Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.98 KB, 51 trang )

Trang 1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, chúng tôi
còn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ về nhiều mặt từ các thầy giáo, cô giáo trong khoa; của
Chính quyền, Hội LHPN và nhân dân xã Xuân Bình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Ths. Nguyễn Đình Khoa đã hướng dẫn,
giúp đỡ chúng em. Nhờ có sự tận tình chỉ bảo của Thầy, chúng em đã vượt qua mọi khó
khăn, trở ngại để hoàn thành đề tài.
Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa TL – GD &
CTXH đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn chính quyền địa phương, Hội LHPN và nhân dân xã
Xuân Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ chúng tôi trong quá trình điều tra thu thập thông tin phục
vụ cho nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo và đọc giả để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Đình Cơ
Phan Xuân Nhựt
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Trang 2
HLHPN Hội liên hiệp phụ nữ
PTCĐ Phát triển cộng đồng
TCCĐ Tổ chức cộng đồng
CĐ Cộng đồng
NHNN Ngân hàng nông nghiệp
ANQP An ninh – Quốc phòng
GD – ĐT Giáo dục – Đào tạo
LĐ Lao động
THCS Trung học cơ sở


THPT Trung học phổ thông
TC – CĐ – ĐH Trung cấp – Cao đẳng – Đại học
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trang 3
Từ xưa đến nay, dù ở vị trí nào người phụ nữ cũng luôn có những vai trò đặc biệt
quan trọng. Trong gia đình, họ là người mẹ, người vợ đảm đang; ngoài xã hội họ là người
giỏi dang, tháo vát. Thực tế cho thấy, có không ít những phụ nữ thành đạt trong cuộc sống,
trong số đó có một bộ phận không nhỏ những phụ nữ nắm giữ những vị trí quan trọng trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội… Tuy nhiên, với “thiên chức” làm mẹ, người
phụ nữ phải mất khá nhiều thời gian cho việc sinh con và nuôi dạy con. Bên cạnh đó, họ còn
phải gánh vác các công việc nội trợ của gia đình, chính vì thế thời gian để họ tiếp cận cơ hội
phát triển còn hạn chế.
Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đang đứng trước cơ hội hội nhập và phát
triển nhưng điều đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Những rủi ro của cơ chế kinh tế thị trường
có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của đại bộ phận nhân dân. Trong đó, phụ nữ là bộ phận
chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đặt biệt là phụ nữ nông thôn. Để giúp phụ nữ đối phó những khó
khăn này; Nhà nước đã có một số chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích phụ nữ phát triển
kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và tham gia hoạt động xã hội.
Thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên thuộc khu vực duyên hải Nam trung bộ có điều kiện
kinh tế – xã hội về cơ bản còn khó khăn. Trong 14 xã, phường của thị xã thì Xuân Bình là
một trong những xã có điều kiện kinh tế chậm phát triển, đời sống của người dân trong nhiều
năm trở lại đây gặp nhiều khó khăn, đời sống của nhân dân nhìn chung còn thấp. Mặt khác,
do điều kiện tự nhiên không được ưu đãi, hàng năm còn chịu nhiều ảnh hưởng của bão lũ,
thời tiết bất thường nên hoạt động kinh tế của nhân dân còn gặp nhiều trở ngại. Chính vì lẽ
đó, nhu cầu được quan tâm, hỗ trợ để phát triển kinh tế gia đình của người dân nói chung và
của phụ nữ nói riêng là rất lớn. Trong những năm qua, chính quyền xã và trực tiếp là Hội liên
hiệp phụ nữ xã đã triển khai thực hiện một số chính sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ, khuyến
khích phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và tham gia hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện một số chính sách hỗ trợ phụ nữ vẫn chưa đem lại kết

quả như mong muốn.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả của một
số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế” nhằm tìm hiểu về thực trạng
của việc thực hiện chính sách, qua đó chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng và đề
xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi hướng tới việc tìm hiểu thực trạng về hiệu quả của một số
chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế tại xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu,
tỉnh Phú Yên; đánh giá, phân tích chỉ ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng; từ đó đề xuất một
số khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về chính sách xã hội và phát triển cộng đồng.
- Tìm hiểu thực trạng về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn
phát triển kinh tế tại xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
- Chỉ ra những nguyên nhân của thực trạng trên.
- Đề xuất những khuyến nghị góp phần thực hiện các chính sách hiệu quả hơn.
3. Đối tượng, phạm vi và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trang 4
Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã
Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện và khả năng nghiên cứu còn hạn chế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở 100 phụ
nữ ( ứng với 100 hộ gia đình) ở 05 thôn của xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
3.3. Khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên khách thể là 100 phụ nữ (ứng với 100 hộ gia
đình) của xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
Cụ thể số lượng như sau:

TT THÔN SỐ LƯỢNG MẪU
1 Bình Thạnh 35
2 Thọ Lộc 25
3 Tuyết Diêm 15
4 Quán Đế 15
5 Diêm Trường 10
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế gia đình là rất quan trọng. Tuy
nhiên, nhiều phụ nữ ở nông thôn ở xã Xuân Bình chưa có công ăn việc làm ổn định, đời sống
kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, hiệu quả của một số chính sách của Nhà
nước nhằm hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ổn định cuộc sống gia đình còn
thấp.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ
cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế hiện nay. Trong đó, vửa có nguyên nhân xuất phát từ
phụ nữ vừa có nguyên nhân xuất phát từ chính quyền địa phương.
- Với những nguồn lực của địa phương: sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước và chính
quyền các cấp, nguồn lao động nữ dồi dào, cơ hội việc làm cho lao động nữ từ khu công
nghiệp Đông Bắc Sông Cầu, trong tương lai những chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn
phát triển kinh tế ở xã Xuân Bình sẽ được phát huy và hiệu quả ngày càng cao, kinh tế của
phụ nữ ngày càng phát triển, đời sống của họ ngày càng được cải thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, chúng tôi còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp trưng cầu ý kiến.
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp lân la trò chuyện với người dân.
- Phương pháp thống kê toán học, đánh giá qua kết quả thực tế điều tra.

Trang 5
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thêm vào hệ thống cơ sở lý luận của khoa học Chính
sách xã hội. Đồng thời sẽ làm tài liệu góp phần phục vụ cho nhu cầu tham khảo, nghiên cứu
của sinh viên ngành Công tác xã hội sau này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu góp phần giúp cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ về thực trạng hiệu
quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã Xuân Bình.
Từ đó đề xuất những kiến nghị góp phần giúp cho chính quyền địa phương có những định
hướng và những giải pháp thực thi những chính sách này đạt
hiệu quả cao hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Khi nói về phụ nữ, người ta thường nhắc đến cuốn sách “Vai trò của phụ nữ trong
phát triển kinh tế” của Ester Boserup (1970). Theo nhà khoa học nữ này thì cho đến những
năm 1970, những nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù phụ nữ thường là những người có đóng góp
chính vào năng suất chủ yếu của cộng đồng, nhất là trong nông nghiệp, nhưng những đóng
Trang 6
góp của họ không được tính đến trong thống kê quốc dân cũng như trong kế hoạch hoá và
thực hiện các dự án phát triển. Cuốn sách của E. Boserup đã được coi là lần đầu tiên đặt lại
vấn đề trong cách đánh giá về vai trò của phụ nữ, qua cuốn sách của mình, bà đã chứng minh
vai trò kinh tế của phụ nữ thông qua nghiên cứu phụ nữ nông dân vùng Tây Sahara, châu
Phi. Một điều mà trước đây, các nhà tạo lập chính sách và trong giới nghiên cứu kể cả những
nhà khoa học nữ đã không thấy hết và do vậy không công nhận một cách đúng đắn vai trò
kinh tế rất quan trọng của phụ nữ.
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về phụ nữ đầu tiên xuất bản được phát hành rộng
rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng là cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” của Lê Thị Nhâm
Tuyết (1973, 1975). Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích những nét cơ bản về các truyền

thống của phụ nữ Việt Nam trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt về vai trò truyền
thống của phụ nữ Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp. Cuốn sách đã trình bày nhiều tư liệu
có giá trị khoa học, gây tiếng vang trong giới nghiên cứu. Sau gần một phần tư thế kỷ, tác
giả cuốn sách “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” lại cho xuất bản cuốn “Hình ảnh Phụ nữ
Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI”. Như lời giới thiệu cuốn sách của GS. Vũ Khiêu: Cuốn
sách này đã thu thập những ý kiến khác nhau xung quanh những vấn đề lớn của người phụ
nữ Việt Nam và đặc biệt là giới thiệu các kết quả thu được qua các cuộc điều tra khoa học.
Cuốn sách tập trung vào những đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, trong
lao động nghề nghiệp, trong gia đình, trong quản lý xã hội.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, có nhiều cuốn sách xuất bản với nội dung
đề cập đến vấn đề phụ nữ với phát triển kinh tế hoặc bàn về phụ nữ với phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Để tiện theo dõi, chúng tôi chia theo một số chủ đề như sau:
Phụ nữ và phân công lao động theo giới:
Phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân (Lê Ngọc Văn, 1999); Phân
công lao động trong kinh tế hộ gia đình nông thôn - vấn đề giới trong cơ chế thị trường (Vũ
Tuấn Huy, 1997); Phân công lao động nội trợ trong gia đình (Vũ Tuấn Huy và Deborah Carr,
2000).
Phụ nữ với phát triển ngành, nghề:
Tìm hiểu cơ cấu kinh tế và khả năng phát triển ngành nghề của phụ nữ nông thôn (Lê
Ngọc Lân, 1997); Vấn đề ngành, nghề của phụ nữ nông thôn với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (Lê Thi, 1999); Phụ nữ nghèo nông thôn trong cơ chế
thị trường (Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Lân, 1996); Vấn đề tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng
cao địa vị người phụ nữ hiện nay (Lê Thi, 1991); Lao động nữ di cư từ nông thôn ra thành
phố (Hà Thị Phương Tiến - Hà Ngọc Quang, 2000)
Những công trình trên, tập trung nghiên cứu khá sâu sắc những vấn đề về phụ nữ
nhưng chưa có công trình nào thực sự tập trung vào nghiên cứu về hiệu quả của những chính
sách hỗ trợ cho phụ nữ ở nông thôn phát triển kinh tế.
2. Các khái niệm
2.1. Chính sách xã hội
- Khái niệm:

Từ những định nghĩa và phân tích khái niệm về xã hội và chính sách như trên ta có
thể đi đến cách tiếp cận sau về chính sách xã hội. “Cái xã hội” dùng trong chính sách xã hội
là “cái xã hội” theo nghĩa hẹp. Nó đang được nhiều nhà nghiên cứu thống nhất hiểu như mối
Trang 7
quan hệ của con người, của các cộng đồng người thể hiện trên nhiều mặt của đời sống xã hội
từ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng.
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu có sự nhìn nhận khác nhau
về chính sách xã hội, cụ thể như sau:
+ Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện và
điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được đặt ra đối với con người (con người ở đây được
xét theo góc độ con người xã hội, chứ không phải là con người kinh tế, hay con người kỹ
thuật…) để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống chính đáng của con
người, phù hợp với các đối tượng khác nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội
của các thời kỳ nhất định, nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội…( Phạm Tất
Dong - Chính sách xã hội)
+ “Hiểu theo ý nghĩa khái quát nhất, chính sách xã hội là hệ thống các quan điểm, cơ
chế, giải pháp và biện pháp mà Đảng cầm quyền và Nhà nước đề ra tổ chức thực hiện trong
thực tiễn đời sống nhằm kiểm soát, điều tiết và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trước xã
hội” (PGS.TS Phạm Hữu Nghị).
+ Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế bằng pháp luật của Nhà Nước
thành một hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để giải quyết những
vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên quan đến công bằng xã hội và
phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. (PGS.TS.Lê
Trung Nguyệt).
+ Chính sách xã hội trước hết là một khoa học, chính sách xã hội phải là thành tựu
của những sự nghiên cứu nghiêm túc của khoa học xã hội, trả lời những câu hỏi của cuộc
sống, ở dạng hoạt động thực tiễn của đặc thù này. Chính sách xã hội cần được xem xét như
một lĩnh vực khoa học đặc thù, bám chắc vào sự vận động của thực tiễn, khoa học nghiên
cứu về chính sách xã hội cần phải mạnh dạn trả lời những câu hỏi đặt ra từ thực trạng kinh tế
xã hội nước ta hiện nay. (GS. Phạm Như Cương).

Từ định nghĩa về chính sách xã hội nêu trên có thể thấy rằng khái niệm chính sách xã
hội bao gồm những yếu tố cơ bản hợp thành sau đây:
• Thứ nhất, chủ thể đặt ra chính sách xã hội: tổ chức chính trị lãnh đạo. Ở nước
ta là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội.
• Thứ hai, nội dung các chính sách xã hội dựa trên những quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo và thể chế nào?
• Thứ ba, các đối tượng của các chính sách xã hội (chung, riêng, đặc biệt).
• Thứ tư, những mục tiêu nhằm đạt tới.
Hay nói cách khác là cần trả lời bốn câu hỏi sau:
• Ai đặt ra chính sách xã hội?
• Đặt chính sách xã hội cho ai?
• Nội dung của các chính sách xã hội là gì?
• Chính sách xã hội nhằm mục đích gì?
Như vậy, có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức, các biện pháp
của Nhà nước, của các đảng phái và những tổ chức chính trị khác, nhằm thoả mãn nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước về kinh tế,
văn hoá, xã hội … Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật những
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Trang 8
- Đặc trưng của chính sách xã hội:
Chính sách xã hội bao giờ cũng liên quan trực tiếp đến con người, bao trùm mọi mặt
của cuộc sống con người, lấy con người và các nhóm người làm đối tượng tác động để hoàn
thiện và phát triển con người, hình thành các chuẩn mực xã hội và giá trị xã hội.
Chính sách xã hội mang tính xã hội, nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu cơ bản của nó là
hiệu quả xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, bảo đảm cho mọi người sống
trong nhân ái, bình đẳng và công bằng.
Chính sách xã hội của Nhà nước thể hiện trách nhiệm xã hội cao, tạo điều kiện, cơ hội
như nhau để mọi người phát triển và hòa nhập vào cộng đồng. Sự đầu tư của nhà nước, sự
trợ giúp của cộng đồng không phải là sự bao cấp hay cứu tế xã hội theo kiểu ban ơn, mà là
trách nhiệm của toàn xã hội, là sự đầu tư cho phát triển.

Hiệu quả của chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo
đảm công bằng xã hội. Để thực hiện chính sách xã hội đạt đúng các mục tiêu, đối tượng và
hiệu quả phải có những điều kiện đảm bảo ở mức cần thiết để chính sách đi vào cuộc sống.
Chính sách xã hội phải được kế hoạch hóa bằng các chương trình, dự án có mục tiêu, hình
thành các quỹ xã hội, phát triển hệ thống sự nghiệp hoặc dịch vụ xã hội, tăng cường lực
lượng cán sự xã hội.
Chính sách xã hội còn có đặt trưng quan trọng là tính kế thừa lịch sử. Ở Việt Nam,
một chính sách xã hội đi vào được lòng người, sát với dân là một chính sách mang bản sắc
dân tộc Việt Nam, kế thừa và phát huy được tryền thống đạo đức, nhân văn sâu sắc của dân
tộc ta. Đặc biệt là lòng yêu nước, cần cù chịu khó, tính cộng đồng cao, đùm bọc lẫn nhau,
uống nước nhớ nguồn…
- Phân loại chính sách xã hội:
Có thể phân chia chính sách xã hội theo những cách khác nhau, về cơ bản có hai loại
như sau:
* Hệ thống các chính sách tác động vào các nhóm xã hội đặt thù :
• Theo tuổi tác: có chính sách xã hội với người già, trẻ em, thanh niên;
• Theo giới tính: có chính sách đối với phụ nữ;
• Theo nghề nghiệp: có chính sách đối với thợ mỏ, giáo viên, công nhân, thợ thủ
công…
• Theo sắc tộc: có chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài;
• Theo tôn giáo: có chính sách đối với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Tin lành, Phật
giáo, Cao đài, Hòa hảo…
• Theo trình độ học vấn: có chính sách xã hội đối với những người có trình độ học
vấn cao, những tài năng khoa học và những người còn đang ở trình độ học vấn
thấp.
* Hệ thống chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất và tái sản xuất:
Đây là những công cụ trực tiếp điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa người với người, giữa
các nhóm, các tập đoàn xã hội với nhau, bao gồm:
• Chính sách dân số: có tính quốc gia và tính toàn cầu vì mức tăng trưởng dân số,

cơ cấu và phân bố của dân cư có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế và mức sống
của nhân dân. Do vậy, chính sách xã hội phải tác động vào cả ba quá trình này. Ví
Trang 9
dụ như chính sách kế hoạch hóa gia đình, chính sách di dân và phát triển vùng
kinh tế mới, chính sách định canh - định cư…
• Chính sách việc làm: liên quan và quyết định đời sống của tất cả dân cư, là một
trong những yếu tố cơ bản tạo ra ổn định hay bất ổn định của xã hội. Thông
thường, nếu tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4 - 5% thì được coi là xã hội ổn định; từ 6 -
9% có nguy cơ khủng hoảng; nếu trên 10% thì xã hội đang có nhiều cấp bách cần
phải giải quyết. Ví dụ chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm, chính sách dạy
nghề, chính sách đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài…
• Chính sách bảo hộ lao động: nhằm đề phòng và giải quyết bớt hậu quả rủi ro do
tai nạn xãy ra, bao gồm các chính sách bảo đảm an toàn như giảm độc hại, giảm
tiếng ồn, chống nóng, …và các chính sách đối với người lao động bị mắc các
bệnh nghề nghiệp, bị thương tật hay bị chết.
• Chính sách tiền lương: nhằm đảm bảo mức thu nhập hợp lý và bảo đảm nguyên
tắc phân phối theo lao động. Việc quy định mức lương tối thiểu như thế nào để
vừa có thể tái sản xuất sức lao động, vừa bảo đảm cho người lao động sống bằng
nghề nghiệp của mình, đồng thời có sự đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có
chuyên môn giỏi, tay nghề cao. Ngoài ra, cần có chính sách hợp lý để điều tiết thu
nhập, không để mức thu nhập chênh lệch quá lớn nếu chỉ dựa vào cơ may nghề
nghiệp hay địa vị xã hội
( Chính sách thuế đối với những người có thu nhập cao).
• Chính sách phúc lợi xã hội: là phần bổ sung quan trọng nhằm nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của người dân, đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội. Các
chính sách này tạo ra những điều kiện chung, thuận lợi cho việc nghĩ nghơi, vui
chơi, giải trí bằng hoạt động văn hóa, thể thao của các tầng lớp nhân dân ( các khu
công viên, các tổ hợp văn hóa thể thao, nhà trẻ, mẫu giáo, các nhà an dưỡng…).
• Chính sách bảo hiểm xã hội: nhằm đảm bảo sự công bằng thu nhập cho người lao
động và gia đình họ trong các trường hợp người lao động bị đau ốm, thai sản, hết

tuổi lao động, bị chết hoặc bị tai nạn lao động, bị bệnh nghề nghiệp, mất việc làm,
gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Ví dụ bảo hiểm lao động, bảo hiểm nghề
nghiệp; bảo hiểm kinh doanh; bảo hiểm y tế; bảo hiểm tài sản và phương tiện…
• Chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công: là truyền thống và đạo lý “ uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
• Chính sách cứu trợ xã hội: hướng vào việc trợ giúp những người gặp phải rủi ro,
bất hạnh, thiệt thòi trong cuộc sống, đặc biệt là người già cô đơn, trẻ mồ côi,
người khuyết tật, người bị bệnh tâm thần, người gặp phải thiên tai bất trắc. Mục
đích của chính sách này là giúp họ khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, giữ được
mức sinh hoạt tối thiểu cần thiết để vượt qua những khó khăn.
• Chính sách giáo dục: Giáo dục là ngành đặc biệt cung cấp nguồn nhân lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ
hiện nay. Vì vậy, chính sách xã hội không thể không ưu tiên cho giáo dục. Chính
sách đầu tư phát triển giáo dục (xây dựng trường sở, phòng nghiên cứu, thí
nghiệm…); chính sách tiền lương cho giáo viên, cấp học bổng cho sinh viên, học
sinh tài năng, trợ giúp học sinh nghèo vượt khó, chính sách giáo dục miền núi,…
2.2. Phát triển cộng đồng
Trang 10
- Định nghĩa:
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển cộng đồng ( PTCĐ )
Theo quan điểm của Liên hợp quốc năm 1956: “Những tiến trình qua đó nỗ lực của
dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, văn
hóa của các cộng đồng và giúp các cộng đồng này hội nhập vào đời sống quốc gia gọi là
PTCĐ ”.
Còn theo Murray và Ross đã đưa ra định nghĩa PTCĐ như sau:“Tổ chức cộng đồng
(TCCĐ) là một tiến trình qua đó một cộng đồng nhận rõ nhu cầu, mục tiêu của mình, sắp xếp
các nhu cầu và mục tiêu này, phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng, tìm đến tài
nguyên (bên trong hoặc bên ngoài) để giải quyết nhu cầu hay mục tiêu ấy.Thông qua đó sẽ
phát huy thái độ và kỹ năng hợp tác với nhau trong cộng đồng ”
Một định nghĩa gần đây phản ánh xu hướng mới nhất của PTCĐ là :

“ Phát triển cộng đồng là một tiến trình giải quyết vấn đề qua đó cộng đồng được tăng
sức mạnh bởi các kiến thức và kỹ năng phát hiện nhu cầu và vấn đề, ưu tiên hóa chúng, huy
động tài nguyên để giải quyết chúng. PTCĐ không phải là một cứu cánh mà là một kỹ thuật,
nó nhằm vào tăng sức mạnh cho các CĐ để tự quyết định về sự phát triển của mình và sự
định hình của tương lai mình. Mục đích cuối cùng của PTCĐ là sự tham gia chủ động với tư
cách tập thể của người dân vào sự phát triển ”.
Qua các khái niệm ta có thể thấy rằng về cơ bản mục đích của PTCĐ là :
- Củng cố các thiết chế tạo điều kiện cho chuyển biến xã hội và sự tăng trưởng.
- Bảo đảm sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình của sự phát triển.
- Đẩy mạnh công bằng xã hội bằng cách tạo điều kiện cho các nhóm thiệt thòi nhất
được nêu lên nguyện vọng của mình và tham gia vào các hoạt động phát triển.
- Tiến trình phát triển cộng đồng:
Mục tiêu cuối cùng của PTCĐ là giúp cho cộng đồng đi từ thực trạng yếu kém để
phát triển, đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Để đạt được mục tiêu đó PTCĐ phải có
một tiến trình với từng bước đi cụ thể.
Sơ đồ thể hiện Tiến trình PTCĐ :
CĐ yếu kém CĐ thức
tỉnh
CĐ tăng
năng lực
Chương trình
hành động chung có
lượng giá
CĐ tự lực
Tự tìm
hiểu và
phân
tích
Huấn
luyện

Phát
huy
tiềm
năng
Hình
thành
các
nhóm
liên kết
Tăng
cường
động
lực
Trang 11
+ Bước 1: Thức tỉnh cộng đồng
Trước tiên cộng đồng cần được giúp đỡ để tự tìm hiểu và phân tích nhằm biết rõ
những vấn đề của cộng đồng, những nguyên nhân và hậu quả do các vấn đề gây ra. Bên cạnh
đó người dân cũng tự nhận ra những tài nguyên, tiềm năng, khó khăn, thuận lợi từ cộng đồng
để có cơ sở giải quyết vấn đề. Điều quan trọng là cộng đồng cần nhận ra sự hợp tác của
chính mình là yếu tố quyết định trong việc thay đổi tình trạng yếu kém hiện tại.
+ Bước 2: Tăng năng lực cộng đồng
Cộng đồng nhận ra những gì mình có mà chưa sử dụng như đất đai, cơ sở vật chất,
nhân tài, kinh nghiệm, … và những nguồn hỗ trợ từ bên ngoài như kiến thức kỹ thuật,
chuyên môn, nguồn vốn vay, … Để sử dụng và quản lý những nguồn lực này cộng đồng cần
được hỗ trợ tăng khả năng, kiến thức để cùng hành động bằng các hình thức học tập, huấn
luyện…
+ Bước 3 : Cộng đồng tự lực
Mục đích cuối cùng của PTCĐ là thông qua các tác động từ bên ngoài, với nội lực
được phát huy và tăng cường, cộng đồng sẽ trở thành cộng đồng tự lực. Cộng đồng tự lực
không có nghĩa là mọi khó khăn, khủng hoảng không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn cộng

đồng có thể tự huy động tài nguyên bên trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề. Qua mỗi
lần như vậy cộng đồng sẽ tăng trưởng, tự lực hơn.
Trong thực tiễn PTCĐ, tiến trình này không phải lúc nào cũng cứng nhắc trong cách
áp dụng, mà điều quan trọng là tác viên PTCĐ phải thực sự vì cộng đồng, vì sự phát triển,
linh hoạt nhưng cũng phải đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản, các bước đi cơ bản của quá
trình đó.
- Nguyên tắc trong phát triển cộng đồng:
Trong PTCĐ cần đảm bảo 10 nguyên tắc cơ bản sau:
• Bắt đầu từ nhu cầu, tài nguyên và khả năng của người dân.
• Tin tưởng vào dân, vào khả năng thay đổi và phát triển của họ.
• Đáp ứng nhu cầu và mối quan tâm bức xúc hiện tại của họ.
• Khuyến khích người dân cùng thảo luận, lấy quyết định chung, hành động
chung để họ đồng hóa mình với những chương trình hành động đó.
• Bắt đầu từ những hành động nhỏ để dẫn đến những thành công nhỏ.
• Vận động thành lập nhóm nhỏ để thực hiện dự án, không chỉ để giải quyết
được một vấn đề cụ thể, mà còn để củng cố, làm vững mạng tổ chức tự nguyện
của người dân.
• Khi tổ chức cần cung cấp nhiều cơ hội để người dân tương trợ lẫn nhau và
phát sinh các hoạt động chung, qua đó các thành viên vừa đạt được cảm xúc tự
hoàn thành nhiệm vụ vừa góp phần cải thiện an sinh cho nhóm, cả hai điều này
đều quan trọng như nhau.
Trang 12
• Quy trình : “Hành động - Suy ngẫm rút kinh nghiệm - Hành động mới” cần áp
dụng để tiến đến những chương trình hành động chung lớn hơn, trình độ quản
lý cao hơn.
• Nếu điều hành có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn theo nhóm là dịp để tổ chức
nhóm trưởng thành.
• Thiết lập mối liên kết với các tổ chức khác để có thêm hỗ trợ và hợp tác với
nhau.
2.3. Một số khái niệm liên quan

- Khái niệm phát triển kinh tế nông thôn:
Phát triển kinh tế nông thôn là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững về
kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông
thôn. Quá trình này, trước hết chính là sự nổ lực người dân nông thôn với sự hỗ trợ của nhà
nước và các tổ chức xã hội khác.
- Khái niệm phát triển kinh tế hộ gia đình: Phát triển kinh tế hộ gia đình là việc hộ
gia đình áp dụng các kỹ thuật tiến bộ và học tập mô hình sản xuất giỏi hợp với khả năng lao
động và điều kiện đất đai hiện có của gia đình để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần, vươn lên thoát nghèo góp phần xây dựng quê hương đất
nước giàu đẹp.
3. Lý thuyết ứng dụng (Thuyết vai trò)
Thuyết vai trò được ra đời với sự đóng góp lớn của khoa học xã hội học và tâm lí học
( Trean, 1971; Davis, 1986). Thuyết vai trò được đánh giá là phương pháp tiếp cận hiệu quả
đối với việc hiểu biết về con người và xã hội, vì vậy, người ta đề cập tới nhiều khái niệm liên
quan. Đó là những khái niệm:
Mơ hồ trong vai trò: là hoàn cảnh một cá nhân gặp phải khó khăn khi quyết định vai
trò nào nên làm.
Xung đột vai trò: xảy ra khi một cá nhân đối phó với sự căng thẳng vì cá nhân đó
chưa đủ khả năng để thực hiện hoặc đáp ứng các đòi hỏi của vai trò đó.
Sợ hãi vai trò: nói đến những khó khăn có thể nhận thấy trong việc hoàn thành bổn
phận của vai trò, khi mà sự căng thẳng được cảm nhận giữa hai vai trò cạnh tranh nhau, sự
căng thẳng trong sợ hãi vai trò thường chỉ xuất hiện từ một vai trò.
Thuyết này cho rằng vì mỗi cá nhân thường chiếm giữ các vị trí nào đó trong xã hội
và tương ứng với các vị trí đó là các vai trò. Vai trò bao gồm một chuỗi các chuẩn mực như
là một bản kế hoạch để chỉ đạo hành vi. Những vai trò chỉ ra cụ thể cách thức nhằm đạt được
mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng chỉ ra những nội dung hoạt động cần thiết
đòi hỏi phải có trong một bối cảnh hoặc tình huống có sẵn. Thuyết cũng cho rằng, một phần
các hành vi xã hội hàng ngày quan sát được chỉ đơn giản là các việc mà con người phải thực
hiện trong vai trò của họ.
Ngoài ra, thuyết cũng khẳng định, hành vi con người chịu sự chỉ đạo của những mong

muốn của cá nhân họ hoặc từ mong muốn của những người khác. Những mong muốn cho
mỗi vai trò thì khác nhau nhưng phù hợp với vai trò mà cá nhân thực hiện hoặc trình diễn
trong cuộc sống hàng ngày của họ. Đồng thời, thuyết còn đề cập, với cùng một hành vi, có
thể chấp nhận ở vai trò này nhưng lại không được chấp nhận ở vai trò kia.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng thuyết này nhằm chỉ ra rằng
mỗi phụ nữ trong nhóm đều có các vị trí khác nhau với các vai trò tương ứng. Nếu đánh giá
Trang 13
đúng khả năng và tạo điều kiện phù hợp để họ phát huy hết khả năng với đúng vai trò của họ
thì kết quả công việc của họ mang lại rất cao.
4. Vai trò của lao động nữ trong phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 76,5% dân số sống ở nông thôn. Vì vậy, trong
quá trình phát triển đất nước thì phát triển nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ rất quan
trọng. Để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, bên cạnh các chủ trương, chính sách xã hội
phù hợp, cần có những nguồn lực hỗ trợ cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá nông
nghiệp, nông thôn như tài chính, kỹ thuật - công nghệ... Đặc biệt phải kể đến một nguồn lực
quan trọng, đó là nguồn nhân lực, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông
thôn. Nói đến chủ thể của quá trình này, không thể không nhấn mạnh đến nguồn nhân lực nữ
ở nông thôn.
Phụ nữ nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước. Là một lực lượng chủ yếu
trong nông nghiệp và chiếm đông đảo trong nguồn nhân lực của đất nước, nhưng phụ nữ
nông thôn còn gặp nhiều khó khăn so với nam giới nông thôn và phụ nữ đô thị. Theo số liệu
từ Tổng điều tra dân số năm 2009, phụ nữ chiếm 50,5% số người hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp (năm 1989 tỷ lệ này là 60%). Trong tổng lực lượng lao động nữ, có 68% là hoạt
động trong nông nghiệp, tỷ lệ này đối với nam giới là 58%. Vai trò của phụ nữ trong sản
xuất nông nghiệp càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình chuyển đổi kinh tế, với sự
tham gia của lao động nữ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng trong khi lao
động nam giảm dần. Thời kỳ 1993 - 1998, số nam giới tham gia hoạt động nông nghiệp mỗi
năm giảm 0,9%. Trong giai đoạn hiện nay, 92% số người mới gia nhập lĩnh vực nông nghiệp
là phụ nữ, vì nam giới chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Hiện tượng thay đổi này

dẫn đến xu hướng là nữ giới tham gia nhiều hơn trong hoạt động nông nghiệp. Họ đóng góp
công sức trong việc thực hiện các hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập của gia đình, ổn định
cuộc sống và góp phần vào sự phát triển của xã hội.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA PHỤ NỮ XÃ XUÂN BÌNH
1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Xuân Bình là xã nằm ở phía Bắc của thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Phía Bắc giáp xã
Xuân Lộc và đầm Cù Mông, Phía Nam giáp xã Xuân Cảnh, Phía Tây giáp xã Xuân Phương
và thị xã Sông Cầu, Phía Đông giáp xã Xuân Hoà, xã Xuân Cảnh và Đầm Cù Mông. Tổng
diện tích tự nhiên là 5105 ha, trong đó: đất sản xuất nông nghiệp: 3.222,47 ha, đất sản xuất
làm muối: 135,9 ha, đất phi nông nghiệp: 389,53 ha, đất chưa sử dụng: 1353,4 ha. Có tuyến
Quốc lộ 1A chạy dọc qua với chiều dài khoảng 6km và một đường liên xã đã được nâng cấp
trải mặt nhựa nên tương đối thuận lợi cho việc đi lại cho bà con nhân dân, ngoài ra mạng
lưới giao thông dần được nâng cấp với khoảng 6km bêtông giao thông nông thôn đã được
xây dựng với chương trình nhà nước và nhân dân cùng làm, đây cũng là điều kiện thuận lợi
để phục vụ nhu cầu đi lại và lưu thông hàng hoá giữa các xã và huyện.
Địa hình xã Xuân Bình tương đối phức tạp, phía Tây Nam là núi. Độ dốc trung bình
khoảng 4
o
và thấp dần từ Tây sang Đông với kiểu địa hình tương đối bằng phẳng, phía Đông
là đầm Cù Mông. Độ cao trung bình 50m; có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hai mùa rõ rệt trong
Trang 14
năm, mùa khô từ tháng 01 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa thường
tập trung vào mùa mưa (chiếm khoảng 76% tổng lượng mưa trong năm).
Toàn xã được chia thành 5 thôn với 2112 hộ dân và 9187 nhân khẩu, trong đó nam là
4128 nhân khẩu, nữ là 5059 nhân khẩu. UBND xã nằm ở thôn Bình Thạnh. Tổng số lao
động trên địa bàn có 4133 lao động (LĐ), trong đó nam có 2216 LĐ; nữ có 1917LĐ. Trong
đó có hơn 2/3 sống bằng nghề nông nghiệp, 1/3 còn lại hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp
– dịch vụ và một số lĩnh vực khác.
Công tác giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực luôn được

chú trọng, việc phổ cập giáo dục đúng độ tuổi được quan tâm, trường lớp được đầu tư tu bổ
khang trang và đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường. Công tác
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được đảm bảo, nhất là công tác phòng bệnh, phòng dịch
được thực hiện tốt.
Công tác tuyên truyền thông tin, văn hóa, thể thao được đầu tư đúng mức. Đời sống
tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo được tôn
trọng và giám sát chặt chẽ.
An ninh, chính trị của xã cơ bản được ổn định, các ban ngành đoàn thể hoạt động
tương đối vững vàng, tệ nạn xã hội bị đẩy lùi, công tác quốc phòng luôn được giữ vững.
Kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi trong xã từng bước được chỉnh trang, xây
dựng mới đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Toàn xã có 1 trường Trung học phổ thông đang xây
dựng, 1 trường Trung học cơ sở, 3 trường Tiểu học, một số cơ sở giáo dục mẫu giáo và mầm
non; có một trạm y tế và phòng khám khu vực phía bắc thị xã Sông Cầu, đường giao thông
từng bước được bêtông hóa, …
2. Một số kết quả kinh tế – xã hội xã Xuân Bình đạt được trong thời gian qua
2.1. Về lĩnh vực kinh tế
* Sản xuất nông – lâm - ngư nghiệp:
- Nông nghiệp:
Năm 2006, hồ chứa nước Xuân Bình hoàn thành đưa vào sử dụng diện tích lúa tăng
vụ 3 chiếm khoảng 70 ha, do đó đã nâng sản lượng lúa bình quân lên 30 - 45 tạ/ha. Hiện nay
đã được nhân rộng giống lúa mới, có năng suất cao để sản xuất. Mặc khác một số diện tích
năng suất thấp chuyển sang trồng cây ăn quả và các loại cây khác; vận động nhân dân
chuyển 1,5 ha sang trồng rau các loại đã đem lại hiệu quả tăng gấp 2 lần so với sản xuất lúa.
Bên cạnh đó, việc tiến hành sản xuất xen canh trên một số diện tích lúa 1 vụ trồng các loại:
đậu xanh, đậu phộng, mè…đem lại hiệu quả cho người nông dân góp phần tăng thu nhập.
Trong 5 năm, đã trồng được 75,22 ha đào (điều) cao sản với 65 hộ tham gia, bên cạnh
đó vận động nhân dân chăm sóc vườn đào cao sản có tại địa phương. Đồng thời chăm sóc và
bảo vệ phòng trừ dich bệnh bọ cánh cứng diện tích dừa hiện có, đến nay đã giảm, dừa đang
dần hồi phục và phát triển cho quả đạt 50% tổng lượng quả hàng năm.
- Lâm nghiệp:

Đến năm 2010, toàn xã có 1001 hộ tham gia trồng rừng phát triển nhất là khu vực
phía tây của xã với diện tích trồng rừng là 2200ha.
- Chăn nuôi:
Hiện nay, đàn heo toàn xã có 4000 con, 100% heo hướng nạc, đàn bò có 1400 con, bò
lai sind có 250 con chiếm tỷ lệ 19,26%, đàn gia cầm trên địa bàn xã phát triển ổn định không
có dịch cúm xảy ra.
Trang 15
- Sản xuất muối:
Thời tiết diển biến thất thường, trong 05 năm sản xuất hiệu quả chưa cao. Được nhà
nước đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng làm các cống thoát lũ nhờ đó những năm sau các tuyến
đê bao không bị xói lỡ, chi phí đầu tư đầu vụ giảm rất nhiều, tiết kiệm cho Hợp tác xã muối
và nhân dân sản xuất muối khoảng 100 - 120 triệu đồng trên năm, năng suất sản lượng muối
cũng tăng lên. Tổng sản lượng hàng năm 15.000 tấn/ 17.000 tấn, đạt 88,5% hàng năm, giá
muối bình quân tương đối cao do vậy đời sống diêm dân có bước cải thiện và nâng lên.
- Nuôi trồng thủy hải sản:
Tổng diện tích ao nuôi tôm sú tại địa phương là 41ha. Năm 2009, thả nuôi 32,67/ 41
ha tổng sản lượng 20 tấn. Giá tôm sú không cao nên lợi nhuận từ nuôi tôm không hiệu quả,
nhân dân đang tận dụng các diện tích ao hồ có nguồn nước sâu nuôi một số loài thủy sản
khác như: cá mú, cá dìa, ghẹ…để hiệu quả kinh tế cao hơn. Vận động nhân dân nuôi tôm xen
canh trên một số diện tích sản xuất muối khi mãn vụ.
* Tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ:
Năm 2008, được sự hỗ trợ của vốn làng nghề cấp tỉnh, đầu tư xây dựng sân phơi, kho
phục vụ cho sản xuất thảm cước xơ dừa lúc đầu hoạt động có hướng phát triển, về sau sản
phẩm sản xuất tại địa phương không đảm bảo chất lượng cạnh tranh với thị trường bên ngoài
nên hiện nay đang tạm dừng sản xuất. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên năm 2008 tiến hành
bàn giao hệ thống lưới điện tại địa phương cho ngành điện quản lý và đang chỉ đạo giải thể
hợp tác xã điện theo quy định.
Bên cạnh đó nhiều thành phần kinh tế khác bỏ vốn ra mở nhiều trại mộc dân dụng để
sản xuất đồ gỗ, đến nay toàn xã có 4 cơ sở sản xuất đồ gỗ dân dụng, đặc biệt là doanh nghiệp
sản xuất gỗ Long Biên sản xuất ổn định tạo việc làm cho trên 100 lao động tại địa phương có

việc làm ổn định.
Hoạt động thương mại - dịch vụ 5 năm qua có phát triển nhưng không đáng kể, đa
phần hộ kinh doanh cố định tập trung tại chợ Xuân Lộc. Đến nay toàn xã có khoảng 130 hộ
kinh doanh cố định và một số cơ sở tập thể, cá thể hoạt động dịch vụ phục vụ riêng vật tư
nông nghiệp, thuốc trừ sâu, phân bón, sản xuất nông cụ…từng bước đang phát triển.
2.2. Về văn hóa- xã hội
- Công tác giáo dục:
Quy mô giáo dục ngày càng tăng và có bước đầu tư, hiện tại trên địa bàn toàn xã có 1
trường THCS, 03 trường Tiểu học, 1 trường Mẫu giáo và một trường Mầm non tư thục, cơ
sở vật chất của các trường cơ bản đảm bảo cho việc dạy và học. Chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức, giáo viên được nâng cao.
Cuộc vận động “ hai không” trong ngành giáo dục có sự chuyển biến tích cực. Cơ sở
vật chất phục vụ cho ngành giáo dục của xã ngày càng được mở rộng. Trong 5 năm bằng
nhiều nguồn vốn đã xây dựng mới 13 phòng học. Trong đó trung học cơ sở 4 phòng, Tiểu
học 6 phòng, Mẫu giáo 3 phòng, hàng năm vận động học sinh vào lớp 1 đạt 100%, tỷ lệ học
sinh tăng hàng năm và tỷ lệ khá giỏi đạt cao, cụ thể:
+ Tỷ lệ học sinh khá giỏi THCS năm 2005 - 2006 đạt 45,7%, cuối năm 2008 - 2009
đạt 43,98%.
+ Tỷ lệ học sinh khá giỏi ở Tiểu học năm 2005 - 2006 đạt 37,2 %, cuối năm 2007 -
2008 đạt 49,6%.
Trang 16
Xã giữ vững chuẩn quốc gia về Phổ cập giáo dục (PCGD) tiểu học đúng độ tuổi và
PCGD trung học cơ sở.
- Công tác y tế - dân số - Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ):
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, nhất là công tác phòng
bệnh, phòng dịch, do đó trong 5 năm không xảy ra dịch bệnh trên địa bàn xã. Song song với
công tác phòng bệnh ngành y tế xã phối hợp với các ban ngành thường xuyên vận động nhân
dân thực hiện các chương trình y tế quốc gia. Bình quân tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng 7 loại
vắc xin đạt 95% chỉ tiêu hàng năm. Trạm y tế được tách ra khỏi phòng khám khu vực Xuân
Bình được sự quan tâm của thị xã và phòng y tế đã hoán đổi cơ sở nơi làm việc với Hợp tác

xã nông nghiệp đã phát huy và tạo điều kiện cho nhân dân khám chữa bệnh kịp thời, do đó
chất lượng khám và chữa bệnh ngày càng được nâng lên. Khám chữa bệnh bằng Đông - Tây
y kết hợp của Hội đồng y khoa bước đầu có hiệu quả.
Công tác dân số - KHHGD có nhiều chuyển biến tích cực, số cặp vợ chồng trong độ
tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại, hiện tại đạt trên 85%. Do đó trong 5
năm tỷ lệ phát triển dân số của xã giảm dần và còn 1% năm 2010, tỷ lệ sinh con thứ 3 từ
20% giảm xuống còn 14,2%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng 19,4 %. Triển khai tốt công tác và
thực hiện các chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) - KHHGĐ, các hoạt động y
tế quốc gia, các phong trào bảo vệ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho bà mẹ và trẻ em được chú
trọng.
- Công tác văn hóa - tuyên truyền thông tin, thể dục thể thao:
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư”. Đến nay toàn xã đã có 5/5 thôn là thôn văn hóa và xã đã được công nhận là xã
văn hóa năm 2008. Số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa ngày càng tăng bình quân hộ gia
đình đạt gia đình văn hóa hàng năm trên 85% so với số hộ toàn xã. Cụ thể cuối năm 2009 có
1704 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa tăng 87,2%.
Nhờ làm tốt công tác vận động tuyên truyền trong nhân dân thực hiện phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Các biểu hiện mê tín dị đoan và các thủ tục
lạc hậu trong nhân dân được giảm dần. Đời sống văn hóa từng bước hình thành, đi vào cuộc
sống của nhân dân nhất là vấn đề ma chay, cưới hỏi…
Bên cạnh việc xây dựng đời sống văn hóa, các hoạt động thể dục thể thao dần dần
phát triển. Hàng năm vào diệp kỷ niệm các ngày lễ lớn, Đảng ủy chỉ đạo Ủy ban xã tổ chức
các giải bóng chuyền cấp xã, các thôn đều có các đội tham gia. Đồng thời xã cử các đoàn
văn nghệ, TDTT, vận động viên tham gia giải do thị xã tổ chức như: giải bóng chuyền cấp
thị xã, lễ hội sông nước Tam Giang, và các hoạt động thể dục thể thao khác do thị xã tổ
chức…Trong 5 năm xã đạt được nhiều giải thưởng của thị xã.
Đài truyền thanh của xã được đầu tư, nghiệm thu và đưa vào sử dụng tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước
tại địa phương.
- Giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa:

Công tác giải quyết việc làm, giúp nhau làm kinh tế gia đình thực hiện công tác xóa
đói giảm nghèo có tiến bộ. Tuy là một xã thuần nông lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp
còn rất nhiều, xã chủ động vận động nhân dân khôi phục các ngành nghề truyền thống như:
làm bún, bánh hỏi, bánh tráng…Đặc biệt gần đây khu công nghiệp Đông bắc Sông Cầu phát
Trang 17
triển nhân có phần tăng thêm. Công tác đào tạo nghề như: thú y, mộc, nề…150 lao động góp
phần tích cực trong việc ổn định đời sống trong từng gia đình.
Bên cạnh đó hàng năm xã xây dựng các dự án cho vay vốn phát triển chăn nuôi gia
cầm gia súc nhất là đàn heo và đàn bò để tăng thu nhập cho nhân dân.
Hàng năm được sự hỗ trợ của ngân hàng chính sách thị xã các đoàn thể của xã đã
thành lập các dự án cho vay vốn hỗ trợ việc làm và các kênh khác và giải quyết được 1500
lao động trong 5 năm.
Song song công tác giúp nhau làm kinh tế để cải thiện đời sống nhân trong toàn xã.
Xã còn quan tâm chú trọng phong trào đền ơn đáp nghĩa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để
giúp đỡ các gia đình chính sách, hộ gia đình neo đơn không nơi nương tựa, hộ nghèo phấn
đấu vươn lên ngang mức sống trung bình trong toàn xã.
Trong 5 năm chỉ đạo các ban ngành đoàn thể của xã phối hợp với Uỷ ban vận động
xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa 40,922/50 triệu đồng đạt 81,8%, xây dựng và sữa chữa nhà
tình nghĩa gồm 9/5 đạt tỷ lệ 180%. Mặc khác kết hợp các nguồn vốn cấp trên đã hỗ trợ vốn
cho các đối tượng hộ nghèo có nhà tạm bợ dột nát trong 5 năm đã xây dựng 80 nhà tình
thương. Ngoài ra xã vận động nhân dân quên góp làm công tác nhân đạo và khắc phục bão
lụt…
2.3. Về quốc phòng - an ninh
Công tác QP - AN có nhiều chuyển biến tích cực các phong trào quần chúng tham gia
bảo vệ an ninh tổ quốc (ANTQ), phong trào phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy và
các tệ nạ xã hội khác từng bước được hình thành và phát triển sâu rộng trong quần chúng
nhân dân, đã gắn kết phong trào nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Nhờ vậy những mâu thuẫn nhỏ trong nhân dân đã được giải quyết ngay tại cơ sở, tạo sự
đoàn kết, tình làng nghĩa xóm giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau xây dựng và phát triển kinh tế gia
đình. Trong 5 năm xã đã được UBND Tỉnh, Công an tỉnh và UBND thị xã tặng bằng khen và

giấy khen phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.
Công tác quốc phòng thường xuyên được cũng cố. Hằng năm Đảng ủy đã triển khai
nhiệm vụ công tác quốc phòng trong năm, UBND xã đã tổ chức triển khai thực hiện có hiệu
quả Nghị quyết.
Các phương án tác chiến trị an, phương án phòng chống cháy nổ, phòng chống bão
lụt, giảm nhẹ thiên tai thường xuyên được cũng cố và bổ sung. Năm 2008 diễn tập theo kế
hoạch CT 02 được Bộ chỉ huy quân sự thị xã đánh giá xếp loại khá.
Giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu thị xã giao.
2.4. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhiệm kỳ 5 năm (2011 – 2015)
* Mục tiêu tổng quát:
Tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế tại địa phương , phát huy nội lưc hiện có và
tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ bên ngoài để đầu tư phát triển kinh tế, đưa Xuân Bình phát
triển bền vững.Trước mắt những năm đầu tiên phát triển nông nghiệp làm nền tảng cho
những năm tiếp theo, đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ theo hướng CNH-
HĐH nông nghiệp nông thôn. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa về giáo dục, y tế, văn
hóa- xã hôi, từng bước giải quyết có hiệu quả, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân và giải quyết các vấn đề bức xúc đang đặt
ra giữ vững ổn định và trật tự ổn định xã hội, tăng cường công tác quốc phòng. Tiếp tục cuộc
vận động chỉnh đốn Đảng và “ Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nâng
Trang 18
cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý điều hành của
UBND xã, đỏi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và cac đoàn thể nhằm đáp ứng nhu
cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ mới.
* Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015:
- Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 là 11 triệu đồng.
- Sản lượng muối đạt bình quân hàng năm là 17.000 tấn.
- Sản lượng tôm thịt hàng năm là 30 tấn.
- Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 10% đến 15%; đến năm 2015 đạt 750 triệu
đồng.
- Xây dựng đường bê tông dài 4,5 km.

- Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2015 còn 5,63 %.
- Huy động quỹ “ Đền ơn đáp nghĩa” 50 triệu đồng, quỹ “ Ngày vì người nghèo” 60
triệu đồng.
- Tỷ lệ phát triển dân số giữ ở mức 1%,
- Hàng năm huy động 100% trẻ em đúng độ tuổi đến trường bậc tiểu học, 98% -
100% lên lớp bậc tiểu học, 95% - 98% xét tốt nghiệp Trung học cơ sở. Giữ vững tiêu chuẩn
quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và tiến tới phổ cập GDTHCS.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2015 còn 13,4 %.
- Tỷ lệ sinh con thứ 3 cuối năm 2015 còn 8,2%.
- Hàng năm xây dựng 5/5 thôn văn hóa, gia đình văn hóa đạt 80 – 85%, xã đạt xã văn
hóa, cơ quan văn hóa.
- Phấn đấu 100% cơ quan, đoàn thể trong sạch vững mạnh toàn diện
3. Diện mạo lao động nữ nông thôn ở xã Xuân Bình
3.1. Độ tuổi
So với một số xã lân cận trong huyện thì xã Xuân Bình là một trong những xã có tỷ lệ
phụ nữ trong độ tuổi lao động khá cao.
Bảng 1: Tỷ lệ các độ tuổi Biểu đồ thể hiện độ tuổi phụ nữ xã Xuân Bình
Độ tuổi Tỷ lệ (%)
Từ 18 đến 30 16
Từ 31 đến 45 60
Từ 46 đến 55 19
Từ 56 trở lên 5
Tổng 100
Như vậy, trong số 100 phụ nữ được điều tra có 60% phụ nữ ở độ tuổi từ 31 đến 45;
19% ở độ tuổi từ 46 đến 55; 16% ở độ tuổi từ 18 đến 30, 5% ở độ tuổi từ 56 trở lên. Với con
số này, có thể nhận thấy rằng nguồn lao động nữ của địa phương khá dồi dào; họ sẽ là một
nguồn lực lớn góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
3.2. Trình độ học vấn
Trong những năm gần đây, chính quyền địa phương xã Xuân Bình rất quan tâm đến
vấn đề giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho địa phương. Tuy

nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau dẫn đến trình độ học vấn của
người dân nói chung và của phụ nữ nói riêng chưa tiến bộ như mong muốn.
Bảng 2: Trình độ học vấn
Trang 19
tTrình độ học vấn Tỷ lệ (%)
Tốt nghiệp tiểu học 48
Tốt nghiệp THCS 10
Tốt nghiệp THPT 8
Tốt nghiệp TC – CĐ – ĐH 5
Ý kiến khác 29
Tổng 100
Qua bảng số liệu trên, ta thấy trình độ học vấn của lao động nữ ở xã Xuân Bình là quá
thấp. Lao động nữ ở đây chủ yếu có trình độ học vấn là tốt nghiệp tiểu học (48%), trung học
cơ sở là 10% còn tốt nghiệp trung học phổ thông và các bậc cao hơn là rất thấp. Ngoài ra còn
một số lượng không nhỏ lao động nữ qua điều tra cho thấy họ không được học và chưa tốt
nghiệp tiểu học (29%).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bên cạnh những nguyên nhân về kinh
tế thì các quan niệm, sự nhìn nhận chưa đúng về khả năng và vai trò của phụ nữ đối với sự
phát triển xã hội là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề này. Đây sẽ là
một trong những trở ngại lớn để phụ nữ tiếp cận các chính sách của Nhà nước.
3.3. Cơ cấu nghề nghiệp của lao động nữ
Trong những năm trở lại đây, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước thì
cơ cấu nghề nghiệp của xã Xuân Bình nói chung đã có nhiều sự thay đổi rõ rệt. Đặc biệt là
cơ cấu nghề nghiệp dành riêng cho lao động nữ. Nếu như trước đây, lao động nữ chủ yếu tập
trung vào những ngành nghề như nông nghiệp, những nghề thủ công truyền thống … thì giờ
đây, phụ nữ đã tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có dịch vụ, công nghiệp,
hành chính nhà nước. Kết quả điều tra cho thấy:
Bảng 3: Cơ cấu nghề nghiệp lao động nữ
Nghề nghiệp Tỷ lệ (%)
Làm nông 40

Công nhân 11
Làm nghề thủ công truyền thống 4
Buôn bán 20
Cán bộ - công chức 4
Nghề khác 21
Tổng 100
Số phụ nữ làm nghề nông (trồng trọt, chăn nuôi và làm muối) chiếm 40%; công nhân
làm tại các xưởng ở khu công nghiệp chiếm 11%, hoạt động dịch vụ (buôn bán nhỏ) chiếm
20%; làm nghề thủ công truyền thống chiếm 4% và 4% phụ nữ có nghề nghiệp là cán bộ
công chức. Ngoài ra, có 21% phụ nữ đang hoạt động với những công việc khác nhau như:
làm tóc, làm mướn lưu động, may, nội trợ…
Biểu đồ thể hiện cơ cấu nghề nghiệp của lao động nữ
Trang 20
4. Thực trạng việc làm của phụ nữ xã Xuân Bình
4.1. Vấn đề thu nhập
Thu nhập là nhân tố cơ bản có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của con
người. Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm chu đáo của chính quyền địa phương các cấp
mà đời sống của người dân xã Xuân Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực về mọi mặt. Tuy
nhiên, so với mặt bằng chung của toàn thị xã thì mức thu nhập của người dân xã Xuân Bình
nói chung còn ở mức thấp, trong đó đặc biệt phải kể đến thu nhập của phụ nữ.
Bảng 4: Thu nhập bình quân
Mức thu nhập bình quân Tỷ lệ (%)
Dưới 5 trăm ngàn đồng 33
Từ 5 trăm đến dưới 1 triệu đồng 29
Từ 1 triệu đến dưới 2 triệu đồng 28
Từ 2 triệu đồng trở lên 10
Tổng 100
Thực tế, qua kết quả điều tra bằng bảng hỏi kết hợp với các cuộc phỏng vấn sâu cho
thấy rằng: đa số phụ nữ có thu nhập dưới 1 triệu đồng (chiếm tới 62%), trong đó có đến 33%
phụ nữ có thu nhập dưới 5 trăm ngàn đồng. Con số đó tập trung chủ yếu vào những phụ nữ

làm nông, làm mướn lưu động, một bộ phận phụ nữ chưa có việc làm chỉ ở nhà lo nội trợ và
những phụ nữ có con nhỏ. Số phụ nữ có mức thu nhập từ 1 triệu đến dưới 2 triệu đồng chiếm
28%, đó là những phụ nữ làm công nhân và buôn bán nhỏ. Những phụ nữ có thu nhập từ 2
triệu đồng trở lên chiếm một tỷ lệ tương đối khiêm tốn 10%, chủ yếu ở những phụ nữ là cán
bộ – công chức, một số ít làm công nhân và những phụ nữ có sự kết hợp nhiều công việc
trong quá trình phát triển kinh tế (ví dụ như vừa làm ruộng vừa buôn bán, vừa buôn bán vừa
chăn nuôi…)
Với mức thu nhập như trên, rõ ràng nó chưa thể đáp ứng một cách đầy đủ cho đời
sống của chị em phụ nữ ở xã Xuân Bình hiện nay. Kết quả thu thập còn cho thấy: có 51%
phụ nữ cho rằng với mức thu nhập này thì việc trang trãi cuộc sống còn thiếu và rất thiếu
thốn, trong đó rất thiếu thốn chiếm 15%. Số người trả lời có mức sống vừa đủ và dư dả
chiếm tỷ lệ 49% (trong đó có 2% là dư dả). Tuy nhiên, qua ý kiến của đa số các phụ nữ,
chúng tôi nhận ra rằng mức sống của họ có được như thế chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập
của chồng, con. Ví dụ như khi được hỏi về thu nhập và mức sống có phụ nữ cho biết: “Mình
có con nhỏ, đâu có thời gian làm gì ra tiền. Cũng nhờ ảnh (chồng) đi làm thợ vôi, tiền công
cũng được trên dưới 2 triệu nên đắp qua lại, chi tiêu cũng vừa đủ”. Hay: “ Cô ở nhà mở quán
Trang 21
cũng gọi là buôn bán cho vui, một ngày bán cũng được vài ba chai nước chứ không lời lãi gì
nhiều, phần lớn là thằng con trai nó chu cấp, nhờ đó mà cuộc sống cũng không thiếu thốn
gì!..” Cũng qua đó, chúng ta thấy, đời sống của phụ nữ nông thôn còn phụ thuộc nhiều, họ
không có nhiều điều kiện để phát triển, để vươn lên khẳng định mình.
4.2. Thời gian lao động chính của phụ nữ
Trải qua các giai đoạn lịch sử, dù ở chế độ xã hội nào phụ nữ cũng luôn có những
đóng góp nhất định cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Trong thực tế, ở hầu hết những
công việc mà phụ nữ đang đảm nhận tốn khá nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, xã hội
vẫn chưa nhìn nhận và trả công xứng đáng cho họ. Đây cũng chính là nguyên nhân cản trở sự
phát triển của phụ nữ nói chung và đặc biệt là phụ nữ nông thôn nói riêng. Là một xã thuần
nông với 77,7% lao động nông nghiệp nên phụ nữ xã Xuân Bình cũng có những đặc điểm
tương tự. Bên cạnh đó, do điều kiện kinh tế – xã hội của xã Xuân Bình còn khó khăn nên đòi
hỏi người phụ nữ phải đầu tư nhiều thời gian và công sức cho công việc của mình.

Qua kết quả điều tra cho thấy: có đến 50% phụ nữ trả lời có thời gian làm việc trong
ngày từ 8 tiếng trở lên (trong đó có 22% phụ nữ gần như làm việc suốt ngày), tỷ lệ phụ nữ
làm việc từ 6 – 8 tiếng mỗi ngày chiếm 25% và có 25% phụ nữ có thời gian làm việc trong
ngày dưới 6 tiếng.
Bảng 5: Thời gian làm việc của phụ nữ
Khoảng thời gian làm việc trong ngày Tỷ lệ (%)
Từ 2 đến 4 tiếng 7
Từ 4 đến 6 tiếng 18
Từ 6 đến 8 tiếng 25
Từ 8 đến 10 tiếng 28
Ý kiến khác 22
Tổng 100
Tuy nhiên, những con số trên chỉ phản ánh đúng một phần nào đó bởi xét về tính chất
công việc của phụ nữ nông thôn và qua lân la chuyện trò với họ, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ
những phụ nữ có nghề nghiệp là cán bộ công chức hay những người làm công nhân là có
mức thời gian làm việc ổn định, cụ thể. Đa số phụ nữ làm các nghề khác khá mơ hồ khi được
hỏi họ về vấn đề này. Đa số họ đều nói: “mình làm nông biết đâu mà tính, có ngày nầy ngày
kia; bữa làm 2 – 3 tiếng, bữa làm cả ngày, ngày mùa lên làm đầu tắt mặt tối, hết mùa có ai
kêu làm gì thì làm, không thì làm việc nhà, lo nội trợ, công việc loay hoay suốt”. Hay những
người buôn bán tại nhà, thời gian làm việc của họ không thể tính được, họ nói: “còn khách
còn bán, hết khách thì thôi, hay mưa gió thì nghỉ bán….”.
Mặt khác, với tính chất mùa vụ, hàng năm những phụ nữ làm muối chỉ làm từ cuối
tháng Giêng (AL) đến tháng 6,7,8 tùy theo mùa nắng kéo dài hay ngắn. Hết mùa làm muối,
những ai có ruộng thì trồng lúa, trồng rau màu còn phần lớn thì nhàn rỗi. Hay những phụ nữ
làm mướn không phải ngày nào cũng có việc, có tháng nhiều người gọi thuê nhưng có tháng
ở nhà suốt …
Như vậy, qua số liệu điều tra, tuy chúng ta thấy thời gian làm việc của phụ nữ ở đây
khá nhiều (từ 8 tiếng trở lên chiếm 50%) nhưng đặt trong mối tương quan với mức thu nhập
của họ thì chưa tương xứng (có đến 62% phụ nữ thu nhập dưới 1 triệu đồng trên tháng). Từ
đó chúng ta thấy rằng, lao động nữ nông thôn còn rẽ, hiệu quả kinh tế từ những công việc họ

Trang 22
làm mang lại còn thấp. Điều đó đòi hỏi chính quyền địa phương cần có những quan tâm
thích hợp tạo điều kiện giúp phụ nữ nâng cao được hiệu quả kinh tế từ công việc của mình.
4.3. Những khó khăn gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế
Trong quá trình phát triển kinh tế gia đình, ngoài những thuận lợi cơ bản như được
chính quyền quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ, sự hỗ trợ nhiều mặt từ các ban ngành đoàn thể
địa phương … phụ nữ ở xã Xuân Bình cũng gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại.
Những khó khăn, trở ngại đó là: giá cả vật chất tăng cao, thiếu vốn, khó khăn do thiên tai –
thời tiết, thiếu kiến thức kỹ thuật, thiếu đất canh tác, thiếu người làm và một số khó khăn
khác. Kết quả điều tra cho thấy:
Bảng 6: Những khó khăn chủ yếu của phụ nữ nông thôn
Những khó khăn gặp phải Tỷ lệ (%)
Thiếu vốn đầu tư 70
Thiếu kiến thức - kỹ thuật 30
Khó khăn do thiên tai – thời tiết 51
Giá cả vật chất tăng cao 75
Thiếu người làm 20
Thiếu đất canh tác 33
Khó khăn khác 10
- Khó khăn do giá cả vật chất tăng cao: Cùng với sự biến động của thị trường hiện
nay, việc giá cả vật chất tăng cao ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của phụ nữ, 75% phụ nữ
cho rằng việc giá cả vật chất tăng cao không những gây khó khăn trong việc chi tiêu cho sinh
hoạt của gia đình mà còn là trở ngại nhiều cho hoạt động sản xuất.
- Khó khăn do thiếu vốn đầu tư sản xuất: Sau hơn 20 năm đổi mới, sản xuất nông
nghiệp của nước ta phát triển khá mạnh với sự phát triển của kinh tế hộ gia đình, kinh tế
trang trại. Tuy nhiên đến nay, vẫn còn nhiều hộ nông dân túng thiếu, đói nghèo đặc biệt là
những hộ mà phụ nữ làm chủ hộ. Kết quả điều tra cho thấy có 70% phụ nữ gặp khó khăn về
nguồn vốn cho phát triển kinh tế gia đình.
- Khó khăn do thiên tai - thời tiết: có 51% phụ nữ cho rằng hoạt động kinh tế cũng
như đời sống của họ có nhiều khó khăn do thiên tai – thời tiết. Tuy đã được tham gia các lớp

tập huấn về khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu nhưng với phụ nữ sự ảnh hưởng của thiên
tai thời tiết là một trở ngại rất lớn.
- Khó khăn do thiếu đất canh tác: dân số tăng nhanh, quá trình chuyển đổi mục đích
sử dụng (đất nông nghiệp thành đất nhà ở) làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị
thu hẹp, dẫn đến việc phụ nữ thiếu đất hoặc không có đất canh tác, thiếu việc làm. Con số
33% phụ nữ trả lời mình thiếu đất canh tác đã phần nào phản ánh được thực trạng trên.
- Khó khăn do thiếu kiến thức – kỹ thuật: Đi liền với nhu cầu về vốn để sản xuất, phụ
nữ nông thôn còn có nhu cầu không nhỏ về tiếp thu các kiến thức kỹ thuật. Phần lớn phụ nữ
nông thôn, nhất là phụ nữ nghèo có trình độ văn hóa thấp, ít được học hành, đào tạo về kỹ
năng nghề nghiệp; ít được tiếp cận với các thông tin, kiến thức khoa học – kỹ thuật chăn
nuôi, trồng trọt, bảo quản chế biến nông sản … Do vậy họ rất lúng túng, thụ động trong sản
Trang 23
xuất, trong phương thức làm giàu, xóa nghèo. Theo kết quả điều tra có 30% phụ nữ có nhu
cầu này.
- Khó khăn do thiếu người làm: tỷ lệ này chiếm khoảng 20%, nguyên nhân chủ yếu do
phụ nữ lao động kéo dài trong điều kiện làm việc thiếu vệ sinh, chế độ dinh dưỡng thiếu hụt
trầm trọng làm cho sức khỏe bị suy kiệt, điều đó đòi hỏi cần có người hỗ trợ họ trong công
việc của mình.
Ngoài ra, có 10% phụ nữ còn gặp phải một số khó khăn khác như : khó khăn do sức
khỏe yếu, công việc bấp bênh….

Biểu đồ thể hiện những khó khăn của phụ nữ trong phát triển kinh tế
4.4. Những nguồn lực để phát triển kinh tế
Để kinh tế – xã hội của xã Xuân Bình phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ có
nhiều cơ hội vươn lên phải cần đến nhiều nguồn lực khác nhau. Bên cạnh những nguồn lực
sẵn có của địa phương thì yếu tố ngoại lực cũng là một phần rất quan trọng mà chính quyền
cần quan tâm, huy động trong thời gian sắp tới. Xuất phát từ thực trạng của địa phương,
chúng ta có thể chỉ ra một số nguồn lực sau:
* Nguồn nội lực của CĐ :
- Xã Xuân Bình có lực lượng lao động của tương đối đông, với 4133 lao động, trong

đó có 1917 LĐ nữ, người lao động có tính cần cù, chịu thương, chịu khó luôn muốn phấn
đấu vươn lên thoát cảnh nghèo khó lam lũ, nếu được tạo điều kiện để họ phát triển họ sẽ tiếp
nhận và thay đổi nhanh chóng. Đây được xem là nguồn lực cơ bản rất quan trọng của địa
phương.
Trang 24
- Vị trí địa lý xã Xuân Bình vừa có đầm Cù Mông tiếp giáp biển, vừa có các đồng
bằng nhỏ nằm trong các thung lũng, lại vừa có diện tích đồi núi rộng lớn ở phía Tây Nam.
Chính đặc điểm này là một nguồn lực tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương phát triển đa
dạng ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và lao động nữ nói
riêng.
- Hồ chứa nước Xuân Bình: Hồ thủy lợi phục vụ cho việc tưới tiêu và ngăn lũ của cả
khu vực phía bắc thị xã Sông Cầu. Khai thác tốt nguồn lực này địa phương sẽ chủ động được
nước tưới tiêu tăng vụ, tăng năng xuất đồng thời tận dụng nguồn nước này để phát triển diện
tích ao nuôi thủy sản nước ngọt.
- Xã Xuân Bình có tuyến Quốc lộ 1A chạy ngang qua (khoảng 6 km), có tuyến đường
giao thông liên xã (Xuân Bình – Xuân Lộc – Xuân Hải) vừa được đầu tư nâng cấp, trong
tương lai sẽ trở thành con đường huyết mạch thông thương của khu vực cánh Bắc thị xã
Sông Cầu. Đó là điều kiện để địa phương đầu tư phát triển các ngành nghề thuộc lĩnh vực
dịch vụ, mở ra cơ hội việc làm cho không ít phụ nữ.
- Cánh đồng muối Tuyết Diêm nổi tiếng từ xưa đến nay với những hạt muối có vị mặn
mà khác với vị mặn chát của những vùng sản xuất khác. Tuy nhiên, với lối canh tác truyền
thống, phụ thuộc vào thời tiết nhiều và chất lượng hạt muối làm ra chưa ổn định nên giá trị
kinh tế mang lại còn thấp. Hiện nay, người diêm dân đang được hỗ trợ bạt trải ruộng, máy
bơm để sản xuất muối sạch, nếu khai thác tốt vấn đề này bà con diêm dân sẽ có nguồn thu
nhập khá hơn.
*Nguồn ngoại lực :
Một góc cánh đồng muối Tuyết Diêm
Hợp tác xã Muối Tuyết Diêm
Sự tham gia của phụ nữ vào quá trình sản xuất
Trang 25

Một số nguồn lực từ bên ngoài đã và đang tiếp tục được địa phương quan tâm thu
hút như là:
- Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm đến đời sống của người dân về mọi
mặt, đặc biệt có những chính sách ưu đãi dành cho phụ nữ như: cho vay vốn, giải quyết việc
làm, đào tạo bồi dưỡng kiến thức kỹ thuật, giáo dục, y tế…
- Xã Xuân Bình là một trong 3 xã thuộc khu vực cánh Bắc của thị xã Sông Cầu, có vị
trí chiến lược trong phát triển kinh tế của toàn thị xã nên luôn nhận được sự quan tâm chỉ
đạo, lãnh đạo sâu sát và tạo điều kiện thuận lợi của chính quyền các cấp.
- Kể từ khi được bước vào hoạt động, khu công nghiệp Đông Bắc Sông Cầu đã mở ra
rất nhiều cơ hội việc làm cho các xã lân cận, trong đó có xã Xuân Bình. Với các ngành nghề
sản xuất chủ yếu hiện nay như: làm đồ gỗ dân dụng và xuất khẩu, nguyên liệu giấy, phân
bón, … tạo thuận lợi để người dân cũng như phụ nữ lựa chọn cho mình một công việc thích
hợp, tạo thu nhập, ổn định cuộc sống.
Trên đây là những nguồn nội lực và ngoại lực của của địa phương trong kế hoạch
giải quyết những khó khăn của nhân dân nói chung và của phụ nữ xã Xuân Bình nói riêng.
Chúng ta cần xem xét và làm cơ sở xây dựng biện pháp giải quyết những khó khăn, trở ngại
của họ.
Một số Công ty tại Khu CN Đông Bắc Sông Cầu

×