Tải bản đầy đủ (.pptx) (21 trang)

Tìm hiểu nhà văn nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 21 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH II
KHOA : BÁO CHÍ
LỚP : 12CĐBC2
KHÓA : 2012-2015
GVHD : LẠI THỊ HỒNG VÂN
NHÓM : V
MÔN : VĂN HỌC ViỆT NAM
BÀI THUYẾT TRÌNH
Đại thi
Hào
Nguyễn
Du
(1765-1820)
CHỦ ĐỀ
MỤC LỤC

Gia thế và cuộc đời của Nguyễn Du

Thơ chữ hán và tâm sự của nhà thơ

Giới thiệu một số tác phẩm bằng thơ nôm của Nguyễn Du.
Gia thế và cuộc đời của Nguyễn Du

Nguyên Du tên chữ là Tố Như,hiệu là Thanh Hiên,sinh
năm Ất dậu,niên hiệu cảnh hưng.Quê ở làng Tiên
Điền,huyên Nghi Xuân,tỉnh Hà Tỉnh

Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên,
có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm
quan đến chức Đại tư đồ, tức Thượng thư bộ hộ triều Lê.


Mẹ là bà Trần Thị Tần (1740 - 1778), con gái một người làm
chức Câu kế, quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên
Du ,xứ Kinh Bắc. Bà là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có
tài hát xướng.

Năm Đinh Hợi, khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn
Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, Hàm tòng nhất
phẩm,nên Nguyễn Du thời đó sống trong giầu sang phú quý.

Năm 1774, cha Nguyễn Du được phong chức Tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa
Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát:

Năm 1775 anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ qua đời,

Năm 1776 cha Nguyễn Du qua đời,

Năm 1778 bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của
Nguyễn Du là Nguyễn Điều được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa.

Năm 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu
loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn
Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi
ăn học.

Năm 1782 Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của
Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại ,còn Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn
Tây.
.

Năm Quý Mão,Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường. Ông lấy vợ là con gái

Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở
Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề, đỗ đầu kỳ thi
Hương ở điện Phụng Thiên và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức
Tham tụng.

Tháng 2 năm 1784, kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của
Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là
Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở
Thăng Long.

Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với nhà Tây Sơn, giữ chức
Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ.

Tháng mười, năm Tân Hợi ,anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do
chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy.

Năm Quý Sửu, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm
anh là Nguyễn Đề đang làm thái tử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Năm Giáp Dần,
Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến
năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm
1796 trở về được thăng chức Tả Đồng Nghị Trung Thư Sảnh.

Mùa Đông năm Bính Thìn ,Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận công
Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền.

Mùa thu năm Nhâm Tuất, Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù
Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam .Mấy tháng sau thăng Tri Phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam
Thượng

. Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia

Long. Năm 1805 Ất Sửu ông được thăng Đông Các Đại Học Sĩ ,tức Du Đức hầu và vào nhận chức ở
kinh đô Phú Xuân.

Năm 1807 được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê
nghỉ. Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu 1813 ông được thăng Cần
chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu
tham chi bộ Lễ.

Năm Canh Thìn,Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm
chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch chết
ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn thọ 54 tuổi. Mộ ông nguyên táng tại làng An Ninh,
huyện Hương Trà. Năm Giáp Thân ,người ta cải táng ông và đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà
Tĩnh.

Năm 1965 ông được Hội đồng hòa bình thế giới của UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa
thế giới và quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông.

Nguyễn Du đã sống một cuộc đời bi kịch. Nhưng bi kịch lớn nhất là từng khao khát một sự
nghiệp vẫy vùng cho phỉ chí, mà rút cuộc phải chấp nhận cuộc đời triền miên buồn chán,
không có một hoạt động say sưa và nhất quán vì lý tưởng nào cả. Nguyễn Du đã sống như một
người dân thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu xa với mọi kiếp người bị đầy
đọa. Nguyễn Du nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó
khiến tác phẩm của ông chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam trung đại.

Nguyễn Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào
ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển.
Thơ chữ hán và tâm sự của nhà thơ
o
Tác phẩm bằng chữ hán:


Những tác phẩm bằng chữ hán của Nguyễn Du có rất nhiều,nhưng mãi đến năm 1959 mới
được ba nhà nho là:Bùi Kỷ,Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sươu tầm,phiên dịch,chú thích và
giới thiệu.Thơ chữ hán Nguyễn Du có 102 bài.Đến năm 1965 Lê Thước và Trương chính sươu
tầm và phiên dịch gồm có 249 bài

Thanh Hiên Thi Tập: 78 bài viết trước khi làm quan nhà Nguyễn(viết từ 1786-1804)

Nam Trung Tạp Ngâm: 40 bài,viết khi làm quan ơ Huế,Quãng Bình và Hà Tĩnh(viết từ 1805-
1812)

Bắc Hành Tạp Lục: 131 bài,viết trong chuyến đi sư sang Trung Quốc(1813-1814).
Tâm sự của nhà thơ

Thơ chữ hán được Nguyễn Du sáng tác trong thờ gian dài,từ lúc ông mới 21 tuổi(1786) đến lúc
ông 49 tuổi(1814)

Đọc thơ chữ hán của Nguyễn Du,một ấn tương sâu sắc cho người đọc là nhà thơ rất buồn.

Trong sáng tác của ông,giai đoạn về sống ở quê nhà,thơ Nguyễn Du có tính cách ẩn dật,thoát li
và hưởng lạc.Nhưng vẫn không thoát khỏi cái buồn.

Ra làm quan cho nhà Nguyễn,nhà thơ được trọng vọng,được cất nhắc,công việc nhiều lúc bận
rộn,nhưng tâm sự cua ông cũng không được vui vẻ hơn chút nào.

Nguyễn Du gọi mình là người đa bệnh đa sầu.

Hình ảnh Nguyễn Du trong thơ chữ hán,là hình ảnh con người tuổi trẻ mà tóc đã
bạc.

Nguyễn Du có tâm sự lớn.


Cảnh ngộ cá nhân của Nguyễn Du không phải là nguyên nhân nỗi buồn của nhà
thơ.

Trong thơ chữ hán,ta thấy nhà thơ hay nhắc đến khái niệm”cuộc đời” dưới nhiều
dạng:
o
Đáng thương đáng buồn
o
Lúc thì cuộc đời đầy những chuyện đổi thay
o
Lúc thì cuộc đời đầy vô nghĩa

Chính vấn đề “cuộc đời”mới là trung tâm những suy nghĩ,day dứt của nhà thơ

Những bài thơ viết về đề tài lich sử của Nguyên Du có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tìm
hiểu tâm sự của nhà thơ.

Qua những bài thơ viết về đề tài lich sử,những điều tai nghe mắt thấy trên đất nước Trung
Hoa,chúng ta hoàn toàn kết luận rằng:Ngyễn Du là một nhà thơ lớn.
Một số tác phẩm bằng chữ nôm

Đoạn Trường Tân thanh : gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát.

Nội dung truyện Kiều :
o
Giá trị hiện thực :

Phản ánh xã hội bất công tàn bạo ,


Phản ánh số phận bi kịch của con người .
o
Giá trị nhân đạo :

Đề cao tài năng ,khát vọng và nhân phẩm con người ,

Niềm thương cảm trước số phận bi kịch ,

Lên án tố cáo các thế lực xấu xa .
.
.

Văn Chiêu Hồn : chưa rỏ thời điểm sáng tác.Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch
khủng khiếp , làm hàng triệu người chết ,khắp non sông đất nước ta âm khí nặng nề và ở khắp
các chùa người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.Ông Hòang Xuân
Hãn cho rằng : Nguyễn Du viết văn chiêu hồn có thể trước cả truyện Kiều , tác phẩm viết theo
thể song thất lục bát gồm có 184 câu chữ nôm.

Thác Lời Trai Phường nón : 48 câu , được viết bằng thể thơ lục bát.

Nội dung : Anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với một cô gái phường vải

Văn tế sống Trường lươu nhị nữ : 98 câu, viết theo lối văn tế để bày tỏ với hai cô gái phường
vải khác

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP TRÊN LỚP

Tóm tắt sơ lược về cuộc đời của Nguyễn Du ?

Tóm tắt sơ lược về sự nghiệp sáng tác cua Nguyễn Du?

.
.
BUỔI THUYẾT TRÌNH ĐẾN ĐÂY LÀ HẾT
CÁM ƠN CÔ VÀ CÁC BẠN ĐÃ QUAN TÂM THEO DÕI, XIN CẢM ƠN !

×