Tải bản đầy đủ (.ppt) (25 trang)

Tìm hiểu nhà văn nguyễn du thơ nôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.89 KB, 25 trang )

Nhóm 04:
Nguyễn Tấn Lực
Nguyễn Viết Thành
Lê Thị Ngà
Võ Thị Kim chi
Bùi Thị Thâu Minh
Nguyễn Dữ (?-?) là 1 văn sĩ, người xã Đỗ Tùng, huyện
Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Ông là
con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn,
niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa
chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Chưa
rõ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học Phùng Khắc Khoan, tức
là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán
nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn là Truyền Kỳ mạn lục .
I. Nguyễn Dữ
I. Nguyễn Dữ
1.Tiểu sử
1.Tiểu sử
Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng
ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu
Hương tiến,Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và
từng giữ chức vụ tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một
năm thì vì bất mãn với thời cuộc ông xin từ quan về nuôi dưỡng
mẹ già, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi
sương, chân không bước đến thị thành". Đối với nhà Mạc,
Nguyễn Dữ có thái độ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông
không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã
sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại.
I. Nguyễn Dữ
I. Nguyễn Dữ


2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
2.1. Cuộc đời
Theo những tư liệu được biết cho đến nay Truyền Kỳ mạn lục
là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ . Sách gồm 20 truyện, chia
làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ . Cốt truyện chủ yếu
lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường
hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn
còn. Truyền kỳ mạn lục (nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện
lạ) là 1 tập truyện của nhà văn Nguyễn Dữ, được in trong khoảng
năm 1768 .
Dù là sao chép những truyện lạ nhưng không phải 1 công trình
sưu tập mà là 1 sáng tác văn học .
Sau có bản Nôm là Truyền Kỳ mạn lục giải âm .
2.2. Sự nghiệp sáng tác:
2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
I. Nguyễn Dữ
I. Nguyễn Dữ
I. Nguyễn Dữ
I. Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục – Nguyễn Dữ
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
NỘI DUNG KHÁI QUÁT
NỘI DUNG KHÁI QUÁT
A. Cơ sở hình thành
A. Cơ sở hình thành
B. Quá Trình Phát Triển
B. Quá Trình Phát Triển

C. Sự Kết Thúc
C. Sự Kết Thúc
Thơ Nôm được hình thành trên cơ sở là chữ Nôm, với các
thể thơ điển hình là lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt,
Đường luật…
Chữ Nôm là gì ?
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
A. Cơ sở hình thành
A. Cơ sở hình thành
Chữ Nôm là tên gọi của
cách viết biểu ý trong
thời cổ đại và trung
đại của tiếng Việt, có
một thời kỳ dài được
xem là ngôn ngữ quốc
gia (quốc ngữ), gọi
là Quốc Âm.
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Các quan điểm về sự ra đời của chữ Nôm:
Cách cấu tạo chữ Nôm "có thể" đã manh nha ló dạng
từ những năm đầu khi người Trung Hoa chinh phục
đất Giao Chỉ (Miền Bắc Việt Nam) và đặt nền đô hộ
trên các bộ lạc người Việt vào đầu Công nguyên.
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Phạm Huy Hổ trong "Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời
nào?" thì cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương .Văn
Đa cư sĩ Nguyễn Văn Sang lại cho rằng chữ Nôm có từ

thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỉ 2. Nguyễn Văn
Tố dựa vào hai chữ "bố cái" trong danh xưng "Bố Cái đại
vương" do nhân dân Việt Nam suy tôn Phùng Hưng mà
cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ 8. Ý
kiến khác lại dựa vào chữ "cồ" trong quốc hiệu “Đại Cồ
Việt" để cho rằng chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng .
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả căn cứ vào đặc
điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng
Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán
Việt đã đi tới kết luận rằng âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ
Hán) ngày nay bắt nguồn từ thời nhà Đường-nhà Tống thế kỷ 8-9. Và
nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời
trước khi cố định cách đọc Hán Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ
thống văn tự) và chỉ có thể ra đời sau khoảng thể kỷ thứ 10 khi người
Việt thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô
Quyền vào năm 938 .
Bước sang thời kỳ tự chủ bắt đầu vào thế kỷ 10 chữ Nôm được hoàn
chỉnh dần và mãi đến thế kỷ 13-15 mới phát triển mạnh mẽ trong văn
chương .
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Trước thế kỷ 15:Một số di tích còn lưu lại dấu vết chữ
Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngoài vài
văn bia. Tuy nhiên có thuyết cho rằng một tác phẩm quan
trọng là tập Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh đã
ra đời vào thời nhà lý khoảng thế kỷ 12.
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM

B. Quá Trình Phát Triển
B. Quá Trình Phát Triển
Thế kỷ 15-17
Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là
thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt. Một số là trước tác cảm
hứng riêng như:Quốc âm thi tập ( Nguyễn Trãi), Hồng
Đức Quốc âm thi tập (Lê Thánh Tông), Bạch Vân âm thi
tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Thế kỷ 18-19
Thơ Hàn luật của những thế kỷ kế tiếp càng uyển
chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ
của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan. Ngược
lại thể thơ dài như Ai tư vãn của Ngọc Hân công
chúa cùng thể song thất lục bát trong Chinh phụ
ngâm của Đoàn Thị Điểm lưu danh những nữ sĩ biệt tài
thời trước. Riêng Chinh phụ ngâm được xem là một tuyệt
tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho.
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Thế kỷ 19-20
Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi
ca theo thể hát nói như của Nguyễn Khuyến,Chu Mạnh
Trinh, Tú Xương v.v. Những thể cũ song thất lục bát (Ai
tư vãn của Bắc Cung Hoàng Hậu) và lục bát (các truyện
Nôm) vẫn góp mặt song thêm vào đó là những
vở tuồng hoặc chèo dân gian cũng được soạn bằng chữ

Nôm như Kim Thạch kỳ duyên, Quan Âm Thị Kính…
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Câu cá mùa thu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Nguyễn Khuyến
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Thể loại chính :
1. THƠ NÔM “HÀN LUẬT”
Thơ Nôm “Hàn luật” (cải biến từ hai thể “thất ngôn tứ
tuyệt” và “thất ngôn bát cú” của thể thức thơ Đường) đã
xuất hiện từ thời sơ khai, có thể bắt đầu từ Hàn Thuyên.
Song ngày nay chỉ có thể nhận diện thể thơ này qua các tác
phẩm của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và hội thơ Tao
Đàn, và sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm.
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
蓮 花 
Liên hoa (Hoa sen)
 淋 洳 拯 洳 / 卒 和 洳
Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh
君 子 困 堪 / 特 所名

Quân tử khôn kham được thửa danh
洳 洳 香洳  / 店 月 洳洳洳洳  
Gió đưa hương, đêm nguyệt tạnh
貞 洳 晫洳  / 固 埃 爭 
Riêng làm của, có ai tranh
Nguyễn Trãi
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
2. THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT:
Là lối thơ viết bằng chữ Nôm theo Đường luật, có cả
những bài tuân thủ chặt chẽ theo Đường luật hoặc cả
những bài phá cách .
Lối thơ Đường luật Việt hóa này đã không được các thế hệ
thi nhân đời sau kế thừa và phát huy. Từ thế kỷ XVII trở đi
văn đàn Việt Nam hầu như vắng bóng các bài thơ Nôm
“phá cách” như vậy (trừ một số bài tương truyền là của Hồ
Xuân Hương, mang sắc thái trào phúng theo lối dân gian),
thay vào đó là những bài thơ chữ Nôm tuân thủ nghiêm
chỉnh cách luật thơ Đường
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Trích một khổ thơ mở đầu tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc (theo bản khắc
AB.26, năm 1902):
洳 洳 坦 常 欺 洳 洳

Nhẽ trời đất thường khi gió bụi
客 洳 紅 洳 洳 洳 洳

Khách má hồng nhiều nỗi truân chiên
洳 箕 深 瀋 層 洳


Xanh kia thăm thẳm tầng trên
洳 埃 洳 孕 朱 洳 洳 尼

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
(Nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn:
天 地 風 塵 . 紅 洳 多 洳 
Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
Du du bỉ thương hề, thùy tạo nhân)
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Tự Tình
Canh khuya văng vẳng tiếng canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vừng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Hồ Xuân Hương
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
Ngoài ra còn nhiều thể loại văn học chữ Nôm ở Việt Nam
như DIỄN CA LỊCH SỬ với Việt sử diễn âm ( 越 史 演 
音 ), Thiên Nam minh giám ( 天 南 明 監   ), TRUYỆN
NÔM với Truyện Kiều ( 翹 傳  ), Lục Vân. Tiên ( 陸雲
仙
II. THƠ NÔM

II. THƠ NÔM
Trích hai khổ đầu (4 câu) từ văn bản Truyện Kiều khắc in
năm 1871:
洳 洳 洳 洳 洳 些
Trăm năm trong cõi người ta
洳 才 洳 命 洳 洳 洳饒
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
洳 戈 沒 局 洳 洳
Trải qua một cuộc bể dâu
仍 調 洳 洳 洳 洳 洳 洳
Những điều trông thấy đã đau đớn lòng
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM
C. Sự kết thúc:
Chữ Nôm được dùng song song với chữ Hán cho đến thế
kỷ 16 khi các nhà truyền đạo phương Tây vào Việt Nam,
họ đã dùng kí tự La Tinh để phiên âm tiếng Việt, và
chữ Quốc ngữ dựa trên kí tự La tinh được hình thành.
-Sau khi chữ Quốc ngữ (dùng mẫu tự La tinh) được phổ
biến vào đầu thế kỷ 20, chữ Nôm dần dần mai một. Mất vị
trí là phương tiện ghi chép, chữ Nôm tàn lụi dần trong bối
cảnh tiến trình Âu hóa ngày càng mạnh ở Việt Nam và
kéo theo sự mai một của thơ Nôm
II. THƠ NÔM
II. THƠ NÔM

×