngày càng tăng doanh thu cho
đất nước. Tuy nhiên đến năm 2005, khi hiệp định dệt may trong khuôn khổ
WTO chấm dứt thì tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam đã có nhiều biến
động và gặp rất nhiều khó khăn. Kim ngạch trong những tháng đầu năm 2005
liên tục giảm do chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các nhà xuất khẩu lớn: Trung
Quốc, Ấn Độ…
Là một công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu dệt may, mới
được thành lập (2002), công ty TNHH Thương mại quốc tế Việt Phượng cũng
khơng tránh khỏi những khó khăn trong thời kỳ “hậu hạn ngạch’.
Nhằm nghiên cứu những khó khăn của Việt Nam và cơng trong thời kì
hậu hạn ngạch và những thách thức mới của dệt may Việt Nam và công ty
trong thời gian tới, Tôi đã nghiên cứu và hoàn thành đề tài: “Tác động của
việc chấm dứt của hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO đối với hoạt


động xuất nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại quốc tế Việt
Phượng".
Tôi xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ đã giúp đỡ tơi rất
nhiều trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
Phạm Thị Thu

1

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I.

Khái quát chung về hiệp định dệt may trong khn khổ WTO

1.

Lịch sử hình thành hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO
Ngay từ những năm đầu của hệ thống thương mại đa phương - đánh dấu

bằng sự ra đời của tổ chức GATT, tiền thân của WTO, năm 1947- ngành dệt
may đã là một vấn đề khúc mắc trong các vịng thương thuyết nhằm tự do hóa
các luồng thương mại. Trong hơn 30 năm, ngành này không được điều tiết bởi
các qui tắc chung áp dụng cho mậu dịch hàng hóa mà bởi các chế độ riêng:
Các Hiệp định ngắn hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi (Short Term

Arrangement regarding International Trade in Cotton textiles - STA), 1961,
Hiệp định dài hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi (Long Term Arrangement
regarding International Trade in Cotton textiles - LTA), 1962-1973, và Hiệp
định về các loại sợi (Arrangement regarding International Trade in Textiles,
thường gọi tắt là Multifibre Arrangement - MFA), 1974-1994. Từ năm 1995,
ngành dệt may được điều tiết bởi Hiệp ước về dệt may (Agreement on
Textiles and Clothing - ATC) - một trong những hiệp ước ký kết sau vòng
thương thảo Uruguay Round - thay thế hiệp định MFA và qui định những
biện pháp chuyển tiếp nhằm đưa toàn bộ ngành dệt may vào khung pháp lý
chung của WTO.
Để phân tích diễn tiến của khung pháp lý từ hiệp định STA đến Hiệp ước
ATC, chúng ta điểm sơ qua bối cảnh chung của thời kỳ ấy. Trong những năm
ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, đa số các luồng thương mại quốc tế bị
chi phối bởi nhiều chế độ quốc gia khác nhau và phức tạp. Một số nước phát
triển viện lý do cán cân thanh tốn gặp khó khăn sau chiến tranh để áp dụng
thuế suất cao, thủ tục thuế quan nặng nề, và rất nhiều biện pháp hạn chế số
lượng nhập khẩu. Từ những năm 1950 trở đi, các hàng rào mậu dịch dần dần
Phạm Thị Thu

2

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

được cắt giảm để tiến đến tự do hóa thương mại qua các vịng thương thuyết
trong khn khổ tổ chức GATT. Song song với xu hướng này và sự phục hồi
của cán cân thanh toán trong các nước phát triển, Nhật Bản cũng tham gia trở
lại vào thương mại dệt may thế giới. Cùng lúc, một số nước nghèo bắt đầu

xuất khẩu hàng dệt và trong chừng mực ít hơn, các hàng may mặc. Nhờ nhân
công và nguyên liệu rẻ, các nước này nhanh chóng xuất ngày càng nhiều các
hàng dệt may bằng bông sợi sang các nước phát triển, cạnh tranh ồ ạt với
ngành sản xuất nội địa của họ. Trước nguy cơ lỗ lãi, phá sản đe dọa việc làm
của cả một ngành sản xuất, gây ra căng thẳng trong xã hội, một số nước phát
triển thương thuyết song phương với 4 nước xuất khẩu chính lúc ấy - Nhật,
Hồng Kơng, Ấn Độ và Pakistan - để ép họ phải tự giới hạn lại. Những thỏa
thuận "hạn chế xuất khẩu tự nguyện" (voluntary export restraint) này trở
thành biện pháp phổ biến để ngăn chặn nhập khẩu, không chỉ cho hàng dệt
may mà còn trong nhiều ngành khác.
Năm 1959, theo yêu cầu của Bộ trưởng tài chính Mỹ Douglas Dillon, tổ
chức GATT bắt đầu họp bàn về vấn đề "nhập khẩu tăng vọt trong thời gian
ngắn cho vài mặt hàng và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế,
chính trị và xã hội trong nước nhập khẩu". Năm 1960, các thành viên GATT
công nhận hiện tượng "xáo trộn thị trường" (market disruption), định nghĩa
gồm một số điều kiện cụ thể, cho phép nước nhập dùng biện pháp phòng
chống (safeguard) để bảo vệ ngành sản xuất nội địa. Hai vấn đề chú ý trong
các điều kiện này là "nhập khẩu xuất phát từ một số nguồn cụ thể" và "sự khác
biệt về giá cả giữa hàng nhập và hàng nội khơng do nước xuất khẩu bán phá
giá" (dumping). Nói cách khác, một là các nước nhập có thể áp dụng biện
pháp phòng chống đối với một hoặc vài nước, một cách chọn lọc, trong khi
theo điều XIX của Hiệp ước GATT, các biện pháp này phải nhắm tất cả mọi
nguồn, khơng phân biệt. Hai là họ có thể phịng chống ngay cả khi nước xuất
khẩu không vi phạm qui tắc về bán phá giá.
Năm 1961, để vận động cho đạo luật Trade Act 1962, chính phủ Mỹ đề
xướng một hội nghị các nước xuất khẩu hàng dệt trong khuôn khổ của GATT.
Phạm Thị Thu

3


TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Kết quả của hội nghị này là Hiệp định STA (thực ra là pháp lý hóa việc vi
phạm các nguyên tắc của GATT, dẫu là ngắn hạn như nói rõ trong tên gọi và
chỉ có hiệu lực một năm). Hiệp định STA cho phép các nước xuất khẩu, đơn
phương hoặc qua thỏa thuận song phương, ấn định hạn ngạch (quota) để giới
hạn nhập khẩu khi có nguy cơ "xáo trộn thị trường". Các cuộc thương thuyết
vẫn tiếp tục, và năm 1962, STA được thay thế bởi LTA - hiệp định dài hạn vì
các nước liên can công nhận đây là một vấn đề cần phải giải quyết lâu dài.
LTA có hiệu lực 5 năm và để bù lại, các hạn ngạch bắt buộc phải được nâng
cao và tăng 5% mỗi năm. Hiệp định này được gia hạn năm 1967 và năm
1970. Tháng 12/1972, GATT hồn tất một cuộc điều tra nghiên cứu tình hình
dệt may. Trên cơ sở bản báo cáo này và các thương thuyết sau đó, LTA được
thay thế bởi hiệp định MFA áp dụng từ tháng 1/1974.
Hai hiệp định STA và LTA chỉ nhằm vào hàng bơng sợi vì thời ấy các
nước đang phát triển chỉ xuất khẩu loại hàng đó. Một trong những lý do sản
xuất sợi hóa học tăng nhanh trong các nước phát triển cũng vì các nước này
muốn tránh bị lệ thuộc vào một nguyên liệu tập trung ở thế giới thứ ba, không
kể là sợi hóa học ngày càng được dùng cho đủ mọi ứng dụng tiên tiến và dựa
vào một nguyên liệu rẻ và dồi dào, tưởng như có thể khai thác vơ tận, cho đến
cuộc khủng hoảng của dầu hoả năm 1973. Cho đến lúc ấy, nhiều người nghĩ
rằng sợi hóa học sẽ loại hẳn các sợi tự nhiên khỏi thị trường. Nhưng chính
khuynh hướng này cũng tác động lên các nước đang phát triển, họ cũng muốn
gia tăng giá trị xuất khẩu của mình và bắt đầu tham gia vào ngành vải sợi hóa
học. Do đó hiệp định MFA khơng chỉ chi phối sợi bơng mà cịn áp dụng cho
cả len và sợi hóa học, vì thế mới gọi là multifibre.
2.


Nội dung

2.1. Hiệp ước MFA
Như hai hiệp định trước, MFA cho phép áp đặt hoặc duy trì hạn ngạch,
với điều kiện phải gia tăng 6% một năm. Ngồi ra, trước khi có thể viện lý do
là thị trường bị xáo trộn, các nước nhập khẩu phải hội ý với nước xuất khẩu
Phạm Thị Thu

4

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

và tuân theo một số điều kiện và chuẩn ghi trong MFA. Một Cơ quan Kiểm
soát Hàng dệt (Textiles Surveillance Body - TSB) được thành lập để quản lý
hiệp định và giám sát sự thi hành. Các nước áp đặt hạn ngạch phải thông báo
mỗi biện pháp mới lên TSB và hàng năm báo cáo tình hình. Cơ quan TSB
cũng có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp, và hàng năm phải báo cáo hoạt
động của mình lên Ủy ban Hàng dệt (Textiles Committee) của GATT.
Vì MFA đi ngược lại hai qui tắc căn bản của GATT là trong suốt và
không phân biệt đối xử, và nằm ngoài khung pháp lý chung nên tuy được
quản lý bởi GATT, nhưng chỉ áp dụng cho các nước liên can chứ khơng cho
tồn thể các nước thành viên. Cũng vì yếu tố biệt lệ này mà Trung Quốc, tuy
không là thành viên, cũng tham gia, từ đầu thập niên 1980. MFA được gia
hạn 4 lần: năm 1977, 1981, 1986 và 1991, sau khi được thương thuyết lại và
mỗi lần đều kèm theo nhiều điều lệ mới. Trong những năm cuối, tham gia
MFA có 8 nước phát triển ("nước nhập khẩu") - Áo, Canada, Cộng đồng kinh

tế châu Âu EEC, Mỹ, Phần Lan, Nhật, Thụy Sĩ và Na Uy, và 36 nước đang
phát triển, với tư cách nước xuất khẩu. Trên 8 nước nhập khẩu này, chỉ có
Nhật và Thụy Sĩ là khơng hề áp dụng hạn ngạch. Trong 21 năm thi hành, từ
1974 đến 1994, MFA thật ra là công cụ của các nước giàu ngăn chặn nhập
khẩu từ các nước nghèo hơn là "mở rộng thương mại, giảm các hàng rào mậu
dịch và dần dần tự do hóa mậu dịch quốc tế về hàng dệt, cùng lúc điều tiết sự
phát triển của luồng thương mại này và tránh các hậu quả gây xáo trộn thị
trường và ngành sản xuất trong các nước nhập khẩu cũng như xuất khẩu", như
mục tiêu chính thức đề ra. Các hạn ngạch được thương lượng trên cơ sở song
phương, thường xuyên xem xét lại, và tỷ lệ gia tăng thường thấp hơn con số
6% qui định trong MFA.
Do đó các nước xuất khẩu khơng ngừng địi hỏi phải bãi bỏ chế độ hạn
ngạch này và cơ sở pháp lý của nó. Vấn đề dệt may là một trong những đề tài
khúc mắc của vòng thương thuyết Uruguay, và các nước nghèo cũng chỉ đồng
ý với một số nhượng bộ cho hai Hiệp ước GATS (dịch vụ) và TRIPs (sở hữu
Phạm Thị Thu

5

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

trí tuệ) với điều kiện các nước giàu cũng phải nhượng bộ về mặt nông nghiệp
và dệt may. Một trong những thỏa nhượng này là tuy không chấm dứt ngay
năm 1994, chế độ MFA phải được thay thế bằng một cơ chế ràng buộc tất cả
mọi thành viên như các qui chế khác của WTO và chuẩn bị cho việc sát nhập
ngành dệt may vào khung pháp lý chung của WTO. Cơ chế này, tức Hiệp ước
ATC, chỉ là công cụ cho một giai đoạn chuyển tiếp và không thể được dùng

để kéo dài một tình trạng ngoại lệ đã quá lâu. Do đó điều lệ 9 của ATC khẳng
định là Hiệp ước sẽ chấm dứt "ngày đầu tiên của tháng thứ 121 sau khi Hiệp
ước WTO ban hành, khi ấy ngành dệt may sẽ hoàn toàn sáp nhập vào Hiệp
ước GATT 1994", tức là ngày 1.1.2005. Và nhất là Hiệp ước sẽ không được
gia hạn ("There shall be no extension of this Agreement").
2.2.Hiệp ước ATC
Hiệp ước ATC có những điểm chính sau đây:
a) Phạm vi rộng vì bao gồm sợi, vải, thành phẩm (made-up articles) và
quần áo, tức là hầu hết ngành may dệt, chỉ loại trừ các nguyên liệu thô.
b) Một lịch trình sát nhập dần dần những mặt hàng ấy vào khuôn khổ các
điều lệ của Hiệp ước GATT 1994, và song song,
c) Một lịch trình tự do hóa qua đó các hạn ngạch được gia tăng theo từng
giai đoạn cho đến khi được bãi bỏ.
d) Một cơ cấu phòng chống tạm thời đặc định (specific transitional
safeguard) cho trường hợp các ngành sản xuất nội địa có thể bị tổn hại trong
thời gian quá độ.
e) Một Cơ quan Giám sát Hàng dệt (Textiles MonitoringBody -TMB)
được thành lập để đảm bảo là mọi qui định được tuân thủ. TMB có nhiệm vụ
báo cáo hoạt đồng và tiến triển của các lịch trình lên Hội đồng mậu dịch hàng
hóa (Council for Trade in Goods -CTG), là bộ phận của WTO kiểm soát sự
thi hành Hiệp ước ATC. Khác với thời MFA, các tranh chấp không thuộc
thẩm quyền của TMB mà phải đưa lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp
(Dispute Settlement Body - DSB).
Phạm Thị Thu

6

TMQT44



Website: Email : Tel : 0918.775.368

Tuy WTO đã có một hiệp ước riêng cho các biện pháp phịng chống
(Agreement on Safeguards - SG) nhưng Hiệp ước ATC vẫn dành một điều
khoản (điều lệ 6) cho phép các nước nhập khẩu dùng đến biện pháp này theo
điều kiện khác, ngoại lệ so với Hiệp ước SG: trong khi SG qui định là các
biện pháp phòng chống phải áp dụng cho tất cả mọi nguồn, theo nguyên tắc
không phân biệt đối xử, ATC cho phép nước nhập khẩu áp dụng một biện
pháp "đặc định", tức là chỉ nhắm một đối tượng, nếu xác định được là đối
tượng ấy đã gây ra tổn hại cho mình tuy rằng sự gia tăng nhập khẩu là từ mọi
nguồn. Lý do là vì ATC không cho phép áp đặt hạn ngạch mới, nên các nước
ngày trước không tham gia MFA (phi hạn ngạch) vẫn phải có cách tự vệ. Cơ
cấu phịng chống ATC vận hành như sau: nước nhập khẩu, khi thấy cần bảo
vệ thị trường của mình, yêu cầu nước xuất khẩu hội ý với mình. Hai bên có
thể thỏa thuận một biện pháp giới hạn nhập khẩu. Thỏa thuận này cũng như
yêu cầu hội ý đều phải được thông báo lên TMB. Nếu khơng đi đến thỏa
thuận, nước nhập khẩu có thể trình lên TMB một đề nghị giới hạn đơn
phương. TMB có 30 ngày để điều tra và đưa ra khuyến cáo. Nếu hai bên vẫn
khơng đồng ý thì có thể kiện nhau trước DSB. Vì mọi giai đoạn đều đặt dưới
sự giám sát của TMB - một cơ quan đa phương - nên cơ cấu này, tuy hãy còn
vi phạm ngun tắc khơng phân biệt đối xử nhưng ít ra cũng trong suốt hơn
các hạn ngạch song phương, chỉ có hai nước liên can là biết với nhau. Mặt
khác, để tránh việc nước nhập khẩu lạm dụng và biến phòng chống thành một
thứ hạn ngạch "chui", các biện pháp này cũng "tạm thời" tức là chỉ có thể áp
dụng trong 3 năm, không gia hạn. ATC dùng chữ "transitional" thay vì
"temporary" cũng để nhắc lại yếu tố quá độ của cả Hiệp ước.
Từ 1995 đến 2001, có 53 biện pháp phịng chống thơng báo lên TMB,
trong đó một nửa (26) là do Mỹ, phần còn lại do các nước châu Mỹ La Tinh.
Điều đáng nói là trong năm đầu (1995) đã có 23 biện pháp, tồn bộ là của Mỹ,
khiến ai cũng phải hoảng hốt, từ các nước xuất khẩu đến các nhà quan sát và

cả TMB. Nhưng sau đó thì ngồi 3 trường hợp của Mỹ và 1 của Ba Lan (năm
Phạm Thị Thu

7

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

2001), chỉ có 4 nước châu Mỹ La Tinh dùng đến điều lệ 6: Argentina, Brazil,
Ecuador, và Colombia. Cả 4 nước này đều là thành viên của tổ chức
International Textile and Clothing Bureau (ITBC) tại Genève. Tổ chức ITBC
cũng hoạt động tích cực trong ngành dệt may.
Sát nhập vào khuôn khổ GATT hay vào khung pháp lý của WTO chỉ có
nghĩa đơn giản là bãi bỏ hạn ngạch, để hàng may dệt không cịn là biệt lệ
trong luật WTO. Lịch trình sát nhập được ấn định như sau:
Bảng 1 - Lịch trình sát nhập các qui định đối với dệt may vào GATT
1994
Tỷ lệ sát nhập tối thiểu
Giai đoạn
Giai đoạn 1
Giai đoạn 2
Giai đoạn 3
Giai đoạn 4

Kỳ hạn
1.1.1995
1.1.1998
1.1.2002

1.1.2005

(tính trên khối lượng
nhập năm 1990)
16% (còn lại 84%)
17% (còn lại 67%)
18% (còn lại 49%)
100%
Nguồn: Văn phòng WTO

Đây là đầu mối của nhiều tranh cãi. Trước hết, nhiều nước nhập khẩu thi
hành chậm hơn qui định. Ví dụ: Ấn Độ than phiền là cho đến tháng 6 năm
2004, khi giai đoạn 4 sắp chấm dứt, Mỹ mới chỉ bãi bỏ 103 hạn ngạch trên
tổng số 937, tức là cịn lại những 89%. Sau đó, ngay cả cấu trúc của lịch trình
cũng gây vấn đề. Đầu tiên, tỷ lệ sát nhập tính trên khối lượng chứ khơng phải
trị giá nên trong hai giai đoạn đầu, các mặt hàng được chọn để đưa vào khung
pháp lý đa số là những hàng rẻ, những hàng cao cấp hơn vẫn bị giới hạn.
Ngồi ra, vì những tỷ lệ của 3 giai đoạn đầu tương đối thấp, số còn lại dồn
cho giai đoạn chót lên tới 49%, có nghĩa là ngay cả khi các nước chấp hành
nghiêm chỉnh, cũng vẫn còn gần một nửa cơng cuộc tự do hóa sẽ xảy ra cùng
một lúc vào ngày 1.1.2005. Khơng khác gì một "big bang". Hơn nữa, vì các
nước nhập khẩu có tồn quyền chọn các mặt hàng cho 3 giai đoạn sát nhập
Phạm Thị Thu

8

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368


đầu tiên, đại đa số 49% (hoặc hơn) này là những hàng "mẫn cảm" nhất về mặt
chính trị.
Tự do hóa có nghĩa là các hạn ngạch còn tồn tại sẽ phải được gia tăng
mỗi năm, như thời MFA. Tuy nhiên, thay vì cố định như tỷ lệ MFA, tỷ lệ
ATC cũng tăng dần với thời gian, cho đến kỳ hạn cuối cùng, theo lịch trình
sau đây:
Bảng 2 - Lịch trình tự do hóa hạn ngạch
Năm

Tỷ lệ gia tăng

Khối lượng (đơn vị)

1994

6% (như theo qui định

Thí dụ: 1000 đơn vị

của MFA)

1995
1996
1997

(6% x 1,16)
6,96%
6,96%
6,96%


1 070
1 144
1 224

1998
1999
2000
2001

(6,96% x 1,25)
8,70%
8,70%
8,70%
8,70%

1 330
1 446
1 572
1 709

2002
2003
2004

(8,70% x 1,27)
11,05%
11,05%
11,05%


1 898
2 108
2 340

Nguồn: Văn phòng WTO
Như thế, một hạn ngạch nếu được nâng cao đúng theo qui định của
MFA, tức 6% một năm, sẽ tăng 79% sau 10 năm, nhưng nếu theo các tỷ lệ
của ATC, thì tăng 134% tức là hơn gấp đôi.
Phạm Thị Thu

9

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Tuy nhiên đây là trường hợp lý tưởng vì trong thực tế, đa số các tỷ lệ gia
tăng ấn định trong các thỏa thuận song phương thường thấp hơn, chỉ từ 3% đến
6%, nên ngay cả khi nước nhập khẩu chấp hành nghiêm chỉnh lịch trình trên, hạn
ngạch cũng chỉ tăng lên có chừng mực thôi. Mặt khác các nước xuất khẩu cũng
than phiền là các hạn ngạch có tỷ lệ cao nhất, tức là sẽ được tự do hóa nhiều nhất,
cũng ít được dùng đến nhất vì gồm những mặt hàng ít có lợi cho họ.
Ngồi những buổi họp thường lệ, TMB cũng tổng kết và đánh giá tình
hình sau mỗi giai đoạn của các lịch trình. Vì việc thực thi các hiệp ước của
vịng Uruguay, trong đó có Hiệp ước ATC, là một trong những mối bất đồng
giữa các thành viên, nên Hội nghị Bộ trưởng của WTO tại Doha năm 2001
cũng thông qua một quyết định về vấn đề này, trong đó đưa ra hai đề nghị cho
ngành dệt may để mở rộng thị trường bằng cách tính các tỷ lệ gia tăng hạn
ngạch theo phương pháp khác. Hội đồng CTG có nhiệm vụ bàn bạc và trình

kết luận lên Tổng Hội đồng (General Council) - Cơ quan tối cao của WTO trước cuối tháng 7 năm 2002. Tuy thế các nước thành viên vẫn không đi đến
đồng thuận trong năm 2003 và các cuộc họp vẫn tiếp tục trong năm 2004.
Tháng 6.2004, khoảng 90 công ty và hiệp hội dệt may của 49 nước, cả
nhập khẩu lẫn xuất khẩu, sau khi họp một hội nghị thượng đỉnh về công bằng
trong mậu dịch dệt may ("Summit on Fair Trade in Textiles and Clothing")
tại Bruxelles (Bỉ), viết thư cho ông Supachai Panitchakdi, Tổng Giám Đốc
WTO, yêu cầu gia hạn Hiệp ước ATC thêm 3 năm, cho đến 31.12.2007, vì họ
sẽ khơng thể cạnh tranh nổi với các nước như Ấn Độ và Trung Quốc khi thị
trường hoàn toàn mở cửa. Theo họ, có nguy cơ 30 triệu người sẽ mất việc trên
thế giới và thậm chí một số nước sẽ bị phá sản. Họ cũng yêu cầu WTO mở
một cuộc họp khẩn cấp, trễ nhất là ngày 1.7.2004, để xem xét các vấn đề họ
nêu lên trong một tài liệu gửi kèm, gọi là " Tuyên Ngôn Istanbul". Cùng lúc,
các lobbies Mỹ vận động được 117 đại biểu và thượng nghị sĩ Mỹ (trong đó
có John Kerry, ứng cử viên tổng thống) yêu cầu tổng thống Bush can thiệp
Phạm Thị Thu

10

TMQT44


Website: Email : Tel : 0918.775.368

cho cùng mục đích. Các nhà sản xuất nội địa các nước nhập khẩu lo lắng đã
đành, điều đáng ngạc nhiên là liên minh với họ lại là một số nước xuất khẩu,
phản đối một điều mà chính phía bên họ địi hỏi từ hơn 40 năm nay.
Tuy nhiên đến ngày 1/1/2005, Hiệp ước ATC cũng đã chấm dứt, cáo chung
một biệt lệ kéo dài từ năm 1960 và bắt đầu cho một thời kỳ mới - thời kỳ cạnh
tranh không hạn ngạch.
II. Tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong thời gian qua.

1.

Kim ngạch xuất khẩu.
Dệt may là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta trong

những năm gần đây, đóng góp quan trọng cho q trình cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, dệt may Việt Nam đã vươn
lên trở thành ngành công nghiệp lớn đứng thứ 2 đất nước. Trong mấy năm
gần đây kim ngạch xuất khẩu dệt may ln dẫn đầu nhóm các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của ta (trừ dầu thô) với tốc độ tăng trưởng ln đạt ít nhất là
10%. Tuy nhiên sau sự kiện hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO kết
thúc, ngành dệt may của Việt Nam đã có những biến động nhất định.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu dệt may
Đơn vị tính: Tỷ USD
Năm

Kim ngạch xuất khẩu

Tỷ lệ tăng trưởng (%)

2000
2001
2002
2003
2004
2005
Quý I/2006

1.892
1.972

2.752
3.678
4.3
4.82
1.36

4,23
39.55
36,65
16,19
10,17
Tăng 40% so với cùng kì năm ngối.
Nguồn: Tổng cục thống kê

Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu dệt may
Đơn vị: Tỷ USD

Phạm Thị Thu

11

TMQT44



×