HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ THU QUYÊN
PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CñA
NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI ë VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ THU QUYÊN
PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CñA
NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI ë VIÖT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 62 38 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN CẢNH QUÝ
HÀ NỘI - 2015
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLLĐ
: Bộ luật lao động
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ LĐ-TB-XH
: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
LHQ
: Liên hợp quốc
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh
Luật BV, CS, GD trẻ em
: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
LHQ
: Liên hợp quốc
NCTN
: Người chưa thành niên
NCTNPT
: Người chưa thành niên phạm tội
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TPNCTN
: Tư pháp người chưa thành niên
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
TỚI ĐỀ TÀI
6
1.1.
Các công trình nghiên cứu liên quan tới pháp luật về quyền của
người chưa thành niên phạm tội
6
1.2.
Nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án
24
Chương 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
29
2.1.
Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về quyền của người chưa
thành niên phạm tội
29
2.2.
Nội dung, vai trò và các tiêu chí của pháp luật về quyền của
người chưa thành niên phạm tội
39
2.3.
Pháp luật quốc tế, pháp luật của một số quốc gia về quyền của
người chưa thành niên phạm tội và những giá trị có thể vận
dụng ở Việt Nam
53
Chương 3:
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
70
3.1.
Quá trình phát triển của pháp luật về quyền của người chưa
thành niên phạm tội ở Việt Nam
70
3.2.
Những thành tựu đạt được của pháp luật về quyền của người
chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay
81
3.3.
Những hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền của người chưa
thành niên phạm tội và nguyên nhân
99
Chương 4:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
115
4.1.
Các quan điểm hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa
thành niên phạm tội
115
4.2.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa thành
niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay
120
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
151
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu riêng của tôi.
Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào của các tác giả khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án
đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả
Vũ Thị Thu Quyên
LỜI CẢM ƠN 2
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 3
2.1. Mục đích của l uận án 3
2.2. Nhiệm vụ của luận án 3
3. Đối tượng và phạ m vi nghiên c ứu của luận án 3
4. Cơ sở lý luận và cá c phương pháp n ghiên cứu của l uận án 4
4.1. Cơ sở lý luận 4
4.2. Phương pháp ng hiên cứu 4
5. Đóng góp về m ặt khoa học của luận án 4
6. Ý nghĩa lý luận và th ực tiễn của luận á n 5
7. Kết cấu của luận án 5
Chương 1 TỔNG QU AN TÌNH HÌ NH NGHIÊN C ỨU LIÊN QUA N TỚI ĐỀ TÀI 6
1.1. CÁC CÔNG TRÌN H NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI P HÁP LUẬT V Ề QUYỀN CỦA NG ƯỜI CH ƯA THÀNH NIÊN P HẠM TỘI 6
1.1.1. Các công trình ngh iên cứu trong nước 6
1.1.1.1. Các công tr ình nghiên cứu pháp luật về quy ền của người chưa thành niên p hạm tội 6
1.1.1.2. Các công trình n ghiên cứu về đảm bả o và thực hiện pháp luật về quyề n của người chưa thà nh niên phạm tội 13
1.1.2. Các công trình ngh iên cứu ở nước ngoài 19
1.2. NHẬN XÉT VỀ CÁC CÔNG T RÌNH NGHIÊ N CỨU LIÊN Q UAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ N HỮNG VẤN ĐỀ TIẾP TỤ C ĐƯỢC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN 24
1.2.1. Nhận xét về các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án 24
1.2.2. Những nội dung được tiếp tục ng hiên cứu tr ong luận án 26
Chương 2 CƠ SỞ LÝ L UẬN CỦA P HÁP LUẬ T VỀ QUYỀN CỦA 28
2.1. KHÁI NIỆM VÀ Đ ẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 28
2.1.1. Khái niệm người chưa thành n iên phạm tội và quy ền của người chưa thà nh niên phạm tội 28
2.1.1.1. Khái niệm người chưa thà nh niên phạm tội 28
2.1.1.2. Khái niệm quyền c ủa người chưa thành niên phạ m tội 32
2.1.2. Khái niệm pháp luật về quy ền của người ch ưa thành niên phạ m tội 34
2.1.3. Đặc điểm của pháp luật về quy ền của người chưa thành n iên phạm tội 36
2.2. NỘI DUNG, VAI TRÒ VÀ CÁ C TIÊU CHÍ CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH N IÊN PHẠ M TỘI 38
2.2.1. Nội dung của phá p luật về quy ền của n gười chưa thành n iên phạm tội 38
2.2.1.1. Pháp luật về quyền c ủa NCTNPT trong c ác văn bản quy phạm pháp luật hình sự 38
2.2.1.2. Pháp luật về quyền c ủa NCTNPT trong c ác văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự 39
2.2.1.3. Pháp luật về quyền c ủa NCTNPT trong c ác văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án h ình sự 42
2.2.2. Vai trò của pháp luật về quy ền của NCTNP T 43
2.2.3. Các tiêu chí c ủa pháp luật về q uyền c ủa người chưa thành niê n phạm tộ i 46
2.3. PHÁP LUẬ T QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐ C GIA VỀ QUYỀ N CỦA NG ƯỜI CHƯA THÀN H NIÊN PHẠM TỘI VÀ NHỮNG GIÁ T RỊ CÓ THỂ VẬN DỤNG Ở VI ỆT NAM 52
2.3.1. Pháp luật quốc tế về quyền của người chưa thành niên phạm tội 52
2.3.2. Pháp luật của m ột số nước trên thế giới về quy ền của ng ười chưa thành niê n phạm tội 56
2.3.3. Những kinh ngh iệm trong phá p luật về quy ền của người ch ưa thành niên phạm tội ở các n ước có thể vậ n dụng vào pháp luậ t Việt Nam 64
Chương 3 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀTHỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM 69
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM 69
3.1.1. Pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội từ năm 1945 cho đế n trước Hiến phá p 1959 ra đờ i 69
3.1.2. Pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội từ năm 1959 đến trư ớc khi Hiế n pháp 1980 ra đời 71
3.1.3. Pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội từ khi có Hiến phá p 1980 đến trư ớc khi Hiến phá p 1992 ra đ ời 73
3.1.4. Pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội từ khi có Hiến phá p 1992 cho tớ i nay 77
3.2. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT Đ ƯỢC CỦA PH ÁP LUẬT VỀ QU YỀN CỦA N GƯỜI CHƯA THÀNH NI ÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY V À NGUYÊN NH ÂN 80
3.2.1. Pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội trong c ác văn bản quy phạm pháp luật hình sự 80
3.2.2. Pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội trong c ác văn bản quy phạm pháp luật tố tụng h ình sự 84
3.2.3. Pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội trong c ác văn bản quy phạm pháp luật về thi hà nh án hình sự 92
3.3.4. Nguyên nhâ n đạt được nh ững thành tựu của pháp luật về quy ền của ngườ i chưa thành niên phạ m tội ở Việt Nam hiệ n nay 97
3.3. NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬ P CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NGUYÊN NHÂN 98
3.3.1. Những hạn chế , bất cập của pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạ m tội 98
3.3.2. Nguyên nhâ n của những hạ n chế, bất cập tr ong các quy định của pháp luật về quy ền của người chưa thàn h niên phạm tội 108
Chương 4 QUAN ĐIỂ M VÀ GIẢI PHÁP HO ÀN THIỆN P HÁP LUẬT VỀ Q UYỀN CỦA NG ƯỜI CHƯA TH ÀNH NIÊN P HẠM TỘI Ở VI ỆT NAM 114
4.1. CÁC QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 114
4.1.1. Hoàn thiện phá p luật về quy ền của người ch ưa thành niê n phạm tội phải quán triệt các qua n điểm, chủ trư ơng của Đảng về quyền c ủa người chưa thành n iên 114
4.1.2. Hoàn thiện phá p luật về quy ền của người ch ưa thành niê n phạm tội phải đảm bảo y êu cầu của c uộc đấu tranh phòng c hống tội phạm nói chung và tội phạm đối vớ i người chưa thành n iên nói riêng 115
4.1.3. Hoàn thiện phá p luật về quy ền của người ch ưa thành niê n phạm tội phải đảm bảo tính thống nhấ t, đồng b ộ và khả thi 116
4.1.4. Hoàn thiện phá p luật về quy ền của người ch ưa thành niê n phạm tội phải phù hợp với cá c điều ước quốc tế mà Việ t Nam đã ký kết, p hê chuẩn, tham gia và tiếp thu c ó chọn lọc các kinh nghiệm n ước ngoài 118
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THI ỆN PHÁP L UẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA TH ÀNH NIÊN P HẠM TỘI Ở VIỆT NAM HIỆN N AY 119
4.2.1. Hoàn thiện m ột số quy phạ m pháp luật về quyền của người chưa thành niên p hạm tội trong pháp luật h ình sự 119
4.2.2. Hoàn thiện m ột số quy phạ m pháp luật về quyền của người chưa thành niên p hạm tội trong pháp luật tố tụn g hình sự 128
4.2.3. Hoàn thiện m ột số quy phạ m pháp luật về quyền c ủa người chưa thành niên p hạm tội trong pháp luật thi hà nh án hình s ự 138
4.2.4. Hoàn thiện m ột số quy phạ m pháp luật về quyền của người chưa thành niên p hạm tội trong c ác văn bản quy phạm ph áp luật khác 140
4.2.5. Nâng cao trình độ, năng lực của Đ ại biểu Quốc h ội trong xây dựng, hoàn thiện c ác quy phạm pháp luật về quyền c ủa người chưa thành niên phạ m tội 142
4.2.6. Nâng cao trình độ, năng lực của đội n gũ cán bộ, c ông chức soạn thả o các quy phạm phá p luật về quyền c ủa người chưa thà nh niên phạm tội 144
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH Đ Ã CÔNG BỐ CỦA TÁC GI Ả LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢ O 150
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Cảnh
Quý, Viện Nhà nước và Pháp luật - người Thầy đã định hướng nghiên cứu,
tận tình hướng dẫn và giúp tôi tháo gỡ những khó khăn trong suốt quá trình
làm luận án.
Trong suốt quá trình thực hiện luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình về chuyên môn của các Thầy, Cô, các Nhà khoa học của Viện Nhà
nước và Pháp luật. Bên cạnh đó, tôi cũng nhận được sự động viên, góp ý khoa
học của các Nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp. Bằng tình cảm chân thành
nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Nhà nước và Pháp luật, Ban Giám
đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Viện Nhà nước và Pháp luật, Ban
Quản lý đào tạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho tôi học tập và tham gia nghiên cứu để hoàn
thành luận án này.
Tôi xin gửi lời cám ơn từ trái tim mình tới gia đình, những người thân
và bạn bè đã luôn bên cạnh, yêu thương, khích lệ và ủng hộ tôi trong suốt thời
gian vừa qua.
Hà Nội, ngày tháng 4 năm 2015
Tác giả
Vũ Thị Thu Quyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) là hiện tượng tồn tại ở tất cả
các nước trên thế giới. Mọi quốc gia đều giải quyết vấn đề NCTNPT theo
những mức độ, cách thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, tập quán và
pháp luật của mỗi nước. Ở góc độ quyền con người, quyền của NCTNPT
được công nhận là quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Pháp luật về
quyền của NCTNPT là công cụ quan trọng để NCTNPT bảo vệ quyền ngay cả
khi các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi phạm tội, đồng thời là công cụ
hữu hiệu để ngăn chặn các chủ thể xâm phạm quyền của các đối tượng này
trong quá trình tố tụng.
Xuất phát từ quan điểm luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam nên trong Chiến lược
về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định
hướng 2020 chỉ rõ: “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền con
người, quyền tự do dân chủ của công dân” [7]. Đối với quyền của NCTNPT,
Đảng và Nhà nước có chính sách pháp luật phù hợp với mức độ hành vi, sự
phát triển về tâm, sinh lý và nhận thức của các đối tượng này, trong đó có
chính sách hình sự đối với NCTNPT.
Hiện nay ở Việt Nam, dưới góc độ lý luận pháp luật về quyền của
NCTNPT đã được nghiên cứu ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác. Tuy
nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, có
hệ thống về vấn đề này để làm nền tảng lý luận cho việc đánh giá thực trạng
pháp luật về quyền của NCTNPT.
Về mặt thực tiễn, từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em
(gọi tắt là Công ước quyền trẻ em) vào năm 1990, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã đạt được những thành tựu nhất định, theo hướng nội luật hóa các nguyên tắc
của Công ước quyền trẻ em vào pháp luật và thực tiễn quốc gia. Chính sách pháp
luật của nước ta từ trước tới nay đều hướng đến việc cải tạo NCTNPT thành
những công dân có ích cho xã hội. Hệ thống các văn bản pháp luật về giáo dục,
2
đối xử và bảo vệ các quyền hợp pháp của NCTNPT được ban hành tạo nên sự
hài hoà hơn với Công ước quyền trẻ em. Các văn bản pháp luật này, cùng với
các biện pháp đã được áp dụng trong thực tiễn góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chống vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên (NCTN), mặt khác tạo ra
cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền của NCTNPT.
Trong thời gian qua, Nhà nước tiếp tục quan tâm ghi nhận các quyền
của NCTNPT trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Những văn bản quy phạm pháp luật
này là cơ sở pháp lý quan trọng để NCTNPT được hưởng quyền, đồng thời đó
chính là các bảo đảm về mặt pháp lý yêu cầu các chủ thể có thẩm quyền phải
tiến hành nhằm đáp ứng việc hưởng quyền của NCTNPT. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, một số quy phạm pháp luật
về quyền của NCTNPT còn bất cập, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, thiếu thống
nhất, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, thiếu tính khả thi, lạc hậu, thậm
chí mâu thuẫn. Tất cả những điều này đã và đang làm cho một số trường hợp
NCTNPT không được hưởng quyền, lợi ích chính đáng của mình; bên cạnh
đó cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền của các đối tượng này còn chưa phù hợp,
gây khó khăn, cản trở quá trình thực thi pháp luật.
Thực trạng nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết nghiên cứu hoàn thiện hệ
thống các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT nhằm nâng cao hiệu
quả ngăn ngừa vi phạm quyền của các đối tượng này, đồng thời đảm bảo
NCTN vẫn được hưởng quyền khi tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư
cách là người phạm tội.
Đặc biệt, trong xu thế mở cửa hội nhập sâu với thế giới, Việt Nam đã
ký nhiều điều ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em trong đó có các quyền của
NCTNPT thì việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT rất
cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Pháp
luậ t về quyề n củ a ngư ờ i chư a thành niên phạ m tộ i ở Việ t Nam” để nghiên
cứu viết luận án tiến sĩ Luật học.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mụ c đích củ a luậ n án
Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất
các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của
NCTNPT ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệ m vụ củ a luậ n án
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ:
Một là, phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
và rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu;
Hai là, xây dựng các khái niệm: NCTNPT; quyền của NCTNPT; pháp
luật về quyền của NCTNPT; làm rõ đặc điểm, nội dung, vai trò và tiêu chí
đánh giá pháp luật về quyền của NCTNPT; khái quát hóa các quy định pháp
luật của quốc tế và một số quốc gia về quyền của NCTNPT; làm rõ sự tương
thích của pháp luật quốc gia - quốc tế về pháp luật về quyền của NCTNPT;
Ba là, khái quát pháp luật về quyền của NCTNPT từ năm 1945 đến
nay; đánh giá khách quan thực trạng pháp luật về quyền của NCTNPT ở nước
ta trong thời gian qua, nêu lên những thành tựu và hạn chế, từ đó rút ra
nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm qua thực tiễn làm cơ sở cho việc
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này;
Bốn là, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận án xây dựng một số quan
điểm và đề xuất những giải pháp cơ bản, có tính khả thi, phù hợp với thông lệ
quốc tế nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, thực tiễn và
quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam.
Dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật, phạm vi nghiên cứu của
luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về quyền của
NCTNPT với tư cách là người thực hiện hành vi phạm tội, tham gia tố tụng
với tư cách là bị can, bị cáo, người thi hành án hình sự (theo nghĩa rộng được
4
chỉ ra ở chương 2). Trong luận án này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, đánh
giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT từ năm
2004 đến năm 2014 (thời điểm BLTTHS 2003 có hiệu lực).
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luậ n
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về nhà nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, những
quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền của NCTNPT.
4.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
và kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lịch sử được sử dụng ở các chương
của luận án nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực
trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của
NCTNPT.
- Phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng để đánh giá quá
trình phát triển, thực trạng pháp luật về quyền của NCTNPT.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh pháp luật cũng được sử
dụng trong việc xác định quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
của NCTNPT có tính đến kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này.
5. Đóng góp về mặt khoa học của luận án
Đây là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ nghiên cứu vấn đề
pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam hiện nay.
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện
các vấn đề lý luận đối với vấn đề pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt
Nam; xây dựng khái niệm NCTNPT, quyền của NCTNPT, pháp luật về quyền
của NCTNPT, phân tích nội hàm các khái niệm này.
5
Luận án đưa ra và phân tích những đặc điểm, nội dung, vai trò và tiêu chí
của pháp luật về quyền của NCTNPT. Luận án đã khái quát hóa một số quy định
pháp luật mang tính điển hình của quốc tế và một số quốc gia, đồng thời chỉ ra
những kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam.
Luận án đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về quyền của
NCTNPT, qua đó thấy được những nội dung tích cực cũng như phát hiện
những mâu thuẫn, sự không tương thích và bất cập trong một số quy định của
pháp luật về quyền của NCTNPT.
Luận án đã xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp mang tính
toàn diện hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc thực thi pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền của NCTN khi họ
phạm tội. Những giải pháp luận án đưa ra có tính mới, có cơ sở khoa học, góp
phần giải quyết những bất cập trong pháp luật về quyền của NCTNPT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý
luận của pháp luật về quyền của NCTNPT và việc hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
- Về thực tiễn: Luận án góp thêm những thông tin có giá trị giúp các
nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp, các cán bộ làm công tác nghiên
cứu, giảng dạy cũng như những người làm công tác áp dụng pháp luật có cách
nhìn sâu sắc, toàn diện hơn đối với pháp luật về quyền của NCTNPT; trên cơ
sở đó có những đóng góp tích cực nhằm tăng cường cơ sở pháp lý đối với
việc thực thi pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm nghiên cứu, làm công tác thực tiễn, thực thi pháp luật
về NCTN nói chung, NCTNPT nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm có 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứ u pháp luậ t về quyề n củ a ngư ờ i chư a
thành niên phạ m tộ i
Ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và toàn diện
pháp luật về quyền NCTNPT mà chỉ có những nghiên cứu liên quan đến pháp
luật về NCTNPT ở những khía cạnh cụ thể.
Về các sách đã xuất bản có thể kể đến cuốn sách Tư pháp với người chưa
thành niên và quyền trẻ em [5]. Cuốn sách này biên soạn cho cán bộ làm công tác
trên lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cũng như tất cả những ai quan
tâm đến vấn đề trẻ em, quyền của trẻ em. Nội dung của cuốn sách phân tích một
số văn bản quốc tế và Việt Nam có liên quan trực tiếp đến việc áp dụng pháp luật
đối với NCTN vi phạm pháp luật và thực tiễn bảo vệ, thực hiện quyền trẻ em theo
tinh thần của Công ước quyền trẻ em. Tại chương 2, trình bày khái quát pháp luật
Việt Nam với trẻ em làm trái pháp luật để làm căn cứ “tiến tới hài hoà hệ thống tư
pháp với NCTN ở Việt Nam với Công ước của LHQ về quyền trẻ em” trong
chương 3 của cuốn sách.
Nguyễn Văn Thông có cuốn Toà án và quyền trẻ em [65]. Cuốn sách
phân tích những chế định cơ bản của pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em trong
các vụ án dân sự, lao động, hành chính, hình sự, và cung cấp thông tin về một
số tội vi phạm quyền và lợi ích của trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 3 đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật bảo vệ quyền trẻ em.
Quyền trẻ em [82] là cuốn tài liệu tập huấn đã chỉ ra mối quan hệ giữa
quyền trẻ em với quyền con người và cơ sở của việc bảo vệ quyền trẻ em
7
chính là bảo vệ quyền con người của trẻ em. Đặc biệt tài liệu này đã trực tiếp
đề cập đến quyền của trẻ em trong pháp luật quốc tế và Việt Nam. Quyền trẻ
em trong pháp luật Việt Nam được đề cập một cách trực diện trên tất cả các
lĩnh vực. Tài liệu này cũng cung cấp những thông tin cơ bản về việc thực hiện
quyền của trẻ em ở Việt Nam, hướng dẫn gợi mở các phương pháp tiếp cận,
nâng cao năng lực trong việc tổ chức thực hiện bảo vệ quyền trẻ em ở nước ta.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về quyền phụ nữ và trẻ em [84] là tài
liệu tập huấn cho cán bộ ngành Toà án, đồng thời là sổ tay giúp người trực
tiếp làm việc có liên quan đến quyền trẻ với mục đích nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho những người làm công tác có liên quan đến quyền trẻ em. Nội
dung của cuốn sách, một mặt tổng hợp các quy phạm pháp luật hiện hành có
liên quan đến quyền trẻ em, mặt khác hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết loại án
liên quan đến quyền của nhóm đối tượng này.
Cuốn sách Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lý quốc
tế và Việt Nam [83] đã khái quát những vấn đề cơ bản về quyền con người nói
chung, quyền trẻ em nói riêng trong pháp luật quốc gia và quốc tế cho cán bộ
công tác trong lĩnh vực này, đặc biệt cho các đại biểu Quốc hội - những người
trực tiếp hoạt động lập pháp. Các tác giả nêu khái quát về vấn đề quyền trẻ em
trong các văn bản pháp luật. Đồng thời cuốn sách cũng trình bày đầy đủ các
điều ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đây
chính là một trong những tài liệu tham khảo bổ ích, qua đó giúp cho chúng ta
có bức tranh toàn cảnh về pháp luật thực định đối với vấn đề quyền trẻ em.
Một số thuật ngữ và nguyên tắc cơ bản về tư pháp người chưa thành
niên [91] là tài liệu cung cấp các thuật ngữ cơ bản về tư pháp đối với NCTN
được sử dụng trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Các thuật ngữ, khái niệm
được biên soạn dựa theo pháp luật Việt Nam. Phần thứ hai của cuốn tài liệu
cung cấp các kiến thức cơ bản nhất về các văn kiện pháp luật quốc tế về
TPNCTN. Áp dụng pháp luật với NCTN là một chủ đề được đề cập trong
nhiều tiêu chuẩn quốc tế. Các tiêu chuẩn này đề cập đến một phạm vi rộng và
phức tạp các vấn đề từ phòng ngừa đến can thiệp sớm, xét xử, các điều kiện
8
giam giữ và tái hòa nhập xã hội. Phần thứ ba là các nguyên tắc cơ bản về
TPNCTN. Trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc tế nêu trên, hệ thống
TPNCTN ở Việt Nam cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản nhằm đảm bảo tính
tương thích với luật pháp quốc tế.
Cuốn sách Đánh giá tính tương thích các điều khoản của Bộ luật tố tụng
hình sự về người vi phạm pháp luật hình sự, người bị hại, người làm chứng là
người chưa thành niên với các chuẩn mực quốc tế [106], trình bày kết quả
nghiên cứu các điều khoản của BLTTHS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
quy định các vấn đề liên quan đến người vi phạm pháp luật hình sự và người
bị hại, người làm chứng là NCTN, so sánh với các chuẩn mực quốc tế về tư
pháp với trẻ em nhằm đánh giá mức độ tương thích giữa các quy định hiện
hành của Việt Nam với chuẩn mực quốc tế, cũng như đánh giá việc thực hiện
các quy định này trên thực tế. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, báo cáo đưa
ra kết luận và khuyến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định hình sự hiện hành
nhằm đảm bảo tính tương thích với Công ước quyền trẻ em cũng như các
chuẩn mực và thông lệ quốc tế có liên quan đến vấn đề quyền trẻ em.
Đề tài Nghiên cứu, đánh giá, phân tích tình hình người chưa thành niên vi
phạm pháp luật và hệ thống xử lý tại Việt Nam [110] là một trong 7 tiểu dự án
trong chương trình hợp tác tổng thể của Dự án Bảo vệ trẻ em được nghiên cứu
dưới dạng một đề tài khoa học. Mục tiêu chính của đề tài là nhằm cải thiện
khung pháp luật, chính sách về NCTN vi phạm pháp luật, nâng cao nhận thức và
tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc với các đối tượng;
tăng cường chăm sóc về tâm lý xã hội cho NCTN vi phạm pháp luật. Nghiên
cứu đi sâu đánh giá, phân tích tình trạng NCTN vi phạm pháp luật và hệ thống
xử lý NCTN vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay nhằm góp phần hoàn thiện
chính sách, pháp luật về đối tượng này. Đề tài tập trung nghiên cứu về NCTN vi
phạm pháp luật bị xử lý hành chính bằng hai biện pháp là đưa vào trường giáo
dưỡng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn; về NCTN vi phạm pháp bị xử lý về
hình sự cũng chủ yếu nghiên cứu hình phạt tù và các biện pháp tư pháp. Tập thể
tác giả đã minh hoạ bức tranh toàn cảnh, sinh động về NCTN vi phạm pháp luật
9
ở Việt Nam, tuy nhiên những vấn đề của pháp luật về quyền của NCTNPT trong
đề tài này chưa đưa ra được cơ sở lý luận cũng như những yêu cầu cần thiết liên
quan đến nội dung của pháp luật về quyền của NCTNPT.
Bên cạnh đó có dự án Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người
chưa thành niên tại Việt Nam [109] của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tổ chức và hoạt
động tư pháp, vận dụng quan niệm có tính hướng dẫn của LHQ trong Quy tắc
Bắc Kinh, Dự án này đã tập trung phân tích, đối chiếu các chuẩn mực quốc tế
về tư pháp đối với NCTN trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia với thực tiễn lập pháp và thi hành pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực
này. Trên cơ sở đó, Dự án đã đưa ra đánh giá tổng hợp về sự hài hoà giữa
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp về NCTN;
những ưu điểm và hạn chế của hệ thống TPNCTN ở Việt Nam. Đồng thời, Dự
án đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống
TPNCTN ở Việt Nam. Dự án chỉ rõ, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật của
Nhà nước ta đối với NCTN vi phạm pháp luật tập trung chủ yếu vào việc
hoàn thiện ba yếu tố, đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức,
bộ máy của các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ, viên chức tư pháp, đảm
bảo sự vận hành đúng đắn của từng mắt xích và những phương thức phối, kết
hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các mắt xích trong cả hệ thống đó.
Đề tài Hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố và xét xử
người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
[105], trên cơ sở phân tích về mặt lý luận về thủ tục tố tụng đối với NCTNPT
cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2003 liên quan đến thủ tục tố tụng xử lý NCTNPT trong thời
gian qua, đề tài đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định của BLTTHS về
thủ tục điều tra, truy tố và xét xử NCTNPT nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả áp dụng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Về luận án tiến sĩ, có luận án nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về thủ tục đối với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
10
[43]. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu trực diện về đề tài này ở cấp độ tiến sĩ.
Luận án đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với
NCTNPT trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Công trình khoa học này đã chỉ ra
những đặc điểm của thủ tục tố tụng hình sự áp dụng đối với NCTNPT; chỉ ra mục
đích của việc đặt ra các quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTNPT; phân tích
thực trạng pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng trong các vụ án có NCTN là
bị can, bị cáo, đồng thời phân tích thực tiễn thực thi các thủ tục tố tụng này đối với
các vụ án có NCTN là bị can, bị cáo, từ đó chỉ ra những hạn chế bất cập trong
pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục của những vụ án này. Trên những cơ sở đó,
tác giả đã đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, chính sách,
cơ chế liên quan đến thủ tục tố tụng trong các vụ án có NCTN là bị can, bị cáo.
Về luận văn thạc sỹ, trên phương diện Luật hình sự, các nghiên cứu tập
trung vào các loại, mức trách nhiệm hình sự áp dụng với NCTNPT. Luận văn
Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam [44] và luận văn Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm
tội trong luật hình sự Việt Nam [18] đều có chung phần lớn đối tượng nghiên
cứu, dù có cách tiếp cận khác nhau: các quy định về trách nhiệm hình sự - các
quy định về hình phạt. Các luận văn này cũng đã chỉ ra được cơ sở lý luận và
thực tiễn của pháp luật hình sự về chính sách hình sự đối với NCTNPT. Trong
đó đã phân tích các loại hình phạt, các biện pháp tư pháp được quy định trong
BLHS và chỉ ra sự phù hợp giữa tính chất của các loại hình phạt, biện pháp tư
pháp với yêu cầu trừng phạt và giáo dục, cải tạo đối với NCTNPT; đã đưa ra
những nhận định trên phương diện lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự
đối với NCTNPT.
Không chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự,
luận văn thạc sỹ Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay
[66], xác định cụ thể vai trò của pháp luật đối với việc thực hiện quyền trẻ em.
Trong đó, tác giả đã đề cập đến vai trò của pháp luật đối với việc bảo vệ trẻ
em vi phạm pháp luật; đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền trẻ
em, những hạn chế về pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em. Từ
11
các vấn đề nêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về quyền trẻ em ở Việt Nam.
Trong số các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý, có một số sách
chuyên khảo dưới dạng bình luận khoa học BLHS, BLTTHS như cuốn Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 [107], cuốn Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự tố tụng hình sự năm 2003 [115]. Trong các cuốn bình luận khoa
học này, đường lối xử lý, chính sách hình sự, thủ tục TTHS đối với NCTNPT
cũng được quan tâm nghiên cứu và đưa ra những bình luận khoa học mà nội
dung tương đối thống nhất, đó là giải thích các điều khoản Chương X BLHS
và Chương XXXII BLTTHS, mà không đánh giá nhiều về tính phù hợp của
pháp luật với các vấn đề lý luận về TPNCTNPT, sự tương tác giữa pháp luật
với thực tiễn tình hình tội phạm, không đưa ra những số liệu, những vụ án,
những trường hợp nổi cộm trong thực tiễn tư pháp để bình luận, không so
sánh các quy định về đường lối xử lý, chính sách hình sự, thủ tục TTHS đối
với NCTNPT trong pháp luật Việt Nam so với pháp luật nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa thành niên [62] đã chỉ ra thực
trạng pháp luật về xử lý NCTN vi phạm pháp luật, trong đó nêu rõ nguyên tắc
xử lý, hệ thống biện pháp xử lý chính thức theo pháp luật Việt Nam. Từ đó,
tác giả kiến nghị 7 vấn đề hoàn thiện luật pháp, chính sách xử lý đối với
NCTN vi phạm pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên
vi phạm pháp luật [99] đã phân tích bản chất, tính ưu việt của việc xử lý chuyển
hướng và các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế và khẳng định, việc áp dụng xử lý
chuyển hướng đối với NCTN vi phạm pháp luật có những điểm ưu việt nổi trội so
với việc áp dụng các chế tài chính thức trong quy định của pháp luật. Tác giả cũng
chỉ ra thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng xử lý chuyển hướng đối với
NCTN vi phạm pháp luật ở nước ta. Trên cơ sở đó, đã đánh giá và đưa ra một số
kiến nghị trong việc thực hiện xử lý chuyển hướng đối với NCTN vi phạm pháp
luật ở Việt Nam.
12
Bài viết Hệ thống điều tra thân thiện với người chưa thành niên [31] đã
hệ thống lại các chuẩn mực quốc tế về điều tra thân thiện - điều tra nhạy cảm
và so sánh các chuẩn mực đó với việc quy định và thực hiện các quy định của
TTHS về hoạt động điều tra, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp cưỡng
chế khác được áp dụng trong vụ án NCTNPT của pháp luật Việt Nam. Để bảo
đảm quyền của NCTNPT, tác giả cũng đã đưa ra các quan điểm cá nhân ở
mức độ những ý tưởng ban đầu mang tính gợi mở về các giải pháp nâng cao
hiệu quả hệ thống điều tra thân thiện như: hoàn thiện pháp luật, xây dựng quá
trình điều tra, xử lý các vụ việc liên quan đến NCTNPT theo hướng thân
thiện, xây dựng môi trường thân thiện với NCTNPT trong quá trình điều tra,
nâng cao năng lực Cơ quan điều tra trong việc giải quyết các vụ án liên quan
đến NCTNPT, tăng cường thanh tra, giám sát các hoạt động điều tra liên quan
đến NCTNPT.
Pháp luật Việt Nam với việc đáp ứng các yêu cầu quốc tế về thủ tục tố
tụng xét xử đối với người chưa thành niên [68] đi sâu phân tích những yêu
cầu cơ bản của quốc tế về thủ tục tố tụng xét xử đối với NCTN và cả NCTN
là người bị hại, người làm chứng trong vụ án hình sự. Tác giả cũng trình bày
khái quát pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng xét xử đối với NCTN đồng
thời đối chiếu với pháp luật quốc tế. Trong phần ba của bài viết, tác giả đề
xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng xét xử đối với
NCTN tạo môi trường xét xử thân thiện, đáp ứng những yêu cầu bảo vệ, thúc
đẩy các quyền của trẻ em và NCTN theo các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam
đã cam kết và phê chuẩn.
Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp
luật [26] đã chỉ ra rằng, NCTN vi phạm pháp luật bị áp dụng các chế tài,
trong đó có những chế tài phải cách ly môi trường hoạt động bình thường của
xã hội, chịu sự quản lý, giám sát của các cơ sở có thẩm quyền, khi quay về
với gia đình, cộng đồng thì Nhà nước có những chính sách tái hòa nhập xã hội
phù hợp để các đối tượng này trở thành công dân có ích cho xã hội. Thực tiễn
công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với NCTN vi phạm pháp luật ở nước ta
13
còn nhiều bất cập, mâu thuẫn và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế đã được
tác giả chỉ ra sinh động, cụ thể. Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho
NCTN vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng theo tác giả, phải có những
quy định cụ thể, đầy đủ, phù hợp, đồng thời phải có cơ chế phối hợp giữa các
chủ thể trong việc thực thi vấn đề này.
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội [58] đã khắc
họa rõ nét chính sách hình sự - chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta
dành cho NCTNPT kể cả khi các đối tượng này vi phạm pháp luật hình sự. Bài
viết cũng cho thấy, mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với NCTN vi phạm
pháp luật hình sự là nhằm giáo dục, giúp đỡ những đối tượng này sửa chữa sai
lầm, có cơ hội để phát triển và trở thành công dân có ích cho xã hội. Với mục đích
đó, việc xử lý và áp dụng biện pháp hình sự đối với NCTNPT phải tuân thủ theo
những nguyên tắc dành riêng cho họ được quy định trong BLHS và các quy định
khác của hệ thống pháp luật.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứ u về đả m bả o và thự c hiệ n pháp luậ t
về quyề n củ a ngư ờ i chư a thành niên phạ m tộ i
Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về đảm bảo và thực hiện pháp luật
về quyền của NCTNPT có thể kể đến:
Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội – Trách nhiệm của gia đình, nhà
trường và xã hội [118] đã phân tích, đánh giá những vấn đề về phòng ngừa
NCTNPT. Trên cơ sở đó, các tác giả cũng đặt ra những yêu cầu đối với việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về NCTNPT và những bảo đảm để
quyền của NCTNPT được thi thi trên thực tế.
Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt
Nam [67] tuy không đề cập cụ thể đến việc bảo đảm quyền của NCTNPT
nhưng đã tiếp cận quyền con người trong phạm vi hẹp và liên quan nhiều hơn
đến lĩnh vực nghiên cứu của luận án: quyền con người trong pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự.
14
Hoạt động của Radda Barnen vì trẻ em làm trái pháp luật, người chưa
thành niên phạm pháp [79] đã khái quát hoạt động của Tổ chức Cứu trợ trẻ
em Thuỵ Điển, thông qua các chương trình điều tra, nghiên cứu trong lĩnh vực
công tác với trẻ em làm trái pháp luật ở nhiều cấp độ khác nhau. Nhóm tác giả
đã trình bày khá ngắn gọn và đa dạng về hoàn cảnh xô đẩy trẻ em sa vào vòng
tội lỗi hoặc bị đẩy vào vòng tội lỗi, qua đó đề cao ý tưởng về sự phòng ngừa
hơn là những biện pháp xử phạt, kêu gọi sự trợ giúp của xã hội chung tay
cùng giải quyết vấn đề trẻ em làm trái pháp luật hơn là sự thẳng tay trừng trị.
Tài liệu chỉ rõ, pháp luật của quốc gia phải đảm bảo sự an toàn và an sinh cho
trẻ em phù hợp với Công ước quyền trẻ em, ngay cả khi các em là người có
hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý theo các định chế pháp luật.
Kỷ yếu hội thảo khoa học Vấn đề chế tài xử lý các hành vi vi phạm
quyền trẻ em; việc xử lý đối với trẻ em vi phạm pháp luật; trách nhiệm của
gia đình, xã hội trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em [88] tập
hợp các bài viết về nhiều vấn đề liên quan đến trẻ em, trẻ em vi phạm pháp
luật, cách thức xử lý vi phạm pháp luật của trẻ em, trách nhiệm của các chủ
thể trong xã hội đối với vấn đề thực hiện quyền trẻ em của những nhà nghiên
cứu, người làm công tác thực tiễn về các vấn đề nêu trên. Trong các nội dung
đó, các tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng tình hình trẻ em vi phạm
pháp luật hành chính, hình sự, những trẻ em là đối tượng vi phạm pháp luật;
đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của trẻ em trong các thủ tục xử lý
trẻ em vi phạm pháp luật.
Sự phát triển của trẻ em và hành vi vi phạm pháp của người chưa thành
niên [94] cung cấp thông tin về sự phát triển của NCTN, một số đặc điểm
phát triển sinh lý, thể chất và đặc điểm tâm lý khác biệt với người đã thành
niên. Thông qua việc hiểu rõ sự phát triển về sinh lý, thể chất, nhận thức, tình
cảm, năng lực, kỹ năng giao tiếp xã hội của trẻ em và NCTN, chúng ta có thể
hiểu rõ hơn nguyên nhân đã dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của các em để
đưa ra những ý kiến đúng đắn hơn về việc nên xử lý NCTN vi phạm pháp luật
và có các quyết định sáng suốt hơn về các hình thức can thiệp có thể sẽ có
15
hiệu quả đối với các em. Tài liệu chỉ ra rằng, trong những năm gần đây có
một số lượng đáng kể các nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm hiểu rõ hơn
những yếu tố tác động đến tình trạng phạm pháp của NCTN, những giải pháp
có hiệu quả nhất giúp ngăn chặn tình trạng phạm pháp của NCTN, và những
hoạt động cụ thể để phòng ngừa NCTN đã có hành vi vi phạm pháp luật
không tiếp tục vi phạm pháp luật nữa.
Tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam [95] đã
chỉ ra tính chất, mức độ nghiêm trọng của loại hành vi vi phạm cũng như các
biện pháp xử lý đối với NCTN vi phạm pháp luật; xác định được các yếu tố
nguy cơ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật ở NCTN. Đây là căn cứ giúp
người làm công tác thực tiễn có cái nhìn khái quát về thực trạng pháp luật
nước ta đối với vấn đề xử lý NCTN vi phạm pháp luật; đồng thời khắc phục
được những nguyên nhân tiềm ẩn của hành vi vi phạm pháp luật ở NCTN.
Tài liệu Tư pháp phục hồi và xử lý theo hướng không giam giữ [96]
nghiên cứu khái niệm tư pháp phục hồi và xử lý theo hướng không giam giữ,
trên cơ sở các nguyên tắc và các quyền được quy định trong Công ước quyền
trẻ em. Tư pháp phục hồi là biện pháp phản ứng hiệu quả nhất đối với NCTN
vi phạm pháp luật nhằm buộc họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của
mình, theo cách thức tạo điều kiện cho các em tái hoà nhập cộng đồng một
cách thuận lợi, đồng thời làm cho NCTN không có cảm giác bị cô lập và miệt
thị. “Xử lý theo hướng không giam giữ” là một thủ tục thay thế để xử lý
NCTN phạm pháp theo cách không chính thức, ngoài hệ thống tư pháp chính
thống. Nó đề cập đến việc chuyển hoặc đưa người chưa thành niên ra khỏi hệ
thống tư pháp chính thức, theo nghĩa đen, để xử lý theo một thủ tục thay thế,
dựa vào cộng đồng. Trong quá trình này, xử lý theo hướng không giam giữ có
thể lôi kéo sự tham gia của một số thành tố tư pháp phục hồi, tuỳ thuộc vào
tính chất của việc xử lý theo hướng không giam giữ.
Người chưa thành niên và công an [92] là tài liệu tập huấn, đã chỉ ra
rằng, lần tiếp xúc đầu tiên của NCTN với hệ thống TPNCTN thường là lúc
các em bị công an hoặc cơ quan điều tra khác bắt giữ. Sự tiếp xúc ban đầu này
16
sẽ có tác động hết sức lâu dài đối với NCTN và có thể sẽ có ảnh hưởng sâu
sắc đến thái độ của họ đối với cán bộ nhà nước cũng như nguyên tắc nhà nước
pháp quyền. Bắt, tạm giữ và tạm giam là những biện pháp ngăn chặn nghiêm
khắc nhất có thể được áp dụng đối với một NCTN bị tố cáo là đã vi phạm
pháp luật hoặc thực hiện một tội phạm. Các biện pháp này được thừa nhận
rộng rãi là không có lợi cho NCTNPT vì chúng cách ly các em khỏi gia đình,
đặt các em trước nguy cơ bị lạm dụng về thể chất và bị ảnh hưởng bởi những
thói hư, tật xấu từ những người cùng bị giam giữ khác, đồng thời cản trở các
em thực hiện các quyền khác như quyền học hành, quyền được chăm sóc y tế.
Giải quyết vi phạm pháp luật của người chưa thành niên [90] quan tâm
đến vấn đề NCTN phải tham gia vào các thủ tục tố tụng của toà án hoặc một
hình thức xử lý khác do bị tố cáo là đã vi phạm pháp luật. Sự việc này xảy ra
vào thời điểm mà NCTN vốn rất dễ bị tổn thương cần được giúp đỡ và hướng
dẫn. Các thủ tục tố tụng và kỹ năng đặc biệt là hết sức quan trọng để bảo đảm
cho NCTN vi phạm pháp luật được đối xử một cách công bằng, được tạo cơ
hội và hướng dẫn để chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, và được tạo
cơ hội thứ hai để tránh mắc phải những sai phạm như vậy trong tương lai, có
thể phát triển thành những công dân có ích cho xã hội. NCTN bị coi là hay bị
tố cáo là đã vi phạm pháp luật có quyền được đối xử theo cách thức phù hợp.
Áp dụng các chế tài hành chính và hình sự đối với người chưa thành niên vi
phạm pháp luật [89] đã chỉ ra rằng một trong những nội dung chính để phân
biệt giữa hệ thống tư pháp về NCTN với hệ thống tư pháp dành cho người đã
thành niên. Tài liệu chỉ rõ: Mục đích của việc áp dụng chế tài; Nguyên tắc
tương xứng trong áp dụng chế tài đối với NCTN vi phạm pháp luật; Áp dụng
các biện pháp tước tự do ở mức tối thiểu đối với NCTN; Các giải pháp thay
thế cho việc áp dụng các biện pháp tước tự do (đưa vào cơ sở quản lý tập
trung đối với NCTN); Cải tiến việc áp dụng chế tài hành chính và hình sự đối
với người NCTN vi phạm pháp luật.
Phục hồi và các dịch vụ hỗ trợ cho người chưa thành niên vi phạm pháp
luật [93] cho thấy việc cung cấp các dịch vụ giám sát và hỗ trợ tại cộng đồng
17
cho NCTN vi phạm pháp luật là một cách tiếp cận hiệu quả hơn nhiều so với
các nỗ lực cải tạo các em trong trường giáo dưỡng, các cơ sở giam giữ hoặc
cơ sở tập trung khác. Tài liệu này nghiên cứu các loại hình dịch vụ hỗ trợ có
thể được cung cấp cho NCTN để thúc đẩy sự phục hồi và tái hoà nhập của các
em nhằm ngăn ngừa các em tái phạm.
Luật pháp và thuật ngữ quốc tế liên quan đến điều tra trẻ em và người
chưa thành niên [30] là một trong những tài liệu của Chương trình tập huấn
cho lực lượng công an về điều tra thân thiện đối với NCTN vi phạm pháp luật,
nạn nhân và nhân chứng trẻ em. Tài liệu chỉ ra: luật pháp, các tiêu chuẩn liên
quan tới công tác điều tra của các vụ án liên quan tới nghi phạm và nạn nhân
trẻ em và NCTN; khái niệm cơ bản trong các tiêu chuẩn quốc tế về điều tra
các vụ án liên quan tới phạm nhân và nạn nhân trẻ em và NCTN; các tiêu
chuẩn quốc tế liên quan tới các hoạt động nhạy cảm với trẻ em trong quá trình
điều tra các tội danh liên quan tới trẻ em và NCTN.
Trợ giúp pháp lý và đại diện cho người chưa thành niên gặp xung đột
với pháp luật, nạn nhân trẻ em và nhân chứng trẻ em [29] là cuốn cẩm nang
dành cho những người hành nghề luật tại Việt Nam. Nội dung chỉ rõ, những
người hành nghề luật có vai trò quan trọng trong bảo vệ các quyền của trẻ em
thông qua việc đại diện cho trẻ em trong các tiến trình tố tụng, cũng như cung
cấp thông tin và tư vấn pháp lý cho trẻ em. Cuốn sổ tay bao gồm 6 phần: Mô
tả nội dung của các tiêu chuẩn quốc tế về TPNCTN và vai trò của các chuyên
gia pháp lý trong hệ thống tư pháp; Trình bày về trẻ em và NCTN dễ bị tổn
thương và có nguy cơ trở thành nạn nhân; Mô tả các nhu cầu của trẻ em và
NCTN bị khởi tố hoặc kết án về các hành vi vi phạm pháp luật, những vấn đề
mà các em gặp phải khi xung đột với hệ thống tư pháp hình sự, cũng như các
hình thức trợ giúp pháp lý mà các em cần trong bối cảnh đó; Xem xét các trường
hợp trẻ em và NCTN bị lạm dụng, bị khai thác hoặc trở thành nạn nhân của tội
phạm và các hình thức trợ giúp pháp lý mà nhóm các em này có thể cần đến;
Xem xét các trường hợp trẻ em là nhân chứng của tội phạm mà theo yêu cầu của
18
pháp luật, các em phải hợp tác trong việc điều tra và truy tố tội phạm; Hướng
dẫn trình bày một số thực tiễn điển hình trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý và
đại diện pháp luật cho trẻ em và NCTN.
Về luận án tiến sĩ có đề tài Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự ở Việt Nam [64]. Luận án này đã xây dựng được khái niệm bảo
đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự, xác định các nội dung, đặc điểm bảo
đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự; khái quát hóa vấn đề bảo đảm quyền
của NCTN trong tố tụng hình sự Việt Nam và thế giới; làm rõ sự giao thoa pháp
luật quốc gia và quốc tế về bảo đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự; đồng
thời chỉ ra những bất cập, hạn chế của tư pháp hình sự Việt Nam trong việc bảo
đảm quyền của NCTN. Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền
của NCTN trong tố tụng hình sự, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật nhằm bảo đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự.
Về luận văn thạc sỹ có đề tài Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của
người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay [57]. Tác giả chỉ ra khái
niệm quyền của NCTNPT, pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT; đặc điểm,
nội dung pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT; phân tích, đánh giá thực
tiễn quy định của pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT, những tồn tại, bất
cập trong hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm quyền của NCTNPT. Từ cơ sở lý
luận và thực tiễn đó, luận văn xác định phương hướng, đề xuất nội dung cụ
thể hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT ở nước ta đáp ứng yêu
cầu của cuộc đấu tranh chống vi phạm pháp luật ở NCTN phù hợp với thông
lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn.
Bảo vệ quyền của NCTN trong tố tụng hình sự là một lĩnh vực của bảo
vệ quyền của NCTN và quyền trẻ em nói chung. Trong thời gian vừa qua, có
một số bài viết đã được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
nghiên cứu về các quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT. Bài viết Áp
dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên phạm tội [40] đã chỉ ra những bất cập trong các quy định về
độ tuổi, về vấn đề bảo đảm quyền bào chữa, về sự tham gia tố tụng của đại
19
diện gia đình, nhà trường và xã hội, đặc biệt là các bất cập trong việc quy định
các biện pháp bắt, tạm giữ NCTN và tạm giam bị can, bị cáo là NCTNPT. Bài
viết đã phân tích tính bất hợp lý trong một số quy định của pháp luật tố tụng
hình sự dẫn tới khó khăn cho việc áp dụng pháp luật và ảnh hưởng đến việc
bảo đảm quyền của NCTNPT trong tố tụng hình sự.
Yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng trong vụ án có người chưa thành
niên phạm tội [59] đã phân tích cụ thể về các yêu cầu của pháp luật đối với
người tiến hành tố tụng trong vụ án có NCTNPT. Những yêu cầu này là
những đòi hỏi đối với các chủ thể tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm quyền của
NCTNPT, đồng thời đảm bảo quá trình thực hiện quyền của NCTNPT được
hiện thực hóa trên thực tế. Các yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng đã
được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên còn nhiều bất
cập và chưa phù hợp thông qua bài viết đề xuất sửa đổi một số quy định về
yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng hình sự trong vụ án có NCTNPT.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, việc nghiên cứu về quyền của NCTNPT và pháp luật về
lĩnh vực này đã được triển khai từ rất lâu. Vấn đề quyền của NCTNPT trong
việc giải quyết vụ án hình sự đã được đề cập đến trong quá trình hình thành
các trường phái pháp luật và các hệ thống pháp luật ở châu Âu.
Từ thế kỷ thứ XVI và thế kỷ XVII hai thẩm phán người Anh là Hale và
William Blackstone đã đặt ra vấn đề quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự (TNHS) nhằm bảo vệ quyền của NCTNPT. Trong đó, Blackstone đã đưa ra
khái niệm “a defect of understanding” nghĩa là thiếu khả năng hiểu biết. Ông
cho rằng khả năng chịu TNHS không chỉ dựa vào độ tuổi mà còn căn cứ vào
cả yếu tố nhận thức và năng lực nhận biết của họ. Còn Hale thì mới đặt ra vấn
đề phân hóa các mức trong độ tuổi chịu TNHS.
Thế kỷ XVIII, vấn đề về NCTNPT đã được các nhà tư sản cấp tiến quan
tâm dưới góc độ yêu cầu một cơ chế không chỉ là trừng trị mà phải xử lý như
đối với người đã thành niên. Những người theo trường phái này cũng đã đưa