Tải bản đầy đủ (.pdf) (251 trang)

Kiến trúc nhà ở tác giả đặng thái hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.65 MB, 251 trang )

KIẾN TRÚC
N H À ở
4 ' i
NHÀ XUẤT BẢN XÂY DỰNG
L Ờ I 9 {9 {À X llÁ rm 7 {.
Nha ỏ luôn là mối quan tăm hàng đầu cùa mọi tầng lớp
trong xã hội. Thiết kế và xây dựng nhà ỏ như thế nào dể đáp
ứng dược nhu cầu cuộc sổng vật chất, tinh thần và thúc đẩy
quá trình phát triển của xá hội ? Đó luôn là những ván dầ dật
ra cho các nhà kiến trúc, xảv dựng.
Để dáp ứng dược nhu cảu vê tài liệu nghiên cứu, tham
khảo và học tập cho các kiến trúc sư, kỹ sư xây dụng, cùng
dông đảo sinh viên các trường dại học và những người quari
tầm v'ê kiến trúc nhà ò, Nhà xuất bản Xảy dụng cho tải bản
cuốn ''Kiến trúc nhà d" của PGS. KTS. Đặng Thái Hoàng.
Làn tải bản thứ nhát này, ngoài việc chỉnh lý lại nội dung,
chương mục, sách còn bố sung thêm hình vẽ minh họa vti
phụ lục tham khảo hồ ích , phù hợp với yêu cầu phát triển
nhà ỏ hiện nay. Mặc dừ dã có nhiầu có gắng, song chàc chấn
không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi luồn mong nhận
dược những ý kiến dóng góp, phê bình của dông đảo bạn đọc
dề cuốn sách dược tốt hơn.
NHÀ XUẤT BẤN XÂY DựNG
ChUrtng 1
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KIÊN TRÚC NHÀ ỏ
1.1. NHÀ ở TRONG XÃ HỘI NGUYÊN THUỶ VÀ XÁ HỘI NÔ LỆ
Con người trước khi đi đến cán nhà ở và những ngôi nhà ở hiện đại ngày nay đã từng
CÓ một nền văn minh vể kiến trúc nhà ở rất lâu đời.
Trong xã hội nguyên thuỷ do trình độ sản xuất rất thấp kém và lạc hậu, nơi ở của


con người còn rất thô sơ. Ngày nay, chúng ta biết được những nơi ở đơn giản ban đấu
của họ, nhờ khào cổ học khai quật lên những công trình từ xa xưa ; hoặc nhờ các công
irình nghiên cứu những bộ lạc nguyên thuỷ còn sống rải rác trên thế giới hiện nay.
Vào thời kỳ đổ đá cũ con người sống trong những hang động thiên nhiên, hoặc cao
hơn (hang động cđ gia công) tiếp đến là dùng liếp che chán thô sơ, rồi đến nơi ở cố
mặt bằng hỉnh tròn xây dựng bằng đá hoặc kết bằng cành cây (xem hình 1.1).
Qua một số di tích cho thấy trong hang đá làm nơi ở : phía trong làm nơi thờ cúng,
phấn phía ngoài làm không gian ở.
Liếp chấn gid của người nguyên thuỷ làm bàng vật liệu nhẹ thường thấy ở những
vùng khí hậu ấm đã được Phorê tìm ra qua những di tích còn sđt lại ở vùng Andắcxơ
(Pháp). Người ta thường quan niệm liếp chán giđ là một tấm liếp hình khum đan bằng
những mảnh thân cây với tâm là một bếp lửa. Loại liếp chán giđ phức tạp hơn là một
mái nghiêng tựa trên một hệ khung gỗ và trên lớp lát mái nghiêng có lợp cỏ (theo
A.R.Brao).
Trong khoàng 400 nảm sau khi phát hiện ra châu Mỹ (từ thế kỷ XV trở đi) người ta
còn gặp những bộ lạc sống từ thời kỳ đổ đá. Loại lều của họ cổ thể xây dựng bàng vỏ
cỉly hay bằng đất. Cd loại nhà vòm cây dựng bàng đất có trổ cửa trẽn đỉnh mái để lấy
ánh sáng và kết hợp thoát khói.
Cách dựng lễu tipi của thổ dân da đỏ (theo Oatecman) là bắt đầu dựng khung hình
chữ V ngược, buộc lại ở chỗ giao điểm, rổi dựng thêm một chiếc sào thií ba làm thành
thế chân vạc, nhiều sào phụ khác được dựng tiếp, dùng thừng chằng các cây sào lại với
nhau và cuối cùng mái lểu được buộc chặt vào khung và ghim chặt xuống đất bằng cọc.
Loại lều thường thấy ở châu Mỹ là loại lều làm bằng thân cây crí lợp vỏ cây hoặc phủ
bàng da của hươu tuần lộc.
Điểu kiện địa lý khác nhau nên lều cũng khác nhau. Những người Exkimô Bác cực
ở những lều tròn xây dựng bằng băng, và báng càng mới nhà càng ấm; trong khi đd
ngư(n ò vùng sông Amua dựng những lểu hỉnh yên ngựa ; còn lểu của người dân du mục
vùng Bắc Phi có dạng hỉnh chữ nhật phủ lá kè hoặc da thú.
Một ví dụ đáng chú ý là việc khai quật làng Xcara Brây ở lếclăngđa. Đổ là một nhóm
quần cư từ thời tiển sử đổ đá mới gồm những nhà tròn bằng đá xây dựng bàng đá tẢng

xếp chổng lên nhau.
Khi cuộc sống du cư chuyển sang định cư, con người sóng theo chế độ công xã nguyên
thuỷ và cả thị tộc tham gia xây dựng nhà ở, bấy giờ xuất hiện loại nhà dài cho một vài
gia đỉnh hay nhiều gia đỉnh. Cđ nhà chứa chục người hay cổ nhà hàng trăm người, ỏ
gần Niu Odc, người ta đả thấy những nhà dài 15 - 30m, giữa nhà cố hành lang rộng
1,8 - 2,5ni và cd vách ngàn bằng gỗ cây, cứ bốn căn hộ lại có một bếp lò và toàn nhà
có 5 đến 7 bếp lò Loại nhà dài này vẫn còn tìm thấy ở Liên Xồ (cũ) hay ở Việt Nam:
ỏ Liên Xô (cũ) nàm l938 người ta phát hiện thấy ở tỉnh Vôlônhegiơxkaia cđ nhà dài 34m
với 10 bếp lo ; còn ở Tây Nguyên, những dân tộc ít người ở ta đã cd những ngôi
"dài như những tiếng chuông ngân".
Khi con người bước sang giai đoạn đổ đá mới, nông nghiệp và chăn nuôi phát triển thl
ngôi nhà ở cùa con người cũng đã phát triển cao hơn. Ảngghen trong cuốn "Nguổn gốc t*ủa
gia đỉnh, của chế độ tư hữu và của Nhà nước" đã viết :*'Lửa và rlu đá đâ tao khà nảng rho
việc chế tạo thuyền độc mộc, có nơi đã dùng gỗ và ván để xây dựng nhà cửa".
Làng xdm bấy giờ ngoài chướng ngại vật bao xung quanh còn cổ thêm kho và chuống
súc vật. ở Ba Lan vùng Bixcupinxki gẩn Pôdơnan đã tỉm thấy di chỉ một thôn xđm xà
hội nguyên thuỷ với những nhà dài từ 3 đến 12 gian, mỗi gian cố 1 bếp lò, các nhà xếp
song song và cách nhau bởi những con đường cđ lát gỗ rộng từ 2,4 “ 3,4m. Làng
Bixcupinxki nguyên thuỷ này rộng tới 2,5ha. Mỗi nhà trong làng có tường đất đáp và
mái nhà dốc (xem hỉnh 1.2 ).
Một thành tựu khác trong lảnh vực khảo cổ học là việc tìm ra và trùng tu cả một
làng nổi trên hổ Duy rích ở Thuỵ Sĩ. Bí mật này được phát hiện vào nàm 1954 khi vét
bùn ở đáy hồ Duyrích để xây dựng đập nước. Trong một vùng 500 X 80m đă phát hiện
được tới bốn vạn chiếc cột gỗ sổi, gỗ bạch dương hay gỗ thông, đầu cột được nhọn
bàng rìu đá (những vật liệu xây dựng dó còn bảo vệ được đến ngày nay là do có mội lớp
bùn dày che chở) ; đổng thời người ta cũng đả tìm thấy những rỉu đá và sàn phẩm bàng
gốm cd hoa vãn đơn giản nên đã giúp cho người ta dựng lại được bức tranh sinh hoạt
của con người thời kỳ đổ đá, khi họ đă định canh định cư không còn sống cuộc sổng du
mục nữa. đó là những ngôi nhà sàn hình tròn cố mái hình ndn đặt trôn một mặt sàn
nổi trên mặt nước nhờ một hệ thống cột. Lúc bấy giờ, con người cần phải sổng trên hổ

hay gần sông để tiện lợi cho sinh hoạt và cd thể chống lại được thú dữ hay bộ lạc kẻ
thu (xem hình 1.4).
Sang chế độ nô lệ, nén vản minh nhà ở đáng nghiên cứu thuộc vé những phấn đồt
Ai Cập, Hy Lạp, La Mă và Ấn Độ.
ở Ai Cập cổ đại, nhà ở thường làm bàng đát sét và lau sậy, gạch nung chỉ có đối với
nhà ở quý tộc.
Vào khoàng 4000 năm trước công nguyên (thời kỳ Vương quốc tiễn kỳ> ở Tây Bác
cách Cai rô 40km đã phát hiện ra một điểm dân cứ lớn với hai loại nhà điển hinh :
- Loại nhà khung gỗ, tường gỗ, trên khung tường bằng gỗ ken sậy, nhà có phong
cách nhẹ nhàng và chất lượng thẩm mỹ tương đối cao.
- Loại nhà có kết cấu gạch không nung, tường, mdng làm bằng đá hộc, hỉnh dáng
nặng nề nhưng ổn định.
Trong quần cư trên cd 2 loại nhà người ta thường thấy có mái bằng là loại phổ biến
ở Ai Cập Thượng, còn ở Ai Cập Hạ thì nhà dùng gỗ và lau sậy là chính.
Loại nhà ở thời kv Cổ Vương quốc (3000 năm trước công nguyên) là loại nhà hình
chữ nhật, mái dùng gỗ gác bằng để mùa hè nóng nực cd thể làm nơi ngủ được.
Vào thời kv Trung Vương quốc (khoảng 2000 năm trước công nguyên), vua Sênuxe
II đá tập trung nhân công xây dựng thành phố. Việc khai quật thành phố này đă cho
thríy khá nhiếu những di tích nhà ở. Thành phố hình chữ nhật cđ kích thước 380x 260m
được chia làm hai khu vực : khu dân nghèo ở phía Tày cd kích thước 260 X 105m gổm
250 ngôi nhà 2 - 3 gian xây dựng bằng lau sậy và đất sét (chiểu rộng nhà không quá
7-1 Om) ; phía Dỏng Bác là khu nhà giầu với 10-11 trang viên, cđ nhà rộng tới 60 X 45m
với 70 phòng ; phía Đông N a m thành phố là khu vực dành cho lớp dân trung lưu.
Nhà ở bấy giờ đã phản ảnh rõ sự đối lập giấu nghèo. Mặt bằng nhà ở quý tộc Ai Cập
thơi kỳ này có những đặc điểm sau : mặt giáp phố không trổ cửa sổ, chỉ có cửa hẹp vào
.sủii trong, trong nhà có các phòng cho nam và nữ riêng, phòng lớn có độ cao lớn, phòng
nhỏ có độ cao bé hơn, phẩn chênh lệch về độ cao nàv làm cửa trời để thông gid, từ sân
lên mái có cáu thang được dùng để hóng mát.
Khoảng thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XI trước công nguyên ithời kỳ Tân Vương
(luốc), nhà ở còn ghi lại dấu vết ở thành Tel el Amácna. ơ đây các loại nhà ở chính là :

- Nhà ò 3 gian (một gian làm bếp và cất lương thực, 2 gian khác làm phòng ỏ) vật
liệu xây dựng là lau sậv v^à đát. sét, mái bằng.
- Nhà cho quan lại (70 X 70 mét) tường gạch cao, mỏ 3 cửa quay ra phố.
- Lâu đài : loại này có ao cá, vườn câ}^ phía trước, các phòng của chủ nhân có nén
cao, phòng dành cho nô lệ, các phòng phụ có nến thấp hơn một mét ; vảt liệu dùng cột
gỗ, tường gạch, dấm gỗ, mái bằng và trong nhà có tranh tường.
Thời kỳ Hy Lạp cổ dại, ở dưới chân thành Aten, nhà ờ đưcíc xAv dựng môt cách tư
họp lại thành từng phường tuỳ theo nghề thủ công, các nhà hai tâng chen chúc
nhau bên nhừng con đường hẹp. Dấn dán kiểu xây dựng những phường gổiiì 4 đ(Mì 6
nhà trên những mảnh đất khoảng 30 X 40 mét t rở nên phổ biến. Nhà ờ phãĩ triến quanh
Akrôpôn là khu thánh địa của thành phố.
Nhà ở La Mã cồ’ đại phàn ánh rồ rột đời sống xả hội và mối quan hệ giữa càc. táng
lớp thời đó. Thời kỳ đáu (thế kỷ thứ IV trước còng nguyên) nhà ỏ quý tộc rát phát triốn,
kiếu chủ yếu là nhà ở quý tộc cd sân trong, cổ bể nước ở giữa, ở đây còn dùng làm nơi
tiếp khách, trung tâm sinh hoạt của gia đình, làm cơm thờ cúng. Loại nhà phát triển
mạnh nhất là loại nhà tập thể cho thuê (nhà công ngụ) loại nhà này gổm những phòng
dơn điệu hướng ra mòt hàĩih lang, xây dựng bằng vật liệu rẻ tién và có nhiểu táng. Thời
kỳ đâìi 3 - 4 táng, đến thế kỷ thứ II sau công nguyên có nhà 5 - 6 tấng và đến thế kỷ
thứ IV xuất hiện cà những "nhà chọc trời”có nhà đă cao tới 18m và 21m. Theo sử sách
ghi lại. có thời gian ở La Mâ cổ đại cd tới 46.602 nhà ò kiểu này.
Loại nhà này có tên gọi chung là Inxunơ, dùng để phục vụ thợ thủ công, thuỷ thủ,
tiểu thương. Inxunơ (khai quật được vào nám 1935) là môt ngỏi nhà 5 tâng ở Rôma dùng
tường gạch và sàn bẻ tồng.
Dấu vết của nén văn minh cổ La Mă được sáng tò rất nhiéu qua việc phát quật cả
một thành phố đă từng nổi danh trong lịch sử : thành Pômpêi. Đó là một thành phố
phồn vinh một thời và bị chỏn vùi sau một trận phun lửa dữ dội của núi lửa Vêduyvơ
nám 79 sau còng nguyên. Cả thành phố bị bao phủ bởi một lớp phún thạch dày tới 8 -
9m, cho đến tận thế kỷ 18 (nãni 1763) người ta mới xác định được vị trí do tìm thấy
được biển đp chữ "Thành phố Pômpêi"và thật sự vào khoảng 100 năm sau, công tác khai
quật và đưa ra anh sáng thành phố tới 20 - 30 nghìn dân này mới được tiến hành một

cách có hê rhông dưới sự lãnh đạo của nhà khảo cổ học nổi tiếng Đgiuzeppê Phiôrenli
Thành phô đươc hiện lên với những nhà ò xây dựng từ thế kỷ thứ IV và thế kỷ thứ II
trước cồng nguyên rất đa dạng cũng như các công trình công cộng, quảng trường càng
đươc \âv dưng đẹp đẽ tráng lệ.
Nhung ngôi nhà ở Pômpêi được xây dựng khoàng 200 nâm trước công nguyên có hình
thức rất duyên dáng : bốn mặt tường phẳng, mặt trước cd cửa vào và hai cửa sổ nliỏ
hai bên. mái dốc cấu tạo phức tạp do có sân trong nhỏ, chiếc sân trong này gọi là Atri,
thường có bế chứa nước mưa (mặt nước ngang mặt sân) theo đường ống dẫn từ mái
xuống và chay ngầm dưới đất (xem hình 1.5).
Nhà ỏ của nhà giáu, có tới 40 phòng, ngoài những sân trong nhò, còn có sân trong
lớn (pêrixtiì) ở đó có trang trí cây cảnh, thàm cò, bể nước, và các điêu khắc nhỏ v.v
(xem hình 1 6). Loại nhà này mang tên kiểu Atripêrixtil. Cd nhà cd tới 2 Atri và 2
Pêrixtil. Trong những loại nhà này, hội hoạ và tranh tường rất được chú ý sử dụng để
tăng vẻ đẹp của kiến trúc.
Những ngôi nhà ở trên, không đại diện cho loại nhà ở thông thường của đa số dán
thành phố là thợ thủ công và buôn bán nhò hay những tấng lớp bỉnh dân khác, chiếm
đa sô trong thành phố. Nhà ở của họ thường hẹp và dài, cd lối đi nhỏ từ ngoài vào trong,
bên cạnh có một xưởng thủ công nhò hay cửa hàng, tiếp đến là một Atri với bể nưỏc,
sau là đến khu phòng ngủ và các phòng phụ đặt cạnh một sân hở nhò có hề nước, bổn
hoa (khu vệ sinh đặt dưới gấm cầu thang đi lên gác xép).
Phát triển gần như song song với cổ Ai Cập, ở châu Á, đất nước Ấn Độ cũng đà có
một nền vàn minh rất đáng chú ý.
Những thành phố của Ấn Dộ vào khoảng 3000 năm trước công nguyên được bố trí
uốn nắn và phân chia bởi mạng lưới đường chính và phụ thẳng tấp. Thế giới biết đến
người Ấn Độ cổ đại như những nhà quy hoạch đô thị tiên phong qua dấu vết của các
thành phố cổ Mốhengiô Đarô và Sanhê Đarô (ở vùng Xinh) củng như Harappa (ở Páng
- giáp), ở đáy có những ngôi nhà gạch màu đỏ, mái bằng, cd tường ngán xây lửng để
thòng gió. Trong thành phố còn có cả nhà hai táng : tầng dưới là bếp, nhà tám, kho,
giếng; tầng trên là các phòng ngủ.
8

lỉi n ỉt l . I : .\h() f} irn/iự X(] ỉiù ị n-^ívcn íhùv
IWWIIiB:
_
_
_______________________________________ (ịv^
H ình 1.2 : D i íích nhí) () vùrii^ h n ìUxcupiỉLxki ('/ Hd ỉ.iiìi
ỉỉin h / •} ; Ì\ỈIÙ >'' hiìnỊ^ íỊdi SCI cùa niní hộ líỉC riị^nvén lh ủ \ Cììãu P hi
9
tTinh 1.4 : Nhà sùn n ^ yên thủy trên hồ Duyrích
Hình 1.5 : Môí kiểu nhà ờ ỏ ỈVmiPêi La Mã Cố Dụi
10
1.2. KIẾN TRÚC NHÀ ở CHÂU Âu THÒI KỲ TRUNG
THẾ KỶ VÀ THÒI KỲ PHÔI THAI Tư BẤN CHỦ NGHÍA
Thời kỳ Trung thê kỷ - từ thê kỷ XII đến thế kỷ XV - ở châu Âu đã nổi lên
một nền kiến trúc thế tục trong đd có kiến trúc nhà ở truyển thống khá nổi tiếng.
Má('xim Goocki đã nhận xét : "Lịch sử văn hoá đã bào cho chúng ta biô't các đoàn thể
thủ công nghiệp Trung thế kỷ của các thợ đá, thợ mộc, thợ khắc hoa văn và thợ làm đổ
gốm rất thiện nghệ trong việc xây dựng nhà cửa và chế tạo nên những đổ dùng đẹp đẽ
lạ thường mà các nhà nghệ sĩ cá thể sánh không kịp " Ngay trong những dinh thự
của tẩng lớp cd tiển, đối lập với kiến trúc nhà ở dân gian, vẫn mang tính chất, thế tục
vCit lớn. Khi xét đến sự phát triển nhà ở của thời kỳ này, cần nghiên cứu kiến trúc nhà
ở của cả hai táng lớp ở một số nước :
Ũ Pháp, kiến trúc nhà ở dân gian của thị dân bấy giờ cd phong cách rất hấp dẫn,
thể hiện tinh thần lạc quan.
Dân thành phố thường sống trong những nhà nhiều tầng : tầng một là phường thủ
còng hoặc quáy hàng, các tấng trên là phòng ngủ. Mặt đứng đầu hổi nhà (phía thấy mái
thu hồi) hướng ra đường phố hoặc quảng trường. Kết cấu của nhà khung gỗ là chủ yếu,
và hoàn toàn bộc lộ ra ngoài, loại nhà này thường gia công rất tinh xào có sức lôi cuốn,
trên mặt đứng cửa sổ được mở rất rộng.
Loại nhà này được sử dụng nhiéu ở thời kỳ Văn nghệ phục hưng mà đến tận ngày

nay vẫn được nhiều người hâm mộ. Nhà ở lúc bấy giờ áp dụng cách trang trí gô tích và
yồu cắu thẩm mỹ cao. Loại nhà nàv không lớn, thường có sân trong, kèm theo nhà phụ
và vườn nhò.
Loại dinh thự và trang viện của nhà giáu thời kỳ này củng được phát triên mạnh.
Dinh thự xày bằng đá, và tường bên ngoài cũng xá\^ đá dày bao quanh, bên trên nóc
nhà cd bố trí nhiều tháp để trang trí, hinh thức mật đứng bưng bít kín đáo. Một số ví
dụ tương đối điển hlnh là dinh thự Giáccơ Cơ (1443), dinh thự Buồcthơrundơ (1475), và
dinh thự Klưynnỵ (1485) ở Pari.
Những trang viện lớn thường có thành luỹ và hào nước bao quanh, irên tliành có
vọng lâu và cửa vào cd cầu treo.
Bộ mặt bên ngoài của trang viện rất năng nề nhưng nội thát lại giấu tinh trang trí.
Những trang viện Côngxipierơphông, Cacaxon đươc nhác đến như những công trinh tiêu
biểu của kiến trúc xă hội phong kiến lúc háy giờ.
ỏ Dửc, trong khoảng mấy trâm nãm của thời kỳ Trung thế kỷj vật liệu xây dựng
chính là gạch và đá. Mái nhà dân gian Dức rất doc, bên trong rnái có ráng gác, hoậc
nhiều tầng áp mái, thể hiện qua mật đứng bằng những cửa sổ ; và trên inật inái cũng
có lớp lớp cửa sổ.
* Bàn vổ vAn học.
11
Trên mật tường gạch đá đơn giản mà vững chác, thường nhô ra những lầu gác. hiên,
êke, cửa sổ (dùng kết cấu công xôn đế tao nên những không gian vươn ra n^oài mỉit
đứng). Những hình thức kiến trúc này rất đẹp và tinh xảo. Những tiểu cảnh như chi
tiết vòi thoát nước ở chân tường hình đẩu thú vật và bế nhỏ bằng đá chứa nước phia
dưới không những chỉ trang trí cho ngôi nhà mà còn làm đẹp thêm thành phố.
ò Anh, khi đó cũng tổn tại hai loại nhà chính : dinh thự có quy mô lớn, chất lượng
cao nhưng dáng vẻ bưng bít và lạnh lùng còn nhà ở thông thường thì ỉại có sức lôi ciiốn,
hấp dẫn.
Vật liệu xây dựng nhà thông thường là đá hoặc gỗ. Hệ khung gỗ của nhà mầu sẫm
được bộc lộ trên mặt tường trắng với kỹ thuât mộc rất khéo léo. Cửa sổ lớn nhô ra và
đầu hổi mái dốc được trang trí rất tinh vi.

ở Anh thời kỳ này, hình thức bên ngoài nhà ở đã phản ánh đủng tổ chức không gian
bên trong ; hình dáng các phòng thường phức tạp, làm không gian kiến trúc đa dạng
phong phú và có cảm giác ấm cúng.
ở Italia, kiến trúc nhà ở thời kỳ Trung thế kỷ đáng chú ý là những dinh thự. Các
công trình này được xây dựng bàng đá, với hai ba hoặc bốn tầng. Tầng dưới thường dùng
đá lớn và thô nhám, tạo cảm giác vững chác và ổn định ; tẩng trên xâv bàng đá nhỏ và
phảng hơn, tạo ấn tượng nhẹ nhàng và tinh tế. Các táng nhà đều được phân biệt bằng
các gờ ngang. Cửa sổ rất lớn, với hình thức tổ hợp gô tích, dưới một cái cuốn cổ từ h.'ii
đến ba cửa sổ. Đối với loại kiến trúc này, cổ những công trinh tiêu biểu như Xpiri,
Phrexcôban, Tôlômây, Agôxtini. Hình thức kiến trúc đá này vẫn còn thấy lại ở Italia
trong những thời kỳ tiếp theo.
Cũng vào thời kỳ Trung thế kỷ, người ta thấy ở những miển cực Đông châu Àii, như
ở Côcadơ, Nam Tư, Bưngari, xuất hiện và tồn tại một loạỉ nhà ở kiểu pháo đài. Loại
nhà này ra đời do yêu cẩu an toàn của những người dân, nhằm phòng thủ chiến tranh
cũng như xung đột giữa các dòng họ.
Loại nhà này cd mặt đứng bưng bít, chỉ trổ cửa sổ ở tẩng trên cùng và trông như lỗ
châu mai. Những,ngôi nhà loại này thường cao ba, bốn tầng. Nhà ở pháo đài ở Nam
Côcadơ tầng dưới thường cao 2m để súc vật, những tầng trên để người ở thường cao
3m. Tường xây bằng đá vàng xám phía dưới dẩy trên một mét phía trên dầy 90cm.
Nhà ở kiểu pháo đài này ở Bungari rất đa dạng, xây bằng đá rất công phu, nhữrig
hình thức cửa sổ tầng trên cùng nhô ra ngoài tường bằng những ban công kín khiến cho
mặt nhà sinh động. Lúc đó, kiểu nhà này được xây dựng ở những điểm dân cư có tầm
chiến lược quan trọng (xem hình 1.6).
Đến thời kỳ phôi thai tư bản chủ nghía, nền kiến trúc phải kể đến đầu tiên là
kiến trúc Italia thời kỳ Vãn nghệ phục hưng (thế kỷ thứ XV và XVI).
ở Italia lúc này láu đài của tầng lớp trên thường xây dựng bằng đá và mang tính
chất phòng thủ rõ rệt ; tầng dưới cd ít cửa và dùng đề cho người làm và thần binh ồ.
Nhà cố sân trong và các phòng không cd công nâng rõ rệt. Tiêu biểu nhất là lâu đài
Mêđixi xây dựng trong khoảng 1430 - 1440. Một số khác đáng chú ý như toà nhà Xtrôxxi
(1489 - 1507) ở Phlorăngxơ, biệt thự Madam (1516 - 1520) do Raphaen thiết kế xây

12
dựng ở Rôma , biệt thự Pharnenxia (1509 - 1511) của Pêrudi xây dựng cũng ở Rí.in i
và biệt thự Capra (biệt thự viên sành 1552) cùa Palađiô thiết kế xây dựng ở Vơnidơ
Õ Pháp, yào thời kỳ Văn nghệ phục hưng, khoảng giữa thơ kỷ XVI, tồn tại hai loại
nhà ở thành phố chính :
- Loại nhà nhỏ chỉ môt lối vào phía trước.
- Loại nhà lớn hơn có sân sau và lối vào phía sau. Loại nhà có hai lối vào nàv, nhà
chính và nhà phụ nối liền bằng hành lang, ỏ đây, chủ nhà là dân thủ công hoãc thương
nhân sống ở phía trước, thợ học việc ở phía sau.
Píình thức bên ngoài nhà vẫn như thời kỳ Trung thế kỷ, nhà có bóng dáng (xiluét)
rát phức tạp do mỗi bộ phận của phòng có 1 mái riêng rất dốc. Vật liệu xảy dựng là đá,
gạch, và chủ yếu là gỗ. Gạch và đá được xây hỗn hợp thành những tổ hợp rát đẹp. ở
các góc nhà của dân thành phố thường cd những đèn trec (ôriel) và tháp nhọn nhỏ
(tuyarGt) làm tãng vẻ Hìỹ quan cho nhà và góp phần tô điểm cho bộ mặt của thành phố
T.lc phẩm điển hình của loại kiến trúc nhỏ này là toà nhà Côghiơ (1540).
t)ến thời kỳ quân quyển tập trung - đầu và giữa thế kỷ XVII (1630 - 166Õ) - kiến
trúc nhà ở thay đổi, nhà ở tư sản và quý tộc xây dựng rất nhiểu ở Pari và các tỉnh. Các
phòng cd chức năng nhất định như : phòng ăn, phòng khách Tổ hợp mặt đứng liên tục
và thống nhất hơn, các cửa sổ, cửa đi và trụ cột được đơn giàn hoá. Nội thất được thiết
ké' riêng.
Từ đáu thế kỷ XVIII trở đi nhà ở trong thành phố của Pháp lại tiến lên một bước bố
tri hợp lý hơn, các phòng độc lập không ảnh hưởng đến nhau, vì nhà cố tổ chức hành
lang trong. Sự liên hệ giữa bếp và phòng ần, phòng ngù và nhà tám thuận tiện hơn.
ở Đức,vào thế kỷ thứ XVI - XVII, nhà ở dân gian truyén thống tiếp tục phát triển :
nhà mái dốc và nhiều tấng gác áp mái, tẩng dưới là cửa hiệu, các tầng trên là khu vực
ở, tường hổi nhà (nơi có hình tam giác của mái) được chú ý trang trí. Sau này, những
nét đơn giản và tinh tế đó vản được sử dụng lại. Ngôi nhà ở Đexxau một ngôi nhà ở
của tấng lớp trung lưu là một kiệt tác tiêu biểu cho kiến trúc nhà ở của Đức thời kỳ
này : nd đơn giản, thân mật và hấp dẫn
ỏ Nga,song song với sự phát triển nhà ở của các nước Tâv Âu, cũng phát triển môt

kiổu kiến trúc nhà ờ bằng gỗ rất đặc sác. Nhà gỗ phát triển ở kháp nước Nga, còn ỏ
Biêlồruxxia và Ukren, với tên thường gọi là "Idơba”. Tuy ở thế kỷ XVII kết cấu gạch đá
đã nhiéu lên, nhưng kết cấu gỗ vẫn chiếm đa số, kể cả ở Matxcơva Với bàn ray sáng
tạo của những người thợ giàu tài nầng, ngôi nhà gỗ Nga gây một cám giác thân mật,
ấm cúng và vui mát. Phong cách nhà rất đa dạng : hai mái dóc hoặc bốn mái dốc, ba
hoặc năm cửa sổ trên mật đứng v.v (xem hỉnh 1-7). Cùng với mật bàng (thường bao
gốm sảnh vào, phòng chính, phòng phụ, kho để lương thực, hlnh khối kiến trúc phong
phú và sinh động, cẩu thang, hiên nghỉ, cửa sổ và ban công cd trang trí), kết cấu gỗ
trang trí rẩt đúng liều lượng, thường thấy ở khung cửa sổ, cửa đi, lan can, cột gỗ trong
nhà, hình thành một bút pháp rất độc đáo của điêu khác kết hợp với kiến trúc. Tường
gỗ "Idơba", chỗ nối ở góc làm toàn bằng gỗ thanh tròn có thể liên kết "khấc" hay "mộng".
Nhà nghèo lợp mái rơm, nhà giầu lợp mái ván.
13
Hình 1.6 : Nhà à kiểu phán đài (J Bunị;ari thời trung thế kỳ
14
tĩtnh 1.7 : Nhà gỗ dàn giarì
\'ù ì âu đài ịỊỗ ở h ga
Nhà gỗ Ukren cđ khác biệt với nhà gỗ Nga. ỏ đây, tường ghép bằng ván cđ khi là
Ĩihĩíng tấm ván dài đặt đứng, nhà phụ tách khỏi nhà chính ở những nơi do khí hậu bớt
khác nghiệt hơn. Mái nhà ưkren đua ra khỏi tường nhà rất xa nên ngôi nhà giấu sức
biểu hiện.
Vào giai đoạn cuối của thời kỳ lịch sử phát triển nhà ở này, mọi người thường chú y
đến sự thay đổi của ngôi nhà ở thành phố của Pháp vào thời kỳ Cách mạng tư sàn Pháp.
Do dân số thành phố tăng lên khiến cho mật độ kiến trúc tăng lên đòi hỏi phải có một
số thay đổi : nhà phải xây hàng loạt kiểu ghép khối ra sát mặt đường (xây một số nhà
cho đến hàng chục nhà một lúc) để thay cho kiểu nhà cũ có sân vườn lớn, tốn đất.
Những người đầu tư vốn xây dựng, cho ”bộ mặt" nhà ở của tẩng lớp trung lưu, đã cđ
một số trang trí thích đáng. Những ngôi nhà trên đại lộ Phrăngxoa là ví dụ tiêu biểu
cho kiểu nhà này.
1 .3 . KIẾN TRÚC NHÀ ở CẤC N ư ớ c Tư BẤN CHỦ NGHĨA

Khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển, cũng như giai đoạn tư bản lủng đoạn trong
linh vực kiến trúc, nhà ở luôn là một trong những vấn đề đáng quan tam.
Trong giai đoạn đầu của lịch sử kiến trúc cận đại tư bản chủ nghĩa, nhà ở ở nước
Anh được phát triển mạnh nhất. Nhà ở tư sản Anh cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XMII
Cí) hai loại chính :
- Nhà cđ mặt bằng hỉnh chữ nhật giữa cd sảnh và cầu thang, các phòng vây xung
quanh. Nhà xây dựng bằng gạch, ốp đá ở cửa và góc nhà.
- Nhà cd mặt bằng hình chữ E và hỉnh chữ H.
Nhà ở giai đoạn này vẫn là nhà ở kiểu phục hưng cổ điển, chủ yếu là phục hưng La Mã.
Lúc bấy giờ, nước Anh đứng đầu về số lượng và quy mô xây dựng nhà ờ. Để đáp ứng
với nhu cầu phát triển công nghiệp đã xuất hiện những nhà ở kiểu mới, có khi xây liền
cả một loạt thành một đường phố, cố lúc cà mười hay hàng trăm hộ thành một nhdin.
Ví dụ : Tiêu biểu nhất của hình thức xây dựng này là nhà ở trên đường phố Rigion
ở Luân Đôn, đó là một loạt nhà cd hành lang chạy dài men theo đường, hình thành môt
cảnh quan thống nhất, đd là mẫu mực của một phong cách xây dựng được gọi là "phong
cách thời kỳ nhiếp chính"; Dại lộ Rivôli ở Pari và tầng dưới nhà cd hành lang cuốn hướng
ra công viên; Đại lộ công viên (Pác Avơnuy); đường phố số 5 ở Niu-Odc.
Vào nửa sau của thế kỷ XIX, ở Anh xuất hiện xu hướng nhà ở gia đình lãng mạn chủ
nghía. Viliam Morin (một nhà xà hội học) đã tập hợp một số kiến trúc sư có tiếng như
Philip Vep, Risớt NoocmanSao và Voixây đề xướng nên phong trào "mỹ thuật và công

nghệ". Cơ sở của xu hướng lãng mạn chủ nghĩa, hướng vé phong cách gô tích trung thế
kỷ. Chủ nghĩa lãng mạn Anh bấy giờ rất cd tiếng tăm, cố thể công phá được sự thổng
trị tuyệt đối của phái học viện cứng nhác.
15
Dùng thủ pháp tương đổi linh hoạt của kiến trúc Trung thế kỷ đáp ứng yêu cẩu công
năng hiện tại, chủ nghía lăng mạn đă gây được một số ảnh hưởng nhất định. Hai tác
phẩm tiêu biểu của trào lưu này là Hổng ốc (Rết Háoxơ) - nhà ở của Morix do kiến trúc
sư Vep thiết kế và ngôi nhà ở Rutlan do kiến trúc sư Voixây thiết kế: Hổng ốc xây dựng
năm 1859 là một ngôi nhà có mặt bằng hình gẫy khúc các phòng được sáp xếp theo yêu

cầu sử dụng, liên hệ thuận tiện hình dáng đơn giản với tường gạch đỏ và mái dốc lớn;
Còn ngôi nhà ở Rutlan, người ta thấy tác giả mong muốn biểu hiện không khí bình lặng
và thầm trầm thời kỳ trung thế kỷ, kiên trì với mục đích kiến trúc biểu hiện cuộc sống,
tận dụng khả năng kiến trúc tiếp cận với thiên nhiên.
Ndi chung, nhà ở lăng mạn chủ nghĩa Phục hưng gô tích thường có ba kiểu : phỏng
theo kiểu nhà thò, phỏng theo kiểu thành luỹ và phỏng theo kiểu nông thôn. Tới cuối
thế kỷ XIX, xu hướng này bị trào lưu chiết trung chủ nghĩa của tẩng lớp tư sản hãnh
tiến lấn át.
Đầu thế kỷ XX, ở Mỹ loại nhà ở "kiểu thảo nguyên" của Rait được phát triển vôi nội
dung tân kỳ, kết hợp kiến trúc với tự nhiên (thảo nguyên mênh mông của miến Tây nước
Mỹ) và coi kiến trúc là một tổng thể (vể bố cục không gian, nội thất cũng như kết cấu).
Một trong những vấn đế lớn của kiến trúc thời kỳ tư bản chủ nghỉa là nhà ở công
nhân. Những ảnh chụp và vẽ thời đtí cho thấy những khu nhà ở công nhân là nghèo
nàn, hỗn độn. Nhà được xây thành từng dẫy vói khoảng cách tối thiểu hoặc xây lộn xộn
với đủ loại vật liệu chắp vá. Việc chọn vị trí khu đất, bố trí nhà ở cuối hướng gió đối
với khu công nghiệp gây ra ô nhiễm, việc bố trí nhà ở môi trường sống vào khu đất thấp
thường xuyên bùn lầy nước đọng cũng rất phổ biến. Nửa cuối thế kỷ XIX, các thị trấn
công nhân phát triển mạnh. Những nhà xây hàng loạt có ý nghĩa sơ khai vé mật
quy hoạch.
Đầu thế kỷ XX, trong kiến trúc nhà ở xuất hiện nhiều vấn đé mới và có sự phân ngành
sâu thêm như xuất hiện các kiến trúc sư nội thất. Hai ví dụ tiêu biểu đáng chú ý là :
- Nhà ỏ ở đưòng Tuyranh, Bruychxen (Bi) xây dựng năm 1903 do kiến trúc sư Oócta
thiết kế với đặc điểm sử dụng kết cấu thép cho nên có khả năng tổ chức mặt bằng vồ
mật đứng tự do, quy hoạch cán hộ linh hoạt.
- Ngôi nhà ở đường Phơrangcơlanh, Pari (Pháp) xây dựng năm 1903, do kiến trúc sư
Ôguyxtơ Pêrê thiết kế với đặc điểm dùng khung bê tông tạo ra mặt bằng tự do. Trong
kiến trúc hiện đại, kiến trúc nhà ở dẩn cd những thay dổi đáng kề. Việc xây dựng nhà
ở bước đẩu theo những yêu cấu vể sử dụng và quy hoạch đô thị : đẩu tiên kiến trúc nhà
ở được xây dựng sáp xếp theo kiểu ô vuông, sau đó tiến tới việc xây dựng nhà ở song
song rồi việc xây dựhg xen kẽ vào các công trình công cộng phục vụ cấp I đà bắt đẩu

hỉnh thành như trong quần thể nhà ở Cácmáchốp ở Viên.
Sau Chiến tranh thế giới thứ I, do sự tàn phá nên nhà ở trở thành vấn đề nghiêm
trọng : ở Pháp có 36 vạn căn nhà bị phá huỷ, 1 triệu 30 vạn căn nhà bị hư hỏng; ở Anh
thiếu 50 vạn căn hộ và cấn sửa chữa gấp 1 triệu 50 vạn căn hộ; ở NiuOđc (Mỹ) 1 triệu
người phải sống trong nhà ổ chuột. Việc thiếu nhà ở không chl là công việc của các nước
16
tham chiến, chiến tháng hay chiến bại, mà theo Ãn^;ghen là "Sản phẩm tất nhiên của sự
hỉnh thành xã hội giai cấp tư sản". Tình trạng (‘án nhà ở do chiến tranh gây ra cũng
như do phân bố lại cư dân theo sự phát triển của cóng nghiệp, cảnh sống vạ vật của lớp
dằn nghèo cũng đã dẫn đến sự báo động vể yêu cầu giải quyết nạn khủng hoảng nhà ở.
Sau chiến tranh, đến tận năm 1923, cục diện kinh tế tương đối ổn định, thì hoạt động
xày dựng nhà ở mới bát đầu được chú ý.
Từ năm 1930 trở về trước, loại nhà ở xây dựng hàng loạt khá phổ biến; từ những
nám 30 trở về sau các nước chú ý nhiều hơn đến việc xây dựng loại nhà ở riêng biệt
(nhả biệt thự).
Sau chiến tranh thế giới lẩn thứ I, kiến trúc nhà ở phát triển theo những hướng sau đây :
1. Loại nhà ỏ xây dựng hàng loạt :
Sau chiến tranh, cuộc sống của các thành phố bị đảo lộn và do nạn thiếu nhà ở dẫn
đ(Tn những cuộc đấu tranh của công nhân, làm cho nhà đương cục các nước không thể
không nghĩ đến vấn để xây dựng nhà ở hàng loạt.
Dầu những nãm 20 của thế kỷ XX, loại nhà này - thường từ 3 dến 5 tẩng - cd chất
lượng kém, không giải quyết được vấn đề thông gió và chiếu sáng cũng như chất lượng xây
dưng. Dần dần một số nước như Hà Lan và Đức đã cd một số hướng giải quyết. Đặc biệt
là ở Đức, trên cơ sở sản xuất công nghiệp và trình độ khoa học, lực lượng dân chủ (trước
khi chế độ Quốc xã lên cẩm quyển) đã áp dụng để thay đổi điều kiện sống cho công nhân.
Những loạt nhà ở mới này cđ tổ hợp không gian hợp lý, chú ý đến chiếu sáng và thông
gid nâng cao chất lượng thầm mỹ thông qua cái đẹp tự thân.
Những kiến trúc sư nổi tiếng trong lỉnh vực nghiên cứu và thực tiễn nhà ở bấy giờ
là Vante Grôpiux (người lãnh đạo trường phái kiến trúc Bauhauxơ ở Đexxau), các kiến
trúc sư Macxtam và Ađônphơ Maye (ở 'Phrăngphuốc am Main) và kiến trúc sư thuộc

phái biểu hiện Erích Menđenxơn.
Những ví dụ tiêu biểu của lãnh vực nhà ở xây dựng ở Đức lúc bấy gnờ là khu nhà ở
mới ở Phrăngphuốc do Maye thiết kế và nhà khu nhà ở Xi menxtat (1924 - 1933) do
Vante Grôpiux thiết kế. Khu nhà ở Ximenxtát là tác phẩm mẫu mực cho những khu nhà
ở kiểu đơn nguyên hiện nay, ở đây tổ chức căn hộ hợp lý, các hộ độc lập không ành
hưởng lẫn nhau, liên hệ trong nội bộ cãn hộ thuận tiện, có lôgia phục vụ cho sinh hoạt
chung của mỗi gia đỉnh và làm phong phú thêm mặt đứng. Khu nhà ỏ 4 tầng, này được
coi là khu nhà ở tốt nhất châu Àii lúc bấy giờ.
2. Loại nhà ở kiểu b iệt thự :
Sau những năm 30 của thế kỷ này, loại nhà ở kiểu biệt thự (nhà xáy dựng riêng biệt)
khá plhát triển. Xu hướng chung của loại nhà này là đơn giản hoá, hiện đại hoá về hỉnh
khối, ỉbỏ bớt những diện tích thừa như những tién sảnh rộng lớn trong những ngôi nhà
tư nhíân kiểu cũ vốn để phô trương thân thế của chủ nhân, giảm diện tích phòng ngủ,
tàng diện tích phòng sinh hoạt chung do nhu cầu vãn hoá tăng lên, giảm bớt diện tích bếp
17
và khối vệ sinh do thiết bị kỹ thuật ngày càng hoàn thiện. Ngoài ra, vân đề chiếu
và thông gió, vấn đề gần gũi tiếp cận với thiên nhiên cũng được chú ý. Loại nhà này C(ì
hỉnh thức đa dạng tuỳ thuộc vào khà nãng kinh tế cũng như sở thích thẩm mỹ của chù
nhân. Tuy vậy, phương thức tổ hợp mặt bằng nhà một hay hai tầng đều eó mối \iCm hộ
giữa các nhóm phòng với nhau cũng như giữa kiến trúc với thiên nhiên hợp lý.
Tiêu biểu cho loại nhà xây dựng riêng biệt là :
- Nhà ở của Vante Grôpiux do chính bản thân ông thiết kế ở Đexxau Dức (1926).
- Nhà ở ở Bulôxuyếc Xen, Pháp (1926) do Lơ Coocbuydiê thiết kế.
- Nhà ở Tughenhat ở Brơnô Tiệp Khắc (1930) do kiến trúc sư Mix Vanđe Rôê thiết kế.
- Biệt thự Kôpphơman (biệt thự trên thác) ở Mỹ (1936) do Rait thiết kế.
Tác giả của bốn ngôi nhà này đồng thời cũng là bốn kiến trúc sư nổi tiếng nhất trong
nhiều lĩnh vực của nửa đầu thế kỷ XX và cà thời kỳ sau đđ nữa.
Trong toà nhà ở của Vante Grôpiux, mặt bằng gán như là chữ nhật đơn giản, quy
mô tương đối.nhỏ, phòng sinh hoạt chung và phòng ăn được cách ly không hoàn toàn
(dùng giải pháp không gian linh hoạt gây cảm giác rộng rãi). Khối này gần liền với bếp ;

hai phòng ngủ được ngàn cách bằng tủ tường và bố trí cạnh khối vệ sinh.
Biệt thự của Lơ Coocbuydiê ở Bulôxuyếc Xen (Pháp) lại dùng không gian hoà nhập,
sử dụng sàn lửng để tạo phòng xuyên suốt hai tầng, gây không khí thoáng đãng, sán^
sủa. Đổ cũng là ý đổ hay dùng của các tác già. Về sau, ý đổ này được thấy lại trong đơn
vị nhà ở lớn Mác xây, một kiệt tác của kiến trúc hiện đại với cách xử lý lệch tầng.
Biệt thự Tùgenhát là một ngôi nhà hai tầng, phân chia công năng rất rõ rệt : tắĩìịr
trên là các phòng ngủ; tầng dưới là không gian sinh hoạt chung, phòng ăn và chỗ lànì
việc. Tất cả đểu được ngăn cách bằng tường di động nên nội thất rất linh hoạt.
ở biệt thư Kôpphơman ở trên thác Biarơn, kiến trúc sư Rait đã thiết kế ba tầng :
tẩng một bố trí gần mặt nước gổm phòng sinh hoạt chung và khu phục vụ, tầng hai và
tấng ba là các phòng ngủ. Toàn bộ công trình xây dựng trên mặt thác, gây ấn tượng
tương phản rất mạnh do những khối bàng đá và bê tông đan chéo nhau. Rait đà thành
công khi ông đưa vào nội thất toàn nhà cành rừng, tiếng suối, bdng cây và đem những
hình khối kiến trúc phảng trơn hay thô nhám kết hợp vào thiên nhiên hùng vl.
3. Nhà ở cao táng :
Sau những năm 1930, nhà ở cao tầng được phát triển mạnh. Dựa trên cơ sở vật chất
và sự tiến bộ kỹ thuật cùng với yêu cầu của xã hội đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển
của loại hình kiến trúc nhà ở cao tầng, đd là :
- Giá đất trong thành phố tăng lên.
- Sự tiến bộ của kỹ thuật xây dựng, việc sử dụng vật liệu mới và giải pháp kết cấu mới.
- Sự hoàn thiện của thiết bị kỹ thuật (thang máy, máy điều hoà không khí, thiết bị
bếp gọn nhẹ, đổ gỗ cđ diện tích và khối tích tiết kiệm).
18
- Nhịp điệu sinh hoat của xã hội tư bản ngày càng căng thẳng, đòi hỏi rút ngán thời
giar và khoảng cách giữa các khu vực trong thành phố.
- Sự hình thành CÁC. tiểu gia đinh (xu hướn^ tất yếu của xã hội học) và sự đơn giản
hoả các phương thức sinh hont
Ngồi nhà ở đáu tiẻn đưực xây dựng ở Rốttecđam (Hà Lan) vào nầm 1930 đã phản
ánh những yếu tổ trên (trước đc5 những đề nghị vể nhà cao tầng ở Đức đã cd vào những
nỉiir. 20 không được chảp nhộn), tiếp đến là ngôi nhà ở tập thể Haipoăng ở Anh, rổi đến

toà ahà Pơraixơ ở Mỹ. Sau đo' nhà ở cao tấng có nhiều thay đổi lớn.
loại nhà này đă đcing góp vê mặt mv quan, tiết kiệm đất xây dựng. Tuy vậy, nếu
xúy dựng hàng loạt khối nhà cao tẩng mà không chú ý đúng mức đến nhừng yêu cẩu về
môi trường sống thi lại rất khó cải thiện điểu kiện sống.
'J'rong thiết kế nhà cao tầng vấn để tổn tại phổ biến là quy hoạch tổng thể, trang
thiếi bị, chỗ để xe và ảnh hưởng của nó đến khư vực xung quanh.
Nhà cao tấng, nicặt bằng thường có dạng hình vuông, hình chữ nhật, hình chữ thập,
hình sao ba cạnh ; đầu rnối giao thông, đường ống thường được bổ trí vào giữa hoặc chỗ
cát nhau ở các cánh nhà.
Những nhà ở cao 50 - 100 tầng - nhà chọc trời - trong một thời gian dài đã được
gọi là "độc tố" hav là "những tèn bao chúa", vì điều kiện ở của nd củng phi nhân bản
như những ngôi nhà ổ chuột mà thôi. Nhà chọc trời không chỉ ảnh hưởng đến người sử
dụni;', mà còn tác hại cả đến người qua đường, đường phố trở nên hẹp và sâu thẳm dưới
nhữiig ngôi nhả mà một thời được gọi là tiêu biểu cho "sự hùng vĩ" của thành phố tư
bản chủ nghĩa. Mấy chục nãni gán đảy, hình ảnh và công nãng của nhà ở cao tầng tư
bản chủ nghĩa đã có nhiều thay đổi, người ta đã quan tâm đến cả môi trường và tạo
thành nhừn^ quán the rất giàu sức biểu hiện.
ỏ các nước phương Tây; Chiến tranh thế giới thứ Í1 đã có những tìm tòi trong
lĩnh vực nhà ở Nhữn^ thành công này một phán là do cố gáng của một số kiến trúc sư
có lương tâm nghồ nghiệp, có người xuất thân từ những trào lưu kiến trúc tiến bộ nên
đã xuất hiện chủ nghĩa công nãng giữa hai cuốc đại chiến; mặt khác là do sự phục hổi
về kính ĩế của các nước (Táy Au) sau chiến tiMnli, sư phát triển kinh tế của các nước
(Bác Au) ít bị chiến tranh đụng chạm đéúì, cùng với việc đáy mạnh việc sản xuất vật
liệu xây dựng hiện đại như thép, kính, bỏ tông.
Một số ví dụ tiêu biểu về mặt nhà ở cũng như quần thể kiến trúc nhà ở lớn, nhỏ
trong thời kv này là :
- Đơn vị nhà ở lớn ở Mácxâv (Pháp) của kiến trúc sư Lơ Coocbuydiê (xem hình 1-8).
- Nhà ở bên hồ ở Sicagô (Mỹ) do kiến trúc sư Mix Van đe Rôổ thiết kế.
- Khu nhà ở thấp táng xây dựng hàng loạt ở Sôm, gần Côpenhaghen (Đan Mạch) của
kiến trúc sư Ấcnơ Giacốpxơn.

- Khu nhà ở Gơruênđal ở Xtôckhôm (Thuỵ Điển).
19
- Khu nhà ở ở Ham Côm Môn (Luân Đôn) của hai kiến trúc sư Giêm Xtiêclinh và
Giêm Gôoan.
- Khu nhà ở Rốc Khemtơn Len ở Luân Đôn ( Anh)
- Quẩn thể nhà ở Rômêô và Giuyliét ở Xtutgác.
Trong đd đáng chú ý nhất là toà nhà ở Mácxây, một tác phẩm có tầm cỡ thế kỷ cùa
kiến trúc sư nổi tiếng Lơ Coocbuydiê. Công trình này là kết tinh một phẩn những tư
tưởng của chủ nghĩa công năng mà Lơ Coocbuydié cho là cần coi trọng vai trò xã hội
của kiến trúc. Lơ Coocbuydiê ndi "Tôi đã đặt ngôi nhà vào tâm của nhị thức cá nhân và
tập thể trong đd tự do cá nhân đã được bảo đảm, tôi đã tổ chức tất cà những cái nià
tập thể có thể mang lại cho con người". Tòa nhà ở lớn này đã thống nhất ở mức độ cao
phúc lợi công cộng và hoạt động cá nhân, được coi là một trong những dẫn chứng đÀu
tiên về hình thức tổ chức những quẩn thể nhà ở cd trong thiết bị phục vụ công C'ộng
mà Ảng ghen đă phác hoạ ra từ thế kỷ trước.
Trong khối nhà ở lớn cao 15 tầng này, ở phần giữa tẩng 7 và tầng 8 tác giả đã bố irí
khu vực phục vụ công cộng với các cửa hàng thực phẩm rau quà, hiệu thuốc, cất tdc, bưu
điện, căng tin, ngân hàng ; ở tầng trên cùng có nhà trẻ, mẫu giáo, vườn hoa và bể bơi,
Người thiết kế đã muốn nâng cao tiện nghi điểu kiện sống cho con người bằng cá(’h
tổ chức thuận tiện các phương tiện phục vụ, rút ngắn khoảng cách và tiết kiệm thời
gian đi lại cho con người, đưa phục-vụ công cộng đến người sử dụng. Bênêvôlô đã nhẠn
xét : "Ý tưởng của đơn vị nhà ở Mác Xây có thể là một ý tưởng cách mạng nhất trong
toàn bộ nền văn hoá quv hoạch đô thị hiện tại".
Trong xã hội tư bản, việc bố trí các loại cửa hàng, công trình thể thao và các hình
thức phục vụ khác trong cùng một khối với những người ở như vậy không phù hỢp với
phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Sau này, phương án nhà ở ở Mácxây của ]jơ
Coocbuydiê còn được xây dựng ở nhiéu nơi trong và ngoài nước Pháp (ở Năngtơ Rơclê,
Briâyla Phorê, Berlin ) với một số thay đổi.
Một trong những ưu điểm của đơn vị nhà ở lớn là có nhiều loại căn hộ khác nhau, bảo
đàm phân phối linh hoạt cho các gia đình có ihành phẩn khác nhau từ hộ độc thân cho đến

gia đình 10 người. Lơ Coocbuydiê còn nhiều phương án xây dựng các thành phố khác, nhưng
những ý định tốt đẹp của ông - trừ trường hợp quy hoạch thành phố Sángdiga cho Ấn Vộ
- không thực hiện được khi quyền sở hữu đất đai xây dựng còn chưa được công hữu hoá.
Như Ảngghen đã viết trong "Vể vấn đé nhà ở" như sau : "Chỉ nhờ giải quyết vấti đề
xă hội, nhờ tiêu diệt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới hình thành khả năng
giải quyết vấn đề nhà ở".
Bên cạnh những loại nhà của người giàu ở Mỹ còn cố một loại nhà khá kỳ lạ, đò lâ
nhà ở ôtô. Người ta ở trong những rơ moóc thiết kế như những gian phòng giành cho
những loại công nhân làm thuê, cd cuộc sông nay đây mai đđ phụ thuộc vào thời vụ.
Nếu nhà này đặt trong các gara mà người ta dự tính xây dựng thì về tâm lý sẽ rất, bất
20
lợi cho người ở trong đó vỉ phải sống trong 2 lần tường. Những người cd tiền thường ở
trong những biệt thự chỉ một, hai tẩng. Nhiều biệt thự cd phòng khách rất lớn và gara
chứa được 2,3 ô tô.
Hiện nay, giá thuê nhà vẫn đè nặng lên thu nhập của người thuê nhà và quyển được
hưỏrg ánh sáng và không khí đầy đủ trong môi trường ở vẫn còn xa ỵời với lớp dân
nghèo trong xă hội tư bàn một số nước. Hai nước cđ sự nghiệp phát triển nhà ở tốt hơn
các nước phương Tây khác là Thuỵ Sỹ (cứ 2,8 người cố một căn hộ) và Thuỵ Điển (với
Cán 3 phòng rộng 78m^ và căn õ phòng rộng 117m^).
Còn ở Pháp chương trình xây dựng nhà ở ở Pari, Bộ thiết bị và nhà ở đã đưa ra cuộc
thi "Nhà ở" để chọn những mẫu nhà. Những kiểu nhà này phải đáp ứng được những 3^êu
cầu có tính chất nghịch lý là phải rẻ tiền, đổng thời lại đáp ứng được điều kiện sóng năm
2000. Một sổ nhà 8 tầng với 4 căn hộ một đơn nguyên và nhà điểm 4 tầng 13 tầng đã được
tiiyốn chọn. Những kiểu nhà này crí mặt bằng chặt chẽ vỉ cẩu thang và phòng phụ trong
điều kiện khí hậu của Pháp có thể không cần chiếu sáng tự nhiên. Khu nhà ở ở Công viên
Rốccăngqiiơ mặt bằng cũng cd đặc điểm như trên nhưng sức biểu hiện tập trung vào
hành lang có lan can mảnh vây quanh nhà nên trông kiến trúc nhẹ nhàng thanh thoát.
Kiến trúc nhà ở Pháp gần đây đang tìm hướng thẩm mỹ mới nên xuất hiện những loại
nhà hình khối trụ và hình sao ba cánh cao tầng, hỉnh hộp với nhiều dạng khác nhau,
hình khối dáng dấp mới mẻ và mẩu sác thu hút sức chú ý nhưng nhiều khi phong cách

tách khỏi nền kiến trúc truyền thống. Những ví dụ gần đây nhất cò thể kể ra trong
thành tựu nhà ở ở Pháp là một số mẫu nhà ở được xây dựng ở Remx.
Khái niệm "Nhà ở xã hội" được nhấn mạnh, tiêu biểu là các ngôi nhà xă hội và nhổm
nhà ở xã hội ở Đức. Ví dụ, ngôi nhà ở xã hội ở Ritơxtraxơ ở Beclin, Đức. Khu nhà ở đại
lộ J-lỏtơ Fooc ở Pari, Pháp cũng được nhác dến như một quần thể ở theo kiểu mới.
1'óni lại, nhà ở tư bản chủ nghĩa phát triển và đổi mới hơn so với xã hội phong kiến.
Tuy vạy, mâu thuẫn giai cấp và sự phân biệt xă hội cũng thể hiện sâu sắc hơn; sự cách
biệt V(ì điều kiện ở giữa các giai tầng lớn hơn và tỷ lệ tiểiì nhà trên tổng số thu nhập
của người dân khá cao.
21
■DDũlũlPO!
1 0 ® ffiĩ
ÌOQÌŨÌŨDÌ
Ễ ũ i ị l S ị
i P Ì l i !
Ẽ O l ị H ị
l o i ị i i
Ì P i ị ^ ì
i o n i i i ì
i i i ị n ị
ĩ ữ ì n ì u ì
l i p i i i ĩ
d liD l D Ị Ị D !
H Ì Ì l ĩ q Ị Ị Ị
ị Ì u i p Ì Ị ụ
iisiliũũlil
[ i H U Ì n o i ĩ Ì i
iisisiũũlĩ>

o

«0 .
jC
c
50
o
<0 -
¥
Ỉ |
lỉ
ịf
ồ ••

'S
I
c
I
00
1

22
1- 'rẩng diltn iróíig. chì có CỘI irụ. c;n- N.inli
có thc iràn v:‘in trong nha.
2- Có ihớ Inni vi('.^n Irôn niái.
3- Tưòng khnng chịLi lực co ílìc linh hoMi
phAn chia khôrìL: i!i.m iù'n iron ^
4- Cộl C(' ihỏ lùi V;'|1> hèn irong. Ulông
n goííi b ỏ irí cù.i s n iư LÌO.
5- Tưíìng ngo:ii c<> ihc hố Iri cừ;i SM
hinh h;‘«ni; lión lục chiL‘11 nỊiiini:
Hình ì.H : Sừm ni^tivâi lâc irotỉị^ kiẽn trúc nhù à

củu Kỉ s : Lư ('(tochtivdic
23
MẶT BẰNG TẨNCÌ 2
Hình ì.10 : Biệt thụ Tutghenhat do Mix Vande Rôê thiết kế ở Brơnô - Tiệp Khắc
24
H. Phổi cành
*'■ Xí'>í ỊÍIIC côri'’
í rình
2lTym7Trrrư7o,,f~Tĩlrí+flrKn-tìmtA. Ãm , ‘
ỉ/ìn/t Ị~ỉỉ : Toà ììhà Lui Carê ~ Pháp
KTS : Aỉìvơn lani/)
25
\ @
1

1
I
! i
!
1 I
3 .
r*«i
•• ^
26

×