Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Mở cửa hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128 KB, 10 trang )

Mở của hội nhập:
Khái niệm:
Hội nhập là gì ? Đó là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu
vực và nền kinh tế thế giới theo luật chơi chung. Xin nói rõ là gắn kết kinh
tế, còn về chính trị , văn hóa chúng ta có những đặc thù riêng cho nên chúng
ta thường dùng khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế...
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là
việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh
tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu
đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới
và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn
bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn
bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính
thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa
đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và
lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện
đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị
trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc
đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây
dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tê, hội nhập kinh tế
thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu
vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên
minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp
độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc
khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy
mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang
hướng tới.
Quá trình hội nhập của Việt Nam:


Điểm xuất phát: trước năm 1986:
Dấu ấn quan trọng: Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc, 9 giờ sáng ngày 20
tháng 9 năm 1977, lễ thượng cờ Việt Nam được chính thức tổ chức tại cửa
chính trụ sở LHQ. Nhưng những năm sau đó sau “ vấn đề Campuchia”
chúng ta lại bị rơi vào thế hầu như bị cô lập, như chúng ta đã biết trong thời
gian này chúng ta chỉ có quan hệ với các nước Xã hội Chủ nghĩa anh em. Và
hậu quả là làm cho nền kinh tế suy kiệt trong nền kinh tế quan liêu bao cấp
khép kín, và là một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Điểm tới: sau năm 1986:
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội VI
(năm 1986) trên cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ
sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 (khoá VI) chỉ rõ: Việt Nam sẵn sàng
mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ
sở cùng có lợi và không có điều kiện chính trị ràng buộc, hạn chế đến mức
thấp nhất cái giá phải trả.
Đại hội VII (năm7/1991) đã thông qua Cương lĩnh của Đảng và chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, đồng thời cũng nêu ra tư tưởng hội nhập
kinh tế quốc tế là: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Cụ thể hoá đường lối Đại hội VII, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3
(khoá VII) đã ra chuyên đề Chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá mà Đại
hội VII nêu ra, đánh dấu bước khởi đầu của tiến trình hội nhập của Việt
Nam.
Đại hội VIII (năm 1996) đã khẳng định chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế,
đó là xây dựng một nền kinh tế “mở” và đẩy nhanh quá trình hội kinh tế khu
vực và quốc tế.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 (khoá VIII) đã nêu nhiệm vụ cụ thể
cho quá trình này là tích cực chủ động xâm nhập và mở rộng vào thị trường

quốc tế vững chắc, tích cực, khẩn trương đàm phán với Mỹ, gia nhập Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO). Có kế hoạch cụ thể để chủ động cam kết gia nhập Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Như vậy, Đại hội VIII và các Nghị
quyết Trung ương khoá này đã chỉ đạo tiến trình hội nhập khẩn trương hơn.
Đến Đại hội IX (năm 2001), tiếp tục khẳng định chủ trương Đại hội VIII nêu
ra và đã đưa ra một khẩu hiệu: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển. Đồng thời, Đại hội IX nhấn mạnh: Việt Nam chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ
môi trường.
Đại hội X nhấn mạnh yêu cầu “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập
vào chiều sâu, ổn định, bền vững”. Điểm mới nữa là Đại hội X đã nêu cao
nhiệm vụ “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “hội nhập sâu
hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song
phương”.
Như vậy, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từng bước được
hình thành cùng với sự phát triển của đất nước.
Các bước đi trong quá trình hội nhập
Đối với bên ngoài: Chúng ta đã thực hiện lần lượt các bước đi cụ thể. Đó là:
Năm 1993 đã khai thông quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); 1/1995 gửi đơn xin gia
nhập WTO. Ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông
Nam Á (ASEAN), đồng thời tham gia vào AFTA và Chương trình thuế quan
ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT); 3/1996 tham gia Diễn đàn Á - Âu
(ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; 15/6/1996 gửi đơn xin gia nhập
APEC; 11/1998 được công nhận là thành viên của APEC; năm 2000 ký Hiệp
định thương mại song phương Việt - Mỹ…

Một số điểm trọng tâm:
Việt nam trong quá trình hội nhập ASEAN.
Khái quát chung về Tổ chức ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(tiếng Anh: Association of Southeast Asia Nations, viết tắt là ASEAN) là một
liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với
các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và
Philippines, để tỏ rõ tình đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với
nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước
thành viên. Sau Hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình
cộng tác kinh tế, nhưng các hợp tác bị thất bại vào giữa thập niên 1980. Hợp
tác kinh tế chỉ thành công lại khi Thái Lan đề nghị khu vực thương mại tự do
năm 1991. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc
hội họp chính thức để trao đổi hợp tác. Đến năm 1999, ASEAN gồm 10
thành viên (riêng Đông Timo chưa kết nạp).
Buổi sáng ngày 28-7-1995, quốc kỳ Việt Nam đã được kéo lên tại Trung tâm
hội nghị Quốc tế tại thủ đô Bandar Seri Begawan, Brunei đánh dấu việc Việt
Nam đã trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN bên cạnh Brunei, Malaysia,
Indonesia, Phillippines, Singapore, Thái Lan và mở đầu cho quá trình thống
nhất, quy tụ cả 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam châu Á vào tổ chức
này. Sau Việt Nam, các nước Lào, Campuchia, Myanmar cũng gia nhập
ASEAN.( Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã gửi thư cho Ngoại
trưởng Brunei, nước Chủ tịch đương nhiệm Ủy ban thường trực ASEAN
(ASC) chính thức đặt vấn đề Việt Nam gia nhập ASEAN).
Cộng đồng kinh tế ASEAN (cam kết chung khi gia nhập).
ASEAN đã nhấn mạnh trên việc hợp tác khu vực trong “ba trụ cột” về an
ninh, văn hoá xã hội và hội nhập kinh tế. Các nhóm khu vực đã có những
thành quả lớn nhất trong hội nhập kinh tế, với mục tiêu tạo lập một Cộng
đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.
Khu vực Tự do Thương mại

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×