Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

giao kết hợp đồng thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.72 KB, 25 trang )

Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam.
Những bước phát triển mới này thúc đẩy các quan hệ thương mạiquốc tế giữa các thương
nhân Việt Nam và các chủ thể thương nhân quốc tế. Điều này có vai trò to lớn đối với sự
phát triển kinh tế đất nước. Nó thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư vào Việt Nam, tạo
cơ hội hợp tác kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nước, tạo việc làm với thu
nhập cao cho người lao động, và thúc đẩy một loạt các ngành dịch vụ trong nước phát
triển. Trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam những năm qua, các hoạt động
mua bán hàng hoá quốc tế đã có những bước tiến vượt bậc, góp phần tích cực vào sự tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Điều này khiến Nhà nước ta luôn quan tâm sâu
sắc đến việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Môi trường pháp lý
thuận lợi, thông thoáng được coi là biện pháp tối ưu để tăng cường hiệu quả trong hoạt
động thương mại quốc tế. Cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền lợi và ràng buộc trách nhiệm
của các bên tham gia hoạt động thương mại này chính là hợp đồng thương mại quốc tế.
Và để có thể giao kết được một hợp đồng thương mại quốc tế, pháp luật thế giới và pháp
luật Việt Nam đều có những quy định và điều chỉnh phù hợp để phát triển hoạt động
thương mại. Bài nghiên cứu dưới đây chúng tôi xin trình bày những vấn đề lý luận về
giao kết hợp đồng thương mại quốc tế, những vấn đề cần bàn luận về giao kết hợp đồng
cũng như xin mạnh dạn trình bày những hướng mới, những kiến nghị để hoàn thiện hơn
1
1
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
nữa pháp luật Việt Nam về giao kêt hợp đồng thương mại để thương mại Việt Nam phát
triển và hòa chung với thương mại quốc tế.
TP Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2015.
1. Những vấn đề chung trong giao kết hợp đồng thương mại quốc tế.
▪ 1.1.khái niệm giao kết hợp đồng thương mại quốc tế.
Theo bộ luật dân sự 2005 thì giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí


với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các
quyền, nghĩa vụ dân sự.Hợp đồng được giao kết bằng việc chấp nhận một đề nghị hoặc
bằng thái độ thể hiện đầy đủ sự thống nhất ý chí của các bên.
Giao kết hợp đồng thương mại không có quy định riêng nên hiện nay các chế định
về giao kết hợp đồng thương mại tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Sự
khác biệt về mục đích giao kết của hợp đồng thương mại so với hợp đồng dân sự chính là
lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thương mại. Các điều luật của bộ luật dân sự
2005 về giao kết hợp đồng được lấy làm cơ sở pháp lý khi tham gia giao kết của các bên
chủ thể trong quan hệ thương mại về nguyên tắc chung của hợp đồng, thủ tục giao kết,
thời điểm hợp đồng giao kết.
Theo định nghĩa về hợp đồng thương mại quốc tế thì ta có thể hiểu giao kết hợp
đồng thương mại quốc tế là giao kết hợp đồng thương mại giữa các thương nhân có trụ sở
thương mại (địa điểm kinh doanh) nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
1.2. phân loại giao kết hợp đồng thương mại quốc tế.
thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế cho thấy rằng giao kết hợp đồng thương
mại có thể bằng 2 phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp
2
2
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
• Giao kết hợp đồng thương mại bằng phương thức trực tiếp: các bên tham gia giao
kết hợp đồng cử người đại diện trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thỏa thuận,
thương lượng về các nội dung của hợp đồng và cùng kí tên vào văn bản hợp đồng.
kể từ thời điểm các bên kí vào hợp đồng, hợp đồng sẽ được xác lập và phát sinh
hiệu lực pháp lý. Thực tiễn cho thấy rằng hợp đồng có giá trị lớn, phứt tạp hay
giữa các bên chưa thiết lập được một mối quan hệ lâu dài thì nên được ký kết bằng
phương pháp trực tiếp. Điều này sẽ giúp cho các bên có điều kiện bàn bạc kĩ lưỡng
từng điều khoản nội dung của hợp đồng, các bên có thể tránh được những sai sót,
đặc biệt là tránh được sự hiểu lầm ý định của nhau.
• Giao kết hợp đồng thương mại bằng phương thức gián tiếp: các bên không trực
tiếp gặp nhau bàn bạc mà thỏa thuận thông qua các tài liệu giao dịch như công

văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng…có ghi rõ nội dung cần giao dịch.
Trình tự giao kết hợp đồng theo phương thức này có hai giai đoạn: đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kêt hợp đồng. Trình tự này sẽ được trình
bày ở phần sau.
▪ 1.3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại.
Các nguyên tắc giao kết hợp đồng là các tư tưởng, nội dung quan trọng mà khi
giao kết hợp đồng, các chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ, được pháp luật các nước thừa nhận
rộng rãi.
Bộ luật Dân sự 2005, Điều 389 có quy định việc giao kết hợp đồng dân sự phải
tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1.3.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Bộ luật Dân sự quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo
điều kiện cho các chủ thể có thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Dựa trên
nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều có thể
tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch/ hợp đồng dân sự nào, nếu muốn. Tuy nhiên, hợp
đồng chỉ có hiệu lực pháp luạt, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên
giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà nước. Hay nói cách khác, sự tư do ý chí giao
3
3
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định – giới hạn lợi
ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự
do vô hạn, thì hợp đồng dân sự sẽ trở thành phương tiện để kể giàu bóc lột người nghèo
và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề
tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự…
không được bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà nước vào
các quan hệ dân luật. Chính vì vậy, trong xã hội ta – xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích
chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội không cho phép bất cứ cá
nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để biến những hợp đồng dân sự thành
phương tiện bóc lột. Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích của mình, các chủ thể phải chú ý tới

quyền, lợi ích của người khác, của toàn xã hội; tự do của mỗi chủ thể không được tráI
pháp luật, đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng, của toàn xã hội được quy định bởi pháp
luật và đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia
giao kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
1.3.2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng không
ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời thể hiện bản chất
của quan hệ pháp luật dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham gia các
quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau; không ai được viện lý do khác biệt về hoàn
cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo… để tạo ra sự bất bình
đẳng trong quan hệ dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể tham gia hợp
đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương diện. Chính vì
vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự bình đẳng và ý
chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá một
hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện của các bên hay chưa, trong một số
trường hợp lại là một công việc hoàn toàn không đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều
nguyên do chủ quan và khách quan khác nhau.
4
4
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên
trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý chí của
chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong nội dung hợp đồng mà chủ thể này
đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên tắc
tự nguyện hay chưa. Hay nói cách khác, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện
khi hình thức của hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn,
nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
1.4. Thẩm quyền giao kết hợp đồng thương mại.
Chủ thể của hợp đồng thương mại quốc tế có thể là cá nhân, pháp nhân, các tổ
chức không phải là pháp nhân, tổ hợp tác và hộ gia đình. Vì vậy, thẩm quyền kí kết hợp

đồng thương mại quốc tế có sự khác biệt đối với từng loại chủ thể.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
được coi là hợp pháp khi chủ thể giao kết hợp đồng hợp pháp, tức là có năng lực pháp
luật, và người kí kết có năng lực hành vi và thẩm quyền kí kết hợp đồng. Theo nguyên tắc
thì thương nhân được phép kí kết hợp đồng thương mại thì được kí kết hợp đồng thương
mại quốc tế. Tuy nhiên tùy thuộc vào từng lĩnh vực của hoạt động thương mại mà pháp
luật có những quy định cụ thể. Ví dụ thương nhân có thể giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa không phụ thuộc vào ngành nghề, ngành hàng được ghi trong chứng nhận đăng kí
kinh doanh nhưng có thể bị hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu đối với các mặt hàng nằm
trong danh mục cấm hoặc hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu.
Đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức, tổ hợp tác, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân,
thẩm quyền kí kết hợp đồng thuộc về chính cá nhân đó, tổ trưởng tổ hợp tác, chủ hộ, chủ
doanh nghiệp tư nhân. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thẩm quyền kí kết
hợp đồng thương mại quốc tế.
Trong trường hợp người có thẩm quyền kí kết hợp đồng thương mại quốc tế không
thể tự mình tham gia đàm phán và kí kết hợp đồng được thì họ có thể uỷ quyền cho người
khác. Việc uỷ quyền có thể được thực hiện bằng văn bản. Nội dung uỷ quyền có thể là uỷ
quyền thường xuyên hoặc uỷ quyền theo vụ việc. Về mặt pháp lý, người được uỷ quyền
chỉ có thể thực hiện việc kí kết hợp đồng trong phạm vi được uỷ quyền. Trong trường hợp
5
5
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
vượt quá phạm vi được uỷ quyền mà không có sự đồng ý của người uỷ quyền thì quyền
hợp đồng sẽ không có hiệu lực pháp luật.
▪ 1.5.Trình tự giao kết hợp đồng thương mại quốc tế.
Theo quan điểm của pháp luật thương mại quốc tế trình tự kí kết hợp đồng mua
bán hàng hóa được chia làm hai trường hợp: trường hợp các bên kí kết trực tiếp gặp nhau
và trường hợp các bên không trực tiếp gặp nhau. Trong trường hợp các bên có thể gặp
nhau, việc kí kết hợp đồng diễn ra trên cơ sở đàm phán trực tiếp. Đối với trường hợp các
bên kí kết không trực tiếp gặp nhau, hợp đồng thường được kí kết qua hai giai đoạn: giai

đoạn đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Thứ nhất, ở giai đoạn đề nghị giao kết hợp đồng, bên đề nghị phải thể hiện rõ ý
định muốn giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc này của bên đề nghị đối với bên đã
được xác định cụ thể. Việc đề nghị giao kết hợp đồng phải tuân theo một số quy định của
pháp luật như điều kiện hiệu lực của lời đề nghị, thời hạn hiệu lực của đề nghị, điều kiện
để đơn phương tuyên bố hủy bỏ lời đề nghị… Thông thường, hợp đồng sẽ được kí kết
nếu đơn chào hàng được chấp nhận vô điều kiện. Bên được chào hàng sẽ trở thành bên
chào hàng mới khi họ đưa ra một số điều kiện khác với điều kiện khác với điều kiện ban
đầu của bên chào hàng. Các điều kiện mới này được coi như đơn chào hàng mới và bên
chào hàng sẽ trở thành bên được chào hàng.
Thứ hai, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
với bên đề nghị, thể hiện việc toàn bộ chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị và đồng ý
tiến hành giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Về nguyên tắc, khi các bên trực tiếp giao
tiếp với nhau thì bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc chấp nhận hay không chấp
nhận đề nghị. Trường hợp cần có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ, bên
đề nghị có thể ấn định thời hạn trả lời. Việc trả lời chấp nhận đề nghị chỉ có hiệu lực
trong thời gian đã được ấn định (Điều 397 BLDS 2005). Bên được đề nghị có thể chấp
nhận một phần hoặc toàn bộ nội dung đề nghị. Bên được đề nghị cũng có thể sửa đổi nội
dung đề nghị hoặc đưa thêm những nội dung mới. Trong trường hợp này, bên được đề
6
6
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
nghị sẽ trở thành người đề nghị mới và người đề nghị trước đó sẽ trở thành người được
đề nghị.
▪ 1.6.Lời đề nghị giao kết hợp đồng thương mại quốc tế.
Theo quy định của khoản 1 Điểu 390 Bộ Luật Dân Sự 2005, đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị
này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
• Đặc điểm của đề nghị giao kết hợp đồng
Thứ nhất, đề nghị được gửi cho bên được xác định. Quy định này có thể hiểu rằng,

bên xác định có thể là một người hay một số người xác định và giống với quy định
pháp luật của nhiều nước. Đặc điểm này cũng cho phép phân biệt đề nghị giao kết
hợp đồng với quảng cáo. Quảng cáo cũng có thể là một lời đề nghị nhưng được gửi
không phải cho một người hay một số người xác định, vì vậy người đưa ra đề nghị
không bị ràng buộc.
Thứ hai, trong đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện ý định giao kết hợp đồng
của bên đề nghị. Vì sự cần thiết phải bảo vệ tính xác thực của giao dịch, ý định giao
kết hợp đồng của người đề nghị phải được đánh giá theo những tiêu chí khách quan.
Thông thường ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị được thể hiện ở chỗ, trong
lời đề nghị giao kết hợp đồng bên đề nghị có quy định những điều khoản chủ yếu
của hợp đồng tương lai, trên cơ sở điều khoản này có thể xác định được quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng trong trường hợp bên được đề nghị chấp nhận,
tức là hợp đồng được ký kết. Ví dụ, Điều 14 Công ước viên 1980 quy định rằng, đề
nghị giao kết hợp đồng được coi là xác định nếu trong đó có mô tả hàng hóa, và một
cách trực tiếp hay gián tiếp quy định số lượng và giá cả hay cách thức xác định
chúng. Pháp luật của nhiều nước yêu cầu trong đề nghị giao kết hợp đồng phải có
các nội dung chủ yếu của hợp đồng.
Thứ ba, thể hiện được sự ràng buộc của bên đề nghị trong trường họp đề nghị
giao kết hợp đồng được chấp nhận. Một đề nghị được coi là đề nghị giao kết họp
đồng khi thông qua nội dung của nó, bên được đề nghị hay bất kỳ một người bình
thường có đủ năng lực hành vi dân sự nào khác khi đọc nó hiểu rằng, nếu bên được
7
7
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
đề nghị chấp nhận thì hợp đồng được ký kết. Tính ràng buộc của đề nghị giao kết
hợp đồng có thể được thể hiện bằng hai hình thức:
• Bên đề nghị có quy định thời hạn hiệu lực
• Nếu không quy định thời hạn hiệu lực nhưng xuất từ nội dung của đề nghị,
một cách hợp lý bên được đề nghị cho rằng, đề nghị giao kết hợp đồng có
tính ràng buộc. Việc xác định tính ràng buộc của đề nghị giao kết hợp đồng

có ý nghĩ quan trọng trong việc xác định giá trị pháp lý của chúng.
Theo nguyên tắc chung, đề nghị giao kết hợp đồng bắt đầu có giá trị pháp lý khi
người được đề nghị nhận đề nghị nếu các bên không có thỏa thuận khác (Điều 391 Bộ
luật dân sự 2005) . Quy tắc này không những được quy định trong pháp luật của các nước
thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa mà cả trong pháp luật Anh Mỹ.
Khi xem xét giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng không thể không nói
đến sự thay đổi, thu hồi hay hủy ngang của nó. Theo nguyên tắc chung, đề nghị giao kết
hợp đồng có thể được người đề nghị thay đổi, hủy ngang hay thu hồi trước khi nó được
chấp nhận. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật các nước châu Âu lục địa thì đề nghị
giao kết hợp đồng không thể được thay đổi, hủy ngang hay thu hồi trong các trường hợp
sau:
• Nếu trong đề nghị giao kết hợp đồng có quy định thời hạn trả lời
• Trong đề nghị giao kết hợp đồng có ghi rõ là đề nghị không thể thu hồi
• Xuất phát từ nội dung của người chào hàng, người được chào hàng cho rằng đơn
chào hàng không thể thu hồi và đã hành động một cách hợp lý (mục 2 Điều 16
Công ước Viên 1980).
Các quy định nói trên không được áp dụng trong trường hợp thay đổi, hủy ngang
hay thu hồi đến tay người được đề nghị trước hay cùng một lúc với đề nghị giao kết
hợp đồng.
Việc pháp luật của Việt Nam và pháp luật của một số nước khác không cho phép
người đề nghị thay đổi, hủy ngang hay thu hồi trong thời hạn hiệu lực của đề nghị
giao kết hợp đồng có thể nói là nhằm mục đích bảo đảm trật tự lưu thông dân sự,
thương mại. Rõ ràng, khi nhận được đề nghị giao kết hợp đồng bên đề nghị cần phải
8
8
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
có một thời gian suy nghĩ, cân nhắc hay là có những sự chuẩn bị cần thiết trước khi
đưa ra sự chấp thuận của mình
▪ 1.7.Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng thương mại quốc tế
Hợp đồng thương mại quốc tế hay hợp đồng mang tính chất thuộc quốc gia có bản

chất là sự thỏa thuận dựa trên cơ sở quyền tự định đạt của các bên tham gia hợp đồng.
Chính vì vậy, các bên hoàn toàn có thể sửa đổi hợp đồng để phù hợp với nhu cầu và lợi
ích của mình. Khoản 1, Điều 423 BLDS năm 2005 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận
sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”. Sửa đổi hợp đồng là việc các bên tham gia giao kết hợp đồng thỏa thuận với
nhau làm thay đổi một số điều khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết. Quá trình
sửa đổi hợp đồng cũng cần tuân theo các thủ tục như quá trình giao kết hợp đồng trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc sửa đổi hợp đồng phải được ghi nhận dưới
hình thức phù hợp với hình thức của hợp đồng đã giao kết. Khoản 2, Điều 423 BLDS
2005 quy định: “Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản có công chứng,
chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình
thức đó”.
◦ 2. So sánh giao kết hợp đồng thương mại quốc tế và hợp đồng thương mại Việt
Nam.
Trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, các hoạt động thương mại nói chung và việc
giao kết hợp đồng thương mại nói riêng phải tuân theo Luật Thương Mại và pháp luật có
liên quan (Khoản 1 Điều 1 và Khoản 1 Điều 4 Luật Thương Mại). Tuy nhiên, các bên
trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước
ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc
tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (Khoản 2 Điều 5 Luật
Thương mại). Phần phân tích dưới đây xin so sánh về giao kết hợp đồng thương mại quốc
tế và giao kết hợp đồng thương mại Việt Nam trên cơ sở những tiêu chí khái quát chung
đã trình bày ở phần I.
Giống nhau
9
9
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
Tuân theo các nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc thứ nhất: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội.Trong Luật dân sự La Mã ghi nhận rằng: “Với tư cách như một cơ sở

phát sinh nghĩa vụ, hợp đồng chỉ có thể có nếu các bên ký hợp đồng có chủ ý xác lập các
mối liên hệ trách nhiệm”. Điều đó cũng được bộ luật dân sự Việt Nam ghi nhận tại điều
4: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận, trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được
pháp luật bảo đảm, nếu cam kết thỏa thuận đó không trái đạo đức xã hội” và khoản 1
Điều 389: “Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”
Ngoài ra thì nguyên tắc này được thể hiện trong Khoản 1 điều 11 Luật Thương
Mại 2005: “Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các qui định của pháp luật
mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền, nghĩa vụ các bên trong hoạt động thương mại
và bảo hộ các quyền đó.”
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 cũng rất đề
cao nguyên tắc này khi qui định tại điều 1.1 rằng : “Các bên được giao kết hợp đồng và
thỏa thuận nội dung hợp đồng” Trong khi nguyên tắc của Luật hợp đồng Châu Âu điều
1.02 quy định: “Các bên được tự do giao kết hợp đồng xác định nội dung hợp đồng phụ
thuộc vào yêu cầu về thiện chí, công bằng và các quy tắc bắt buộc được thiết lập
bởi các nguyên tắc này.”
Nguyên tắc thứ hai: tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng
▪ Khoản 2 Điều 389 BLDS 2005 về Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự
Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
▪ ĐIỀU 1.7 UNIDROIT (Thiện chí và trung thực)
Các bên trong hợp đồng phải tuân theo những yêu cầu về thiện chí và trung thực trong
thương mại quốc tế.
Các bên trong hợp đồng không được loại trừ hay hạn chế nghĩa vụ này.
10
10
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế và giao kết hợp đồng thương mại Việt Nam
giống nhau ở các quy định chung :
• Chủ thể của hợp đồng là thương nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định
của pháp luật mà thương nhân mang quốc tịch.

• Hình thức của hợp đồng do các bên tự do lựa chọn, trừ trường hợp pháp luật bắt buộc
phải tuân thủ hình thức nhất định.
• Trình tự giao kết hợp đồng thông qua 2 giai đoạn: đề nghị giao kết hợp đồng và chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
• Trong thời gian chờ, bên đề nghị giao kết hợp đồng với bên thứ ba thì phải bồi thường
cho bên được đề nghị nếu có thiệt hại xảy ra.
Được quy định trong Khoản 2 Điều 390 BLDS 2005 , trong hệ thống pháp luật châu
Âu lục địa và các văn bản pháp lý quốc tế, ngoại trừ pháp luật của các nước thuộc hệ
thống pháp luật Anh –Mỹ .
• Đề nghị giao kết hợp đồng bắt đầu có giá trị pháp lý khi người được đề nghị nhận đề
nghị nếu các bên không có thỏa thuận khác.
▪ Theo Điều 391 Bộ luật Dân sự 2005 và quy định trong pháp luật các nước
thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, pháp luật Anh-Mỹ.
Quy định giống nhau về các trường hợp chấm dứt hiệu lực của giao kết hợp đồng
Đều tuân theo nguyên tắc không coi im lặng là chấp nhận giao kết hợp đồng. Chấp
nhận đề nghị phải thỏa 2 điều kiện:
◦ Bên được đề nghị phải chấp nhận toàn bộ các điều kiện mà bên đề nghị đưa ra.
◦ Trả lời đề nghị trong thời hạn hiệu lực hoặc trong thời hạn hợp lý.
Thời điểm hợp đồng được ký kết từ thời điểm bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng
nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
11
11
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
Khác nhau:
Hợp đồng thương mại quốc tế Hợp đồng thương mại Việt Nam
Đối tượng Hàng hóa hữu hình, các loại đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ, các
loại dịch vụ thương mại không bị
pháp luật Việt Nam cấm.
Hàng hóa ( tất cả các loại động

sản, kể cả động sản hình thành
trong tương lai và những vật gắn
liền với đất đai), dịch vụ không bị
pháp luật Việt Nam cấm.
Cơ sở pháp

Tùy thuộc vào sự lựa chọn của các
bên ( Điều ước quốc tế, tập quán
thương mại, luật quốc gia…)
Pháp luật Việt Nam
Thể hiện ý
định trong
giao kết hợp
đồng
Quy định rõ hơn về cách thức xác
định ý định ký kết hợp đồng của
bên đề nghị.
Điều 14 Công ước Viên 1980 quy
định rằng: “Đề nghị giao kết hợp
đồng được coi là xác định nếu
trong đó có mô tả hàng hóa, và một
cách trực tiếp hay gián tiếp quy
định số lượng và giá cả hay cách
thức xác định chúng”.
Không có quy định.
Điều 390 BLDS 2005 chỉ nói rằng:
“đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp
đồng”.
Việc thay

đổi, hủy
ngang hay
thu hồi đề
nghị
Cho người đề nghị thay đổi, hủy
ngang hay thu hồi đề nghị thay đổi
đề nghị giao kết hợp đồng khi bên
được đề nghị chưa trả lời ( trừ một
số trường hợp)
Không cho phép
12
12
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
Giá trị pháp
lý của đề
nghị giao
kết hợp
đồng không
quy định
thời hạn
Có thể thay đổi, thu hồi trong mọi
thời điểm nếu được bên được đề
nghị chấp nhận.
Tuy nhiên, đề nghị giao kết không
được thay đổi hay thu hồi trong
một thời gian hợp lý kể từ thời
điểm có hiệu lực. (Ví dụ: Khoản 2
Điều 18 Công ước Viên 1980)
Không có sự điều chỉnh về vấn đề
này.

Giá trị pháp
lý của chấp
nhận giao
kết hợp
đồng khi có
sự thay đổi,
bổ sung.
Vẫn được coi là đề nghị ban đầu
nếu những thay đổi, bổ sung đó
không làm thay đổi bản chất,nội
dung cơ bản của đề nghị và bên đề
nghị không phản đối (khoản 2 Điều
19 Công ước Viên 1980)
Khi bên được đề nghị nêu điều
kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì được
coi là đưa ra đề nghị mới (Điều
395 BLDS 2005)
Giá trị pháp
lý trong
trường hợp
chết hoặc
mất năng
lực hành vi
dân sự.
Chấm dứt hiệu lực . Trong trường hợp đã có sự trả lời
thì đề nghị hợp đồng và chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng có giá
trị pháp lý.
13
13

Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
3. Một vài vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật về giao kết hợp đồng thương
mại quốc tế.
Thực tế có rất nhiều tranh chấp liên quan đến việc giao kết hợp đồng thương mại
quốc tế, mà cụ thể là giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, song chúng tôi xin đi sâu vào
bàn luận cũng như phân tích một số ví dụ về cách giao kết hợp đồng gián tiếp, hay còn
gọi là thông qua lời đề nghị giao kết hợp đồng.
▪ 3.1 Vụ kiện giữa nguyên đơn Lefkowitz và bị đơn Great Minneapolis ở
Mỹ vào năm 1956.
Tóm tắt vụ kiện: Ngày 6/4/1956, bị đơn Great Minneapolis đăng quảng cáo trên báo của
thành phố Minneapolis: 9h sáng thứ bảy, những chiếc áo lông mới hiệu Sharp giá 100
USD, sẽ bán cho người có mặt đầu tiên với giá 1 USD. Ngày 13/4/1956, bị đơn tiếp tục
đăng quảng cáo với nội dung: khăn choàng lông thỏ màu đen dành cho phụ nữ giá 139.50
USD, sẽ bán cho người có mặt đầu tiên với giá 1 USD. Vào một trong những ngày thứ
bảy theo như đã công bố trên quảng cáo, nguyên đơn Lefkowitz là người đầu tiên có mặt
tại cửa hiệu của bị đơn và trong mỗi thời điểm, nguyên đơn yêu cầu bị đơn bán áo choàng
và khăn như đã quảng cáo. Trong cả hai thời điểm, bị đơn từ chối bán hàng trưng bày cho
nguyên đơn và tuyên bố trong thời điểm thứ nhất rằng, do một quy tắc của hãng, quảng
cáo được đưa ra và chỉ bán cho phụ nữ. Do đó, nguyên đơn đã kiện bị đơn ra tòa vì cho
rằng, bị đơn đã không thực hiện đúng cam kết đã nêu trong quảng cáo.
Trong vụ kiện này, thẩm phán đã dựa vào điều 14, 15, 24 của CISG để xác định người
mà bên đưa ra đề nghị muốn hướng tới được thể hiện ngay khi bên đề nghị “gửi” đề nghị,
đó là tên của pháp nhân hoặc thể nhân, địa chỉ trụ sở thương mại, địa chỉ bưu chính hoặc
địa chỉ thường trú của bên đó, tức là bên đề nghị đã biết rõ bên được đề nghị là ai khi họ
“gửi” đề nghị. Như vậy, quảng cáo của Great Minneapolis chỉ là một lời mời chào hàng
chứ không phải là một đề nghị giao kết hợp đồng, vì nó hướng tới công chúng, một tập
hợp người không xác định. Khi đăng quảng cáo, Great Minneapolis không biết được ai sẽ
đọc quảng cáo cũng như không thể biết Lefkowitz sẽ là “người đầu tiên tới cửa hàng”
14
14

Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
trong vô số những người đã đọc quảng cáo và tới cửa hàng Great Minneapolis để mua các
sản phẩm lông thú.
Bàn luận:
Thứ nhất, đối với tình huống trên, trong khi PICC không có quy định nào liên
quan đến tính xác định của người được đề nghị.
Thứ hai, Nếu đặt ví dụ trên vào hoàn cảnh của Việt Nam thì rất khó giải quyết vì
Điều 390 BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã
được xác định cụ thể”. Tính xác định của bên được đề nghị được giải thích căn cứ hoàn
toàn vào ý chí của bên đưa ra đề nghị. Lefkowitz có thể coi là không được xác định cụ
thể theo cách lập luận ở trên khi vận dụng CISG giải quyết tình huống này; nhưng cũng
có thể là được xác định nếu dựa vào tiêu chí “người đầu tiên tới cửa hàng” như cách lập
luận của Lefkowitz. Khi đó, việc lựa chọn phương án nào lại phụ thuộc vào cảm tính của
thẩm phán. Đó chính là hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của Điều 390 BLDS 2005, bởi
theo lý thuyết chung thì quy phạm pháp luật phải rõ ràng và đơn nghĩa để đảm bảo cho
pháp luật được hiểu và áp dụng một cách thống nhất.
▪ 3.2 Vụ kiện giữa bị đơn là một công ty có trụ sở tại Áo và nguyên đơn là
người nuôi chồn Chinchilla ở Đức năm 1991.
Tóm tắt vụ kiện: Tháng 3/1991, tại một cuộc triển lãm ở Fuerstenstein (Đức), bị đơn -
một công ty có trụ sở tại Áo - đặt hàng nguyên đơn, người nuôi chồn Chinchilla ở Đức
một số lượng lớn các bộ lông chồn Chinchilla. Các bên thỏa thuận những bộ lông chồn
Chinchilla có chất lượng trung bình và cao hơn mức trung bình, sẽ có mức giá trong
khoảng 35 đến 65 DM mỗi bộ. Đầu tháng 4/1991, nguyên đơn đóng gói 249 bộ lông chồn
Chinchilla, trong đó có 236 bộ có chất lượng trung bình và 13 bộ có chất lượng thấp hơn
gửi cho bị đơn. Ngày 6/4/1991, sau khi nhận được hàng, bị đơn giao hàng cho một nhà
buôn của Italia mà không mở ra kiểm tra. Nhà buôn Italia chỉ thanh toán 236 bộ lông có
chất lượng trung bình và gửi trả 13 bộ lông có chất lượng kém hơn cho bị đơn. Sau đó, bị
15
15

Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
đơn than phiền về 13 bộ lông đã bị trả lại và chuyển cho nguyên đơn 2,400 DM, theo
mức giá không quá 10 DM một bộ lông chồn, trong khi những bộ lông chồn có chất
lượng trung bình đã được bán với mức giá 60 DM một bộ. Do đó, nguyên đơn kiện bị
đơn đòi thanh toán 9,500 DM còn lại; nguyên đơn tính 50 DM trên mỗi bộ lông chồn.
Vấn đề pháp lý: Trong vụ kiện này, bị đơn cho rằng “đặt hàng với số lượng lớn” và
thỏa thuận “những bộ lông chồn Chinchilla có chất lượng trung bình và cao hơn mức
trung bình sẽ có mức giá trong khoảng 35 đến 65 DM trên mỗi bộ” là thiếu những sự
xác định cần thiết về số lượng và giá cả của hàng hóa, cần bị từ chối.
Tòa án (tòa sơ thẩm, phúc thẩm, tòa án tối cao Áo) đã dựa vào các quy định của CISG
để xác định tính rõ ràng về số lượng và giá cả trong đặt hàng của bị đơn vào tháng
3/1991. Tòa án lập luận rằng, bằng cách đặt hàng nguyên đơn một số lượng lớn những bộ
lông chồn có chất lượng trung bình hoặc cao hơn trong mức giá từ 35 đến 65 DM vào
tháng 3/1991, bị đơn đã đưa ra một đề nghị tới nguyên đơn về việc giao kết hợp đồng, đề
nghị đó được xác định rõ ràng về hàng hóa, chất lượng và số lượng. Nguyên đơn đã chấp
nhận chào hàng này, do đó, hợp đồng mua bán đã được ký kết giữa hai bên. Mức giá thỏa
thuận nằm trong khoảng từ 35 đến 65 DM không ảnh hướng tới giá trị của hợp đồng ký
kết. Theo Điều 55 của CISG, nó được xem như là một hợp đồng được ký kết nhưng
không quy định hoặc ấn định giá cả hoặc đưa ra cách xác định giá, trong sự thiếu vắng
bất kỳ sự chỉ dẫn về sự trái ngược, các bên được coi như có sự tham chiếu mặc nhiên tới
giá cả chung vào thời điểm hợp đồng được ký kết đối với hàng hóa được bán trong điều
kiện thương mại liên quan. Các bên đã tham chiếu tới giá chung cho những bộ lông chồn
được bán cho người mua. Theo hợp đồng và CISG, bị đơn có nghĩa vụ thanh toán giá
giao dịch cho nguyên đơn tại trụ sở kinh doanh của nó ngay sau khi nguyên đơn giao
hàng cho bị đơn. Như đã được thiết lập rằng những bộ lông chồn có chất lượng trung
bình được mua bán trong thị trường ở mức giá 60 DM và thích đáng với thực tế rằng
quyết định của tòa án sơ thẩm, quy định giá của mỗi bộ lông là 50 DM không bị nghi
ngờ. Điểm quan trọng nhất được đưa ra để xem xét là hành vi bán hàng cuối cùng của
người mua trong việc giao những bộ lông từ một số lượng nhỏ, không đề xuất bất cứ sự
16

16
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
phản đối nào về số lượng của hàng hóa được giao. Dựa trên hành vi cuối cùng của các
bên, nó được xem rằng đặt hàng một số lượng lớn được coi như là xác định rõ ràng. Theo
các nguyên tắc trên, yêu cầu về xác định giá cả thỏa thuận theo Điều 14 CISG đã được
đáp ứng trong vụ việc này. Bằng việc thỏa thuận một phạm vi giá cả giữa 35 và 65 DM
cho mỗi bộ lông có chất lượng trung bình hoặc cao hơn, các bên đã đưa ra tiêu chuẩn rõ
ràng, từ đó một giá xác định có thể được tính dựa vào chất lượng của bộ lông được giao.
Thỏa thuận về giá này có thể được xem là rõ ràng theo nghĩa của Điều 14 CISG. Hợp
đồng đã được ký kết với một số lượng có thể xác định ít hơn và mức giá có thể xác định
thấp hơn.
Bàn luận: : khi nghiên cứu pháp luật giải quyết vụ án trên, ta thấy có sự khác biệt rất
lớn giữa Điều 14 của CISG với Điều 390 BLDS 2005 và Điều 2.1.2 của PICC trong việc
đưa ra tiêu chí để đánh giá mức độ xác định của một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Khoản 1 Điều 14 của CISG quy định rất chi tiết: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi
cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu
nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự
chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định
số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định
những yếu tố này”. Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 quy định “Đề nghị giao kết hợp đồng
là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng…”. Theo đó, tính xác định của đề nghị giao
kết hợp đồng phụ thuộc vào mức độ rõ ràng trong việc diễn đạt ý định của bên đưa ra đề
nghị, thông thường trong hợp đồng mua bán hàng hóa, thì bên đề nghị thường thể hiện rõ
ý định của mình về số lượng, chất lượng và giá cả hàng hóa mà mình muốn mua hoặc
muốn bán, nhưng BLDS 2005 không có quy định nào tạo cơ sở pháp lý cho việc giải
thích ý chí của bên đưa ra đề nghị như cách giải thích nêu trên.
Còn Điều 2.1.2 của PICC quy định “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp
đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị
giao kết được chấp nhận” theo đó tính xác định của đề nghị phụ thuộc và tiêu chí “đủ rõ

17
17
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
ràng”. Và theo khoản 2 Điều 4.1 của PICC, thì tiêu chí đủ rõ ràng có thể “được giải thích
theo cách hiểu của một người bình thường có cùng phẩm chất và ở cùng hoàn cảnh với
người tuyên bố và thực hiện hành vi”. Như vậy, nếu áp dụng Điều 14 của CISG và Điều
2.1.2 của PICC thì sẽ có cách giải thích thỏa đáng dựa vào hoàn cảnh trong mối quan hệ
cụ thể của hai bên. Trong vụ án trên, khi bị đơn đặt mua “một số lượng lớn các bộ lông
chồn” tức là bị đơn đưa ra cách xác định số lượng dựa trên khả năng cung cấp của
nguyên đơn, do đó, đặt hàng của bị đơn là xác định về số lượng.
Tuy nhiên, nếu áp dụng Điều 390 BLDS 2005 để giải quyết vụ kiện trên thì sẽ rơi
vào bế tắc vì chúng ta không giải quyết được liệu rằng khi bị đơn đặt “một số lượng lớn
các bộ lông chồn” thì ý định của bị đơn là muốn mua bao nhiêu bộ lông chồn? Nó có
được coi là một cách xác định số lượng hàng hóa trong đề nghị giao kết hợp đồng hay
không? Vì vậy, theo chúng tôi, Điều 390 BLDS 2005 cần được sửa đổi bổ sung một cách
hợp lý để việc áp dụng pháp luật được thống nhất và dễ dàng.
▪ 3.3 Vụ kiện giữa nguyên đơn là một công ty TNHH được thành lập và
hoạt động theo luật của Đức, có trụ sở tại Solingen Đức và bị đơn - một công ty
TNHH, có trụ sở tại Thụy Sĩ năm 1997.
Tóm tắt vụ kiện: Từ năm 1991, bị đơn thường xuyên mua những bộ kéo của
nguyên đơn và bán lại chúng ở Thụy Sĩ theo cách bị đơn đặt hàng trước cho nguyên đơn
và sau đó (thông thường là ba tuần) thông báo lại cho nguyên đơn số lượng, chất lượng
hàng hóa và ngày giao hàng cụ thể. Sau khi bị đơn đặt hàng, hàng sẽ được sản xuất với
những mẫu mã và dấu hiệu riêng của bị đơn và sẽ được nguyên đơn giao theo đúng số
lượng, chất lượng và thời gian mà bị đơn thông báo.
Ngày 10/4/1992, bị đơn đặt nguyên đơn sản xuất kéo. Ngày 24/4/1992, đại diện hai
bên gặp gỡ trao đổi. Trong cuộc họp, bị đơn đã nhấn mạnh việc cung cấp độc quyền
những bộ kéo của nguyên đơn, bị đơn không muốn đối mặt với việc cạnh tranh từ việc
đặt hàng các loại kéo tương tự. Ngày 24/4/1992, nguyên đơn gửi thư cho bị đơn đảm bảo
cung cấp độc quyền những bộ kéo theo mẫu 580.

18
18
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
Ngày 26/5/1992, bị đơn fax cho nguyên đơn một thông báo yêu cầu sản xuất những bộ
kéo được mạ vàng một phần và đóng nhãn theo dấu hiệu riêng của bị đơn, trong đó ghi số
lượng cụ thể và thời gian dự kiến cho việc giao hàng (chuẩn bị cho việc giao hàng lần thứ
nhất gồm 150 bộ kéo theo mẫu 580 đến hạn vào tháng 10/1992), đồng thời bị đơn còn hỏi
dứt khoát cho việc xác nhận đặt hàng liên quan tới ngày giao hàng.
Trong fax trả lời ngày 12/6/1992, nguyên đơn dẫn chiếu tới đơn đặt hàng của bị đơn
ngày 26/5/1992. Nguyên đơn xác nhận với bị đơn rằng, giá cả hiện tại trên mỗi món hàng
sẽ áp dụng và việc giao hàng sẽ được thực hiện trong ngày theo yêu cầu của bị đơn như
thông lệ mà hai bên đã thiết lập. Sau đó, bị đơn đã không thông báo lại cho nguyên đơn
về việc giao hàng như thông lệ giữa hai bên. Tháng 9/1993, nguyên đơn giao hàng cho bị
đơn, nhưng bị đơn từ chối nhận. Ngày 12/10/1993, nguyên đơn gửi bị đơn hóa đơn thanh
toán cho chi phí của việc không giao được hàng, nhưng bị đơn từ chối. Ngày 21/2/1996,
nguyên đơn kiện bị đơn ra tòa đòi bồi thường. Nguyên đơn cho rằng đơn đặt hàng ngày
10/4/1992 và 25/6/1992 của bị đơn đã thể hiện rõ mong muốn ký kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về mặt pháp lý đối với mặt hàng đó. Còn bị đơn lại cho rằng những bản fax hai
ngày nói trên thực chất chỉ là những đề nghị thương lượng hợp đồng, thể hiện mong
muốn của bị đơn sẽ đặt hàng trong tương lai, do đó, nó không có tính ràng buộc đối với
bị đơn.
Quyết định của tòa án: Tòa án dựa trên quy định của Điều 8 của CISG “…tuyên bố
hoặc hành vi của một bên được giải thích theo ý muốn của anh ta trong tình huống bên
kia biết hoặc không thể không biết mong muốn của anh ta là gì… Khi xác định ý muốn
của một bên hoặc cách hiểu của một người có lý trí sẽ hiểu thế nào, cần phải tính đến mọi
tình tiết liên quan, kể cả các cuộc đàm phán, mọi thực tế mà các bên đã có trong mối
quan hệ tương hỗ của họ, các tập quán và mọi hành vi sau đó của hai bên” và thông lệ
được thiết lập giữa hai bên từ năm 1991 để giải thích mong muốn được ràng buộc của bị
đơn thể hiện trong các tuyên bố thông qua các bản fax ngày 10/4/1992 và 26/5/1992.
Bàn luận: định nghĩa về đề nghị giao kết hợp đồng trong các văn bản pháp luật đều

đưa ra điều kiện đối với đề nghị giao kết, đó là mong muốn được ràng buộc của bên đưa
19
19
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
ra đề nghị, cụ thể: Điều 14 của CISG quy định: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho
một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó
chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp
nhận chào hàng đó…”.
Điều 2.1.2 PICC quy định: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu
nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết
được chấp nhận”. Còn theo Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005, thì “Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” và “trong trường hợp đề nghị giao kết
hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ
ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được
đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.
Tuy nhiên, khi giải quyết tình huống trong vụ kiện trên, các văn bản lại có những giải
pháp khác nhau: CISG dựa vào các nguyên tắc nêu ra tại Điều 8 như là giải pháp chỉ rõ
mong muốn của bên đưa ra đề nghị bởi sự giải thích một tuyên bố hoặc hành vi theo đoạn
(1) hay (2) của Điều 8. Theo hiệu lực của đoạn (3) Điều 8, mong muốn này có thể được
thiết lập bởi tất cả những tình huống liên quan, bao gồm các tuyên bố hay các cách ứng
xử khác trong quá trình đàm phán và ứng xử của các bên trước khi ký kết hợp đồng
6
thì
nội dung bản fax ngày 26/5/1992 của bị đơn cấu thành một chào hàng (thể hiện mong
muốn được ràng buộc của bị đơn) cho hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó việc giao
hàng được thực hiện nhiều lần theo lệnh giao hàng của bị đơn. Còn khi áp dụng Điều
2.1.2 của PICC để xác định bên bị đơn có mong muốn bị ràng buộc theo nội dung bản fax
ngày 26/5/1992 hay không thì chúng ta dựa vào nguyên tắc được nêu trong Điều 4.1 để
giải thích ý định của bị đơn, nhưng giải pháp này không tối ưu bằng cách giải quyết của

CISG khi dựa vào nguyên tắc của Điều 8.
Khi áp dụng Điều 390 BLDS 2005 để giải quyết tình huống nêu trên, Tòa án sẽ lúng
túng trước lập luận của hai bên nhằm giải thích cho ý định của bị đơn thể hiện trong nội
dung bản fax ngày 26/5/1992, bởi vì Tòa án không có cơ sở pháp lý vững chắc nào để
20
20
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
phản bác một trong hai lập luận đó. Mặt khác, đơn đặt hàng ngày 26/5/1992 không ấn
định thời hạn trả lời chấp nhận nên tòa án không thể viện dẫn Khoản 2 Điều 390 BLDS
2005 để tuyên bố bị đơn có mong muốn được ràng buộc đối với đơn đặt hàng ngày
26/5/1992. Vì vậy, để xác định mong muốn được ràng buộc của bên đề nghị khi đưa ra đề
nghị giao kết hợp đồng, BLDS 2005 trong phần quy định về đề nghị giao kết hợp đồng
nên tiếp thu giải pháp được đưa ra tại Điều 8 của CISG.
◦ 4. Kiến nghị hoàn thiện chế định pháp lý giao kết hợp đồng trong pháp
luật Việt Nam.
Qua quá trình phát triển lâu dài của pháp luật dân sự Việt Nam, cũng như trên thế giới
thì pháp luật hợp đồng thương mại đã thể hiện được sự tiến bộ và ngày càng phát triển
toàn diện. Nhìn chung ta có thể thấy được tính hoàn thiện đó trong các chế định về giao
kết hợp đồng thương mại qua sự tuân thủ các nguyên tắc chung trong giao kết hợp đồng
của pháp luật Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên ta cũng không thể bỏ
qua được những điểm bất cập trong chế định hợp đồng cũng như những điểm chưa tiến
bộ của pháp luật Việt Nam so với pháp luật chung được các nước công nhận. Trong bối
cảnh nước ta đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và với tốc độ toàn cầu hóa
như hiện nay thì việc chọn lọc và đồng bộ hóa pháp luật trong nước và trên thế giới là cần
thiết. Như vậy sẽ tránh được nhầm lẫn, lừa dối, phạm pháp và những mặt tiêu cực khác
làm ảnh hưởng đến quá trình giao dịch và giao kết hợp đồng thương mại quốc tế. Qua
nhìn nhận đó chúng em xin đưa ra một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định pháp lý
trong giao kết hợp đồng thương mại quốc tế.
Qua những phân tích đã nêu ở trên về hợp đồng thương mại quốc tế và hợp đồng
thương mại Việt Nam thì ta thấy được luật hợp đồng thương mại Việt Nam cần hoàn

thiện điểm còn thiếu sót trong việc thể hiện ý định giao kết hợp đồng. Khác với pháp luật
hợp đồng thương mại quốc tế, pháp luật hợp đồng thương mại Việt Nam không có quy
định về cách thức xác định ý định ký kết hợp đồng của bên đề nghị. Mà pháp luật Việt
Nam tại Điều 390 BLDS 2005 chỉ nói rằng: “đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện
rõ ý định giao kết hợp đồng”. Chúng ta nên quy định cụ thể thế nào là một đề nghị giao
kết hợp đồng được coi là xác định như tại Điều 14 Công ước Viên 1980 theo đó nên đưa
21
21
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
ra điều kiện đối với đề nghị giao kết đó là mong muốn được ràng buộc của bên đưa ra đề
nghị với một bên cụ thể.
Và cũng cần bổ sung chế định về đề nghị giao kết hợp đồng không quy định thời hạn.
Sự thiếu sót này đã tạo ra khe hỡ trong pháp luật về hợp đồng, cản trở đến sự phát triển
của luật hợp đồng thương mại Việt Nam. Cụ thể thì ta cần tiếp thu và bổ sung hoàn thiện
pháp luật về giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng không quy định thời hạn như
tại Điều 16 Công ước Viên 1980. Đó là đối với đề nghị giao kết hợp đồng không quy định
thời hạn thì cho tới khi hợp đồng được giao kết, người đề nghị vẫn có thể thu hồi đề nghị,
nếu như thông báo về việc thu hồi đó tới nơi người được đề nghị trước khi người này gửi
thông báo chấp nhận đề nghị. Tuy nhiên, đề nghị giao kết không được thay đổi hay thu
hồi trong một thời gian hợp lý kể từ thời điểm có hiệu lực.
Ngoài ra ở tầm vĩ mô thì ta có thể thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam chủ yếu do hai
nguồn luật điều chỉnh là Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) và Luật Thương mại
năm 2005 (LTM 2005), bên cạnh đó, chế định hợp đồng còn tồn tại trong các quan hệ
pháp lý khác được điều chỉnh theo những luật chuyên biệt như: Luật Sở hữu trí tuệ
(LSHTT), Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Kinh doanh bảo hiểm Như vậy ở Việt
Nam, BLDS 2005 với tư cách là luật chung đã có những quy định về chế định hợp đồng,
nên những luật còn lại với tư cách là luật chuyên ngành phải tuân theo và dựa trên các
quy định của BLDS 2005. Tuy nhiên, cách thức áp dụng thì lại ưu tiên cho luật chuyên
ngành nếu luật chung có quy định khác với luật chuyên ngành. Quy định này thực tế đã
gây ra sự bất cập lớn trong pháp luật hợp đồng ở Việt Nam, vì quy định của BLDS 2005

với các luật chuyên ngành khác hầu như không tiệm cận với nhau, và ngay cả trong
những luật chuyên ngành vẫn còn nhiều khác biệt vì một quan hệ hợp đồng có thể sử
dụng đến nhiều quan hệ pháp lý. Do đó, những hạn chế cơ bản trong pháp luật hợp đồng
Việt Nam hiện nay là tản mát, thiếu tính thống nhất và có khả năng dẫn đến tình trạng
xung đột pháp luật. Vì vậy chúng ta cần thống nhất sự tản mát bằng cách tập hợp các quy
định trong các luật chuyên ngành, văn bản dưới luật, sau đó hệ thống và xây dựng thành
một đạo luật riêng biệt điều chỉnh quan hệ hợp đồng tiến bộ và phù hợp với thông lệ thế
giới cũng như các quy định của UNIDROIT.
22
22
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
Hơn nữa với thời đại công nghệ kỹ thuật số như hiện nay chúng ta cũng cần phải bổ
sung thêm những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua các
phương tiện thông tin kỹ thuật số để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển thương mại điện
tử ở nước ta. Và bổ sung một số loại hợp đồng thông dụng, bên cạnh những loại hợp
đồng đã được quy định đề luật hợp đồng có thể điều chỉnh sâu rộng hơn vì trong điều
kiện kinh tế thị trường, nhiều quan hệ hợp đồng mới đã hình thành, nhiều biến thể của
các hợp đồng thông dụng đã xuất hiện mà chưa được Bộ luật Dân sự quy định như: hợp
đồng cung cấp điện năng, nước, điện thoại; hợp đồng mua bán hoặc cho thuê doanh
nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh; hợp đồng cho thuê tài chính (leasing); hợp đồng xây
dựng; hợp đồng kỹ thuật; các hợp đồng liên quan đến hoạt động ngân hàng; hợp đồng đại
lý, ủy thác, môi giới; hợp đồng liên doanh, liên kết kinh tế; hợp đồng tín thác…
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực thì hoạt động thương mại quốc
tế có ý nghĩa cực kì to lớn đối với sự phát triển kinh tế nước nhà. Các chế định pháp lý về
giao kết hợp đồng thương mại quốc tế và hợp đồng thương mại trong nước được ban
hành và nói chung là tạo được hành lang pháp lý gọn nhẹ, thông thoáng để khuyến khích
hoạt động thương mại. Tuy trong thực tiễn thực thi pháp luật về giao kết hợp đồng trên
thế giới vẫn còn những khó khăn nhất định, song đó cũng chinh là bài học để áp dụng cho
nền thương mại trong nước và thương mại với các chủ thể quốc tế. Bài nghiên cứu trên

cũng đã xin đưa ra những giải pháp , kiến nghị hoàn thiện hơn cho pháp luật điều chỉnh
việc giao kêt hợp đồng thương mại, nếu có quan điểm chưa phù hợp xin nhận được lời
nhận xét đánh giá của quý thầy cô.
23
23
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật TP Hồ Chí Minh, Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh
tế ở nước ta hiện nay, ThS Bùi Ngọc Cường
2. Sở tư pháp TP Hồ Chí Minh, Pháp luật về hợp đồng cần được thay đổi theo
hướng nào khi Bộ luật dân sự 2005 được sửa đổi
3. Steven Emanuel and Steven Knowles (1991), Contracts(Fourth Edition), Emanuel
Law Outlines, Inc, New York, p10.
4. Nguồn: />5. Tạp chí nghiên cứu lập pháp của Văn phòng Quốc hội số 24 tháng 10/2010.
6. Nguồn: />7. Nhà pháp luật Việt Pháp,Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại
Quốc tế 2004, Nxb. Tư pháp, tr. 82.
8. Nguồn: />9. Bộ luật dân sự 2005
10. Luật thương mại 2005
24
24
Giao kết hợp đồng thương mại quốc tế

25
25

×