Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN cách thức tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi hoạt động kể lại chuyện thần thoại một cách sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.52 KB, 31 trang )

PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU
I / Lý do chọn đề tài:
1. Cơ sở lý luận: Văn học là một môn nghệ thuật không thể thiếu được đối với trẻ
em, nhất là trong chương trình giáo dục mầm non . Trong công tác giáo dục việc
sử dụng phương tiện văn học ngày càng được coi trọng. Vì nó đem đến cho trẻ
những hiểu biết đầu tiên về cuộc sống xung quanh, các tác phẩm văn học nó đem lại
và mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con người, kích thích sự chú ý đến con
người, nó nuôi dưỡng và phát triển trí tưởng tượng sán tạo nghệ thuật và làm cho
vốn ngôn ngữ của trẻ được chau chuốt có cấu trúc ngữ pháp đúng. Do vậy trong
hoạt động dạy phải xác định được mục đích cụ thể của tiết học để có phương pháp ,
biện pháp dạy cho hợp lý, phát triển tư duy sáng tạo, tính tích cực cá nhân, tính độc
lập sáng tạo của trẻ.
Hình tượng văn học nghệ thuật có tác dụng tích cực đến việc giáo dục đạo đức,
nhân phẩm của trẻ ngay tư tuổi ấu thơ và tạo tiền đề cho việc hònh thành nhân cách
con người, nhất là trong thời đại mới. Để góp phần thực hiệnyêu cầu về việc dạy trẻ
kể lại truyện thần thoại một cách sáng tạo là một trong những nhiệm vụ của trường
mầm non. Nó không những giúp trẻ kỹ năng kể chuyện mà còn kích thích ở trẻ
hứng thú “ đọc” truyện và nguyện vọng độc lập sáng tạo trong tiếp nhận văn học.
Nó gợi lên trong lòng trẻ những rung cảm lành mạnh, từ đó hình thành ở trẻ tình
cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Việc dạy trẻ kể lại truyện thần thoại có sáng tạo sẽ
gây thái độ sáng tạo ngôn ngữ ở trẻ. Trên cơ sở đó trẻ say mê sáng tạo trong lĩnh
vực nghệ thuật.
2: Cơ sở thực tiễn
Trong những năm tháng dạy trẻ và luôn được dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi. Nhưng
phạm vi tiếp xúc của trẻ còn hạn chế do một số trẻ chưa qua lớp 3-4 tuổi, dẫn đến
sự hiểu biết của trẻ còn nghèo nàn, cuộc sống của trẻ còn nhiều điều mới lạ mà việc
giúp cho trẻ kể lại chuyện giúp cung cấp cho trẻ những nội dung kiến thức đơn giản
trong trường mầm non việc dạy trẻ kể lại chuyện đã được thực hiện nhưng chưa sâu
sắc. Vì trẻ mới kể lại như thuộc một câu truyện mà chưa có sự sáng tạp trong khi kể.
Vậy nó đòi hỏi sự nỗ lực hoạt động sáng tạo của cô giáo. Trước hết cô phải là người
kể sáng tạo dựa trên những cơ sở khoa học, những biện pháp cụ thể đẻ dạy trẻ kể lại


truyện một cách sáng tạo.
Vậy để nâng caochất lượng giáo dục trong việc dạy trẻ kể lại truyện một cách
sáng tạo. Tôi muốn đưa ra một số biện pháp để dạy trẻ trong môn học “Cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học” đạt kết quả.
II/: Lịch sử vấn đề:
1
vấn đề dạy khi trẻ kể lại truyện đã được các nhà nghiên cứu nhiều nước quan tâm.
Nhưng đối với Việt Nam vấn đề này chưa được quan tâm sâu sắc. Trong quá trình
tìm hiểu chúng tôi mới được tiếp xúc với một số công trình như :
1. “ Đọc và kể truyện văn học ở vườn trẻ” Tác giả
M-KBOGOLIUPKAIA…SEPTSENKÔ: Lê Đức Mẫn dịch NXBGD năm
1976.
2. “ Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ” của Nguyễn Thu Thủy năm1986
3. “ Tiếng Việt Văn học và phương pháp giáo dục “ của Lương Kim Nga-Nguyễn
Thị Thuận- Nguyễn Thu Thủy năm 1988.
4. “ Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học “ của Hà Nguyễn Kim Giang” năm
2002.
5. “ Phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kỳ” của Hà Nguyễn Kim Giang
năm 2002.
Các công trình này đã đề cập đến những vấn đề vị trí văn học trong việc giáo
dục,các phương pháp đọc thơ kể truyện, các tác phẩm chọn làm mẫu trong đó có
những cuốn sách nói về phương pháp , biện pháp , thủ thuật dạy trẻ kể lại chuyện.
Trong các công trình nói trên các tác giả đã thấy được vai trò của văn học đối với
việc giáo dục trẻ mẫu giáo và đã quan tâm đến việc phát triển trí tuệ, tới khả năng
kể chuyện sáng tạo của trẻ nhưng chỉ là thể loại truyện cổ tích .
Với vấn đề này trên cơ sở tiếp thunhững thành tựu, ý kiến của công trình nói trên.
Tôi không có tham vọng gì lớn mà chỉ là bước đầu hệ thống hóa và đưa ra một số
biện pháp dạy trẻ kể lại chuyện thần thoại có sáng tạo dựu trên những phương pháp
chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Tức là cô kể sáng tao và trẻ
kể sáng tạo.

III/ Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở lý luận của các nhà khoa họcliên ngành như: Tâm lý học, giáo dục
học, phương pháp dạy văn học… Và thực tiến đề tài nhằm hệ thống hóa và đưa ra
một số biện pháp dạy trẻ kể lại truyện thần thoại một cách sáng tạo dựa trên những
phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Nhằm nâng cao
khả năng kể chuyện của trẻ giúp trẻ hiểu được cuộc sống diễn ra xung quanh trẻ. Từ
đó trẻ biết cách cư sử với mọi người, mọi vật xung quanh trẻ và đặc biệt là phát
triển toàn bộ nhân cách cho trẻ.
IV / Nhiệm vụ nghiên cứu :
1. Nghiên cứu lý luận: trên cơ sở tổng hợp các tư liệu về lý thuyết có liên quan
đến đề tài để xây dựng cơ sở lý luận cho việc xây dựng một hệ thống các biện pháp
dạy trẻ kể lại chuyện thần thoại một cách sáng tạo.
2. Nghiên cứu thực trạng để thấy được việc thực hiện dạng thức tiết học này đạt
kết quả như thế nào?
2
3. Thực nghiệm : Làm sáng tỏ một số biện pháp mà tôi đã nêu ra.
V/ Khách thể và đối tượng nghiên cứu
1. khách thể nghiên cứu : Quá trình dạy trẻ 5-6 tuổi kể lai chuyện thần thoại ở
trường mầm non .
2. Đối tượng nghiên cứu : Một số biện pháp của giáo viên để phát huy tính sáng
tạo của trẻ.
VI/ Giả thuyết khoa học:
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có nhu cầu và năng lực hoạt động nghệ thuật sáng tạo. Nếu
giáo viên nắm được khả năng này của trẻ mà tìm ra những biện pháp thiết thực
trong quá trình dạy trẻ kể lại chuyện thần thoại thì sẽ kích thích trẻ kể lại chuyện
một cách sáng tạo, phát huy khả năng tự hoạt động văn học nghệ thuật và trí tưởng
tượng phong phú ở trẻ.
VII/ Phương pháp nghiên cứu :
1. Phương pháp tổng hợp, phân tích các tư liệu về lý thuyết có liên quan đến đề tài
như:

- Tâm lý học về vấn đề lĩnh hội và sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
- Giáo dục học mẫu giáo
- Truyện thần thoại với những đặc trưng cơ bản về đặc điểm thi pháp của nó.
2. Phương pháp thực nghiệm :
VIII/ Giới hạn phạm vi nghiên cứu :
Về cách thức tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi hoạt động kể lại chuyện thần thoại
một cách sáng tạo.
PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU :
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I/ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TRẺ MẪU GIÁO LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TIẾP NHẬN CHUYỆN
THẦN THOẠI VÀ KHẢ NĂNG KỂ LẠI CHUYỆN SÁNG TẠO Ở TRẺ.
1. Tư duy: tư duy của trẻ là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản
chất, những mối quan hệ có tính qui luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực
khách quan mà ta chưa biết.
- Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chủ yếu là tư duy trực quan hình
tượng , đứa trẻ phải dựa vào hình ảnh, biểu tượng đã có, những kinh nghiệm đã trải
qua để suy luận ra những vấn đề mới. Vì vậy việc đưa ra một số biện pháp dạy trẻ
kể lại chuyện thần thoại có sáng tạo phải xuất phát tư đặc điểm này của trẻ. Truyện
thần thoại dân gian nó kể lại sự tích các thần, những câu chuyện này vốn do người
thời cổ tưởng tượng ra, để giaỉ thích nguồn gốc, ý nghĩa của hiện tượng tự nhiên xã
3
hội được coi là có quan hệ mật thiết đến sự sống còn của tập thể, thị tộc, bộ lạc như:
trời, đất, gió mưa, sông núi, hạn hán, lũ lụt… các hiện tượng văn học đã góp phần
kích thích sự phát triển tư duy của trẻ và nó phụ thuộc rất nhiều vào người đem văn
học đến cho trẻ (đó là cô giáo ) ở đây cô giáo phải làm sao cho trẻ hiểu được các
hiện tượng thiên nhiên phản ánh trong cuộc sống để trẻ hiểu được và luôn luôn có
mơ ước cuộc sống có nhiều thay đổi và con người luôn thắng được mọi thiên tai. Từ
đó bằng ngôn ngữ của mình trẻ kể chuyện có thể thêm bớt một số tình tiết có thể
thay đổi trong chuyện và trẻ có thể kể theo kiểu sáng tạo riêng của mình.
Vậy để tư duy của trẻ 5-6 tuổi phát triển mạnh trẻ có thể suy luận được nhiều vấn

đề mới hơn. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều quá trình sư phạm thứ nhất (Quá
trình tìm ra cái mới của cô cụ thể: cô kể sáng tạo truyện thần thoại) quá trình này
xuất phát từ thực tế của cách thể hiện trong cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, cường độ, nhịp
điệu, giọng kể của cô thì mới dễ dàng hình dung, thâm nhập vào tác phẩm một cách
tốt nhất. Trong quá trình kể chuyện thì cử chỉ điệu bộ, của cô phải rõ ràng để thể
hiện và xác định rõ nét tính cách của nhân vật.
Ví dụ: truyện “ Sơn Tinh – Thủy Tinh” bằng việc thể hiện sự tức giận của Thủy
Tinh và sự vui mừng của Sơn Tinh qua nét mặt và điệu bộ… Từ đó trẻ biết thể hiện
thái độ đúng đắn với từng nhân vật khi trẻ kể lại câu chuyện này hay câu chuyện
khác. Từ cách thể hiện trên sẽ giúp trẻ lấy đó làm kinh nghiệm phán đoán, nhận
xét, suy diễn theo kinh nghiệm cuae mình làm cho tư duy của trẻ có cơ sở thực tiễn.
Cùng với đặc điểm tư duy dựa vào các hình ảnh, các biểu tượng giúp trẻ có khă
năng vận dụng kinh nghiệm đã học kết hợp với năng lực tư duy hoạt động nghệ
thuật của mình mà trẻ kể lại chuyện một cách sáng tạo.
Ngoài đặc điểm tư duy hình tượng là chủ yếu thì ở độ tuổi này (5-6t) còn xuất
hiện đặc điểm tư duy mới đó là tư duy trực quan sơ đồ. Tức là trẻ dựa vào sơ đồ để
suy luận ra những hình ảnh, biểu tượng , những cái mà trẻ cần tìm tòi, khám phá, tư
duy, trực quan sơ đồ tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại
khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của bản thân
đứa trẻ. Sự phản ánh những mối liên hệ khách quan là điều kiện cần thiết để trẻ lĩnh
hội những tri thức vượt ra ngoài khuôn khổ của việc tìm hiểu từng sự vật riêng lẻ
với những thuộc tính sinh động của chúng để đạt tới tri thức khái quát. Dựa vào đặc
điểm tư duy này thì việc tổ chức cho trẻ kể lại chuyện sáng tạo theo tranh với nội
dung câu chuyện là rất phù hợp. Hơn nữa việc đó còn kích thích tính tích cực tư duy
tính độc lập sáng tạo của trẻ để giúp trẻ kể lại chuyện bằng ngôn ngữ , bằng tư duy
của trẻ chứ không phụ thuộc vào ngôn ngữ của văn bản chuyện.
2. Tưởng tượng : là quá trình nhận thức, phản ánh những cái chưa có trong kinh
nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những hình ảnh đã có.
4
* Đặc điểm tưởng tượng của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là: Tưởng tượng tái hiện và

tưởng tượng sáng tạo .
- Tưởng tượng sáng tạo : là quá trình xây dựng nên những hình ảnh mới chưa có
trong kinh nghiệm cá nhân cũng như chưa có trong xã hội và nó là thành phần
không thể thiếu được trong hoạt động sáng tạo nói chung và sáng tạo văn học nghệ
thuật của con người.
Đối với đặc điểm sáng tạo của trẻ thì ta phải coi “ Sáng tạo” là một sự biến đổi, tạo
ra một cái gì mới trên cơ sở những cái mà trẻ đã lĩnh hội được trong quá trình hoạt
động chứ không phải chỉ bó hẹp trong những phát minh sáng tạo ra những tác phẩm
vĩ đại cuả các vị đại nhân. Tức là thông qua việc kể chuyện sáng tạo của cô mà trẻ
có thể kể lại theo trí tưởng tượng sáng tạo riêng của trẻ.
Có thể nói tưởng tượng của trẻ đã phát triển mạnh mẽ, gặp sự tưởng tượng trong các
loại hình nghệ thuật sẽ là sự gặp gỡ phù hợp và dễ dàng cho trẻ tiếp nhận văn học
thần thoại. Tưởng tượng sáng tạo của trẻ cũng bắt đầu từ những câu chuyện thần
thoại mà cô đã kể cho trẻ nghe. Tuy nhiên việc cô kể cũng phải có sự sáng tạo, việc
kể sáng tạo của cô không phải là điều gì to lớn mà đó chỉ là cách kể kết hợp với việc
sử dụng những biện pháp thông thường nhưng biết cách cải biên, nhào nặn thay đổi
hình thức cho phù hợp, luôn luôn lôi cuốn sự chú ý của trẻ và kích thích khả năng tự
hoạt động nghệ thuật ở trẻ. Từ cách kể sáng tạo của cô cũng như việc sáng tạo hoặc
xây dựng được một vài chi tiết mới theo mô típ thần thoại, để kích thích trí tưởng
tượng sáng tạo của trẻ. Từ đó trẻ có thể kể lại chuyện theo khả năng tưởng tượng
sáng tạo của mình.
Tưởng tượng của trẻ chủ yếu là tưởng tượng tái hiện trẻ tưởng tượng dựa trên
những ấn tượng đã có trước. Tưởng tượng của trẻ mẫu giáo cũng rất giàu và tưởng
tượng còn là nguyên nhân và kết quả, phương tiện của sự lao động sáng tạo của con
người mà chỉ ở con người mới có. Với trí tưởng tượng đã đưa trẻ bay cao, bay xa
đưa trẻ tới những ước mơ, sự khát vọng và là thứ rất quí nó thúc đẩy khả năng sáng
tạo của trẻ. Ví dụ như: Ước mơ làm giảm nhẹ sức lao động như mơ có hạt lúa to và
tự nó lăn về nhà hay mơ con người trẻ mãi không già. Truyện “chú cuội cung
trăng”. Những hình ảnh mà trẻ hình dung, tưởng tượng đều được thể hiện trong các
cử chỉ, điệu bộ của trẻ khi kể lại chuyện trẻ đã thể hiện lại được cách kể sáng tạo

qua lời kể của cô.
Sự tưởng tượng đã giúp con người vượt lên trên thực tại và đạt tới những điều kỳ
diệu. Nó trở thành độnglực của sự phát triển văn hóa và khoa học. Vì vậy cô giáo
cần nhận thấy được vị trí, vai trò của tưởng tượng và phải dựa vào thế mạnh của
chuyện thần thoại cùng với biện pháp kể sáng tạo của mình, để khi kể cô biết khơi
gợi trong lòng trẻ những ước mơ tưởng tượng và cô khéo léo lồng vào hoạt động kể
5
sẽ làm tăng thêm việc hấp dẫn, sinh động văn học nghệ thuật và tính độc lập sáng
tạo của trẻ.
Căn cứ vào đặc điểm tưởng tượng của trẻ mẫu giáo ( 5-6 tuổi) chủ yếu là tưởng
tượng tái tạo. Vì vậy việc kể sáng tạo của cô cũng là yếu tố rất quan trọng để đưa trẻ
làm chất liệu xây dựng những hình tượng mới, những chi tiết hấp dẫn muôn màu,
muôn vẻ. Bởi vì trẻ có kinh nghiệm về kể chuyện, có biểu tượng, hình ảnh về câu
chuyện thì trẻ mới kể lại bằng trí tưởng tượng sáng tạo của mình được. Kinh
nghiệm của trẻ càng nhiều, hình ảnh biểu tượng của trẻ càng phong phú thì tưởng
tượng của trẻ càng đa dạng. Cô sẽ sử dụng một số biện pháp để dạy trẻ kể lại
chuyện sáng tạo nhằm bồi dưỡng tính tích cực tư duy, tính độc lập sáng tạo của trẻ.
3. Ngôn ngữ :
Đặc điểm về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi: Đây là tuổi có khả
năng nắm vững và lĩnh hội được hai hình thức cơ bản của ngôn ngữ đó là ngôn ngữ
nói và ngôn ngữ bên trong. Việc nắm ngôn ngữ trong thực hành và thông hiểu ngôn
ngữ đã giúp cho đứa trẻ có thể hiểu được nhiều điều người lớn nói. Đây là một đặc
điểm vô cùng thuận lợi để đứa trẻ nghe kể chuyện. Từ đó trẻ có thể kể lại chuyện
bằng ngôn ngữ của mình.
Những câu chuyện thần thoại dân gian đã có sự lôi cuốn sự yêu thích của trẻ. Vì
nó đem đến cho trẻ nhiều ước mơ và sự chiến thắng, phù hợp với đặc điểm ngôn
ngữ của trẻ và rất muốn nghe truyện. Nếu như lời kể của cô hấp dẫn, sinh động và
lôi cuốn được trẻ. Bằng những biện pháp kể sáng tạo cô lựa chọn lời kể trong sáng,
ngắn gọn xúc tích, tác động đến tình cảm thẩm mỹ sẽ giúp cho quá trình tiếp nhận
của trẻ được tốt hơn. Trẻ có thể kể lại chuyện bằng ngôn ngữ của trẻ mà không phụ

thuộc vào ngôn ngữ của câu chuyện với lối kể diễn cảm và sinh động, làm sống lại
những hình ảnh, chi tiết cụ thể. Cô giáo đã làm câu chuyện như có “hồn” hơn, như
đang diễn ra trước mặt trẻ. Cô kể sáng tạo trong ngôn với ngữ điệu dí dỏm thể hiện
đúng tính cách nhân vật. Trẻ cũng có thể bắt chước và kể lại giống cô. Ví dụ: “Sơn
Tinh- Thủy tinh” khi kể giọng giận giữ của Thủy Tinh… Như vậy khả năng
thông hiểu ngôn ngữ của trẻ đóng một tầm quan trọng để hiểu ngôn ngữ của người
khác mà cụ thể ở đây là ngôn ngữ thể hiện giọng điệu của cô. Theo tâm lí học “Một
ngôn ngữ càng giàu hình tượng bao nhiêu, càng gởi cảm trẻ bấy nhiêu và càng khơi
mạnh sức tưởng tượng, hình dung và xúc cảm của người ta bấy nhiêu. Khô khan,
những ngôn từ tạo nên gợn sóng suy tưởng bằng những ngôn từ lung linh màu sắc,
hình ảnh thì chắc chắn người nghe có thể nhìn thấy trước mắt những gì ta muốn
miêu tả”.
Ví dụ: trong chuyện “ Sự tích Hồ Gươm”có đoạn nói “không hiểu ai có thanh
gươm quí thế này mà lại để rơi xuống sông nhỉ” và mặt nước có tiếng nói: “ Thanh
6
gươm đó là của ta… về cho Lê Lợi…” với cảnh kể đó sẽ làm trẻ khó hình dung và
không biết tiếng nói đó ở đâu và ai nói.
Vậy cần làm sao có thể để lại trong trí nhơ của trẻ nhưng hình ảnh lung linh sắc
màu mà nó chỉ đủ khuấy động yếu ớt trong tâm hồn trẻ thơ và khi cho trẻ kể lại và
trẻ cũng kể giống như cô. Ngôn ngữ của trẻ lặp lại giống như ngôn ngữ mà cô
truyền đạt. Nhưng nếu như thay đổi ngôn ngữ kể thì nó sẽ sáng bừng trước mắt trẻ
một cảch của thần linh của sự mơ ước và đã thành sự thật, điều đó có tác động to
lớn trong hoạt động kể lại chuyện của trẻ.
Tuy nhiên quá trình sư phạm thứ nhất ( cô kể sáng tạo ) cũng phải xuất phát từ đăc
điểm ngôn ngữ cũng như liên quan trực tiếp đến đặc điểm tư duy, tưởng tượng, chú
ý, trí nhớ và tiếp nhận nghệ thuật của trẻ. Vì thế mà phải thông qua quá trình sư
phạm thứ nhất để tiến hành quá trình sư phạm thứ hai thì mới đạt kết quả tốt được.
Quá trình cô kể sáng tạo là quá trìnhcó liên quan trực tiếp đến biện pháp dạy trẻ kể
lại chuyện thần thoại một cách sáng tạo mà tôi sẽ trình bày ở chương sau:
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi không chỉ lĩnh hội được hai hình thức cơ bản của ngôn ngữ

mà trẻ còn nắm được ngữ âm, ngữ điệu. Trẻ đã biết sử dụng ngữ điệu một cách phu
hợp với nội dung giao tiếp hay nội dung câu chuyện mà trẻ kể. Do đó khi cô kể cho
trẻ nghe thì việc kể đúng giọng điệu của tác phẩm là rất quan trọng. Từ việc cô kể
đúng sẽ giúp trẻ kể lại đúng giọng điệu tác phẩm và sẽ giúp khả năng tưởng tượng
của trẻ thêm phong phú, góp phần hình thành nên những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
của trẻ, lòng yêu thương con người, lòng mơ ước, đức tính dũng cảm, chiến đấu
dũng cảm vì thiên tai… cô sáng tạo trong ngôn ngữ kể giúp trẻ phát triển trí tưởng
tượng. Một yếu tố quan trọng đóng vai trò không nhỏ trong quá trình tư duy sáng
tạo ở nhiều lĩnh vực như: âm nhạc, hội họa, toán, văn…Giúp trẻ có lòng say mê lý
tưởng, một ước mơ tuổi thơ. Ngữ âm, ngữ điệu trong truyện thần thoại cũng dễ
hiểu, dễ bắt chước do đó rất phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ của trẻ. Cùng với việc
nắm giữ ngôn ngữ trong thực hành và khả năng thông hiểu ngôn ngữ thì vốn từ của
trẻ tâưng lên một cách đáng kể ( khoảng 2000- >3000 từ). Trẻ biết sắp xếp các từ
thành một câu, biết dùng các câu nói để diễn đạt nguyện vọng, bày tỏ mong muốn
của mình. Hơn nữa trẻ không chỉ có khả năng nói được các câu đủ thành phần, đúng
ngữ pháp mà còn có khả năng nói được những câu giàu sắc thái biểu cảm.
Tất cả những đặc điểm đó gợi cho ta những liên tưởng tới khả năng kể chuyện
sáng tạo ở trẻ. đặc biệt là kể chuyện thần thoại dân gian.
4. Chú ý – trí nhớ.
Đặc điểm chú ý- trí nhớ của trẻ 5-6 tuổi chủ yếu là không chủ định. Trẻ mẫu giáo
chỉ chú ý, ghi nhớ những gì có thể liên quan đến nhu cầu chính của bản thân trẻ,
những gì gây ấn tượng xúc cảm đối với trẻ. Vì vậy để tổ chức cho trẻ kể lại chuyện
thần thoại có sáng tạo phải căn cứ vào đặc điểm này. Trước hết cô phải có biện
7
pháp , thủ thuật thế nào để lôi cuốn sự chú ý của trẻ. Trẻ có chú ý, ghi nhớ được câu
chuyện thì trẻ mới có thể kể lại được truyện đó. Cô có sử dụng biện pháp kể tạo ra
khả năng, sự hứng thú, gây được sự chú ý làm cho trẻ nhớ lâu thì ở trẻ mới xuất
hiện nhu cầu cần thiết. Phải ghi nhớ nôi dung câu chuyện, nhu cần được tự mình kể
lại chuyện bằng sự ghi nhớ của mình.
Một trong những đặc điểm của chuyện thần thoại dân gian. Nó là sự tưởng tượng

là ước mơ của con gnười, lại được kể bằng một phong cách, một giọng điệu như đã
có thật. Điều này góp phần nên không khí vui tươi hành phúc…Trong truyện thần
thoại nó giúp trẻ ghi nhớ, chú ý của trẻ có chủ định hơn.
Bằng ngôn ngữ biểu cảm, trong sáng, ngắn gọn, cô đọng, xúc tích và giàu hình
ảnh. Trong quá trình kể cô giáo sẽ tác động đến nhu cầu, tình cảm của trẻ, gây hấp
dẫn lôi cuốn trẻ. Chính sự chú ý và ghi nhớ là điều kiện nhào nặn, cải biên sáng tạo
chuyện theo mô hình thần thoại.
ở trẻ mẫu giáo (5-6 t) đã bắt đầu xuất hiện đặc điểm chú ý ghi nhớ chủ định.
Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích, tự giác có kế hoạch, có biện pháp để
hướng chú ý vào đối tượng, nó đòi hỏi một sự nỗ lực nhất định. Thần thoại là thế
giới truyện kể về sự tích các thần nó để giải thích nguồn gốc, ý nghĩa của hiện
tượng tự nhiên và xã hội được coi là có quan hệ mật thiết đến sự sống còn của tập
thể thị tộc, bộ lạc. Thần thoại là sự tự nhiên, có nhân cách hóa tự nhiên, nhiều
truyện có tính chất thần thoại suy nguyên có ý nghĩa là giải thích cắt nghĩa và vừa
có tính chất sử thi kết hợp với tính chất giải thích hiện tượng tự nhiên.
Ví dụ: truyện “ Cóc Kiện Trời” Vậy khi kể cô phải thể hiện được giọng kể trữ tình
và giàu chất hùng ca, sôi nổi kết hợp với cách kể sáng tạo của cô, giúp trẻ “nghe” ra
“nhìn” thấy những tình tiết, tính cách các nhân vật trong truyện và nó còn khái quát
được chiến thắng trong một ước mơ của con người. Từ đó giúp trẻ kể lại được câu
chuyện và kể sáng tạo bằng ngôn ngữ của mình và sự tưởng tượng của mình.
Thế giới thần thoại cũng rất hấp dẫn với trẻ và nó phù hợp với đặc điểm phát triển
tâm lý của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Dựa vào những đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ cô giáo cần kể lại truyện thần
thoại và tổ chức cho trẻ kể lại bằng trí tưởng tượng của mình. Từ đó giúp trẻ say mê
tham gia vào sự hoạt động văn học nghệ thuật.
II/ CƠ SỞ GIÁO DỤC HỌC MẪU GIÁO :
1. Giáo dục thẩm mỹ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục mẫu
giáo nhằm góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ:
Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình tác động có mục đích và có hệ thống vào nhân
cách của trẻ nhằm phát triển năng lực cảm thụ và nhận thức cái đẹp trong nghệ

thuật, trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Giáo dục lòng yêu cái đẹp, đưa cái
đẹp vào trong cuộc sống một cách sáng tạo. Giáo dục nghệ thuật là một bộ phận
8
quan trọng của giáo dục thẩm mỹ . Tuy nhiên việc nhận thức nghệ thuật rất đa dạng
và độc đáo đến mức nó được tách ra trong hệ thống giáo dục như một bộ phận
riêng của nó. Giáo dục trẻ bằng các phương tiện nghệ thuật là đối tượng của giáo
dục thẩm mỹ. nghệ thuật mang tính đa dạng và độc đáo, nó phản ánh tập trung, điển
hình nhất cuộc sống bằng các hình tượng nghệ thuật. Việc giáo dục nghệ thuật có
những khó khăn phức tạp, nhưng rất phù hợp với trẻ em tiền học đường. Bởi tư duy
của trẻ chủ yếu là tư duy trực quan hình tượng.
Nghệ thuật là phương tiện để giáo dục thẩm mỹ, các tác phẩm nghệ thuật cổ điển,
dân gian, nghệ thuật hiện đại là nguồn vui, nguồn khoái cảm thẩm mỹ và nó là tinh
thần của trẻ. Nhiều loại hình nghệ thuật phù hợp với trẻ; âm nhạc, văn học, hội
họa… mỗi loại hình nghệ thuật phản ánh một cách độc đáo cuộc sống và ảnh hưởng
đặc biệt đến sự phát triển trí tuệ và tình cảm của trẻ. Văn học nghệ thuật giới thiệu
với trẻ cuộc sống những con người trung thực, hiền lành, dũng cảm, lòng yêu tổ
quốc, lòng nhân ái… Thông qua những tác phẩm văn học nghệ thuật, phát triển
năng lực sáng tạo nghệ thuật ở trẻ. Từ sự phát triển này sẽ góp phần phát triển toàn
diện nhân cách trẻ.
2 Tiết học ở trường mẫu giáo:
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng năng lực tự hoạt động nghệ thuật của trẻ
chịu ảnh hưởng của những tác động sư phạm. Vì vậy để có thể thúc đẩy khả năng tự
hoạt động nghệ thuật cho trẻ thì họ coi tiết học được tổ chức thích hợp giữa đối
tượng và chủ thể là phương tiện để làm giàu năng lực tự hoạt động cho trẻ.
Vì vậy yêu cầu của cô giáo : Cô không chỉ truyền đạt một cách đơn thuần mà cô
phải biết khêu gợi kích thích, thu hút, giải thích, hướng trẻ tới tự lực tìm tòi, phát
hiện, sáng tạo những tác phẩm. Thông qua tiết học kể chuyện, qua cách thể hiện
nghệ thuật (tự kể lại truyện) sẽ gây ra ở trẻ hứng thú và nguyện vọng độc lập sáng
tạo.
3. Đảm bảo các nguyên tắc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học : Trong quá trình

dạy trẻ kể lại truyện chúng ta cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
* Nguyên tắc gợi cảm thẩm mỹ: Tính gợi cảm thẩm mỹ thể hiện ngay trong từng lời
giảng dạy. Lời kể của cô giáo phải đảm bảo tính thẩm mỹ , hệ thống ngôn ngữ của
cô giáo phải đảm bảo tính thẩm mỹ, hệ thống ngôn ngữ của cô giáo phải chuẩn
mực, trong sáng, gợi cảm, chính xác ngắn gọn, giàu biểu tượng . Hình ảnh vừa
mang tính biểu cảm vừa mang tính hình tượng . Tránh dư thừa ngôn ngữ , để tạo
nên hứng thú ở trẻ, thu hút sự chú ý của trẻ.
* Phát huy tính tích cực của trẻ: cô giáo cần chọn hình thức tổ chức học và vận
dụng phương pháp, biện pháp sao cho phù hợp đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ
để trẻ không chỉ tham gia tiếp nhận toàn diện và thích hợp, biết nhận xét đánh giá
những điều mà trẻ đã lĩnh hội trong tác phẩm văn học. Cao hơn thế trẻ còn biết rung
9
động, biết được cái hay cái đẹp của tác phẩm, biết sáng tạo tác phẩm. Muốn vậy
phải tổ chức cho trẻ hoạt động “ chuyển vào bên trong” để tác phẩm trực tiếp tác
động đến nhân cách trẻ, biến thành nội dung nhân cách bền vững.
* Đảm bảo nguyên tắc vừa sức: vừa sức không phải là phù hợp với “khả năng hiện
có” của trẻ mà hướng tới khả năng có thể đạt được bằng nỗ lực đánh thức tiềm năng
của trẻ. Nhờ các phương pháp, biện pháp tích cực trong dạy văn học. Thực hiện
nguyên tắc vừa sức phải chú ý:
Đảm bảo tính sư phạm trong kế hoạch đào tạo có hệ thống: từ đơn giẩn đến phức
tạp những gì cần thiết cho sự phát triển đúng đắn năng lực của trẻ. Giáo dục đúng
đắn chính là thức tỉnh trong trẻ những gì vốn có. Giúp trẻ phát triển theo định
hướng sư phạm, phải chăng cần phải phát triển theo định hướng sư phạm, phải
chăng càng phát triển ở trẻ trực cảm văn học thông qua việc hình thành ngày càng
nhiều và có chất lượng hơn những biểu tượng và mối liên hệ giữa các biểu tượng
đó. Trẻ càng phát triển thì càng có khả năng kết hợp có mạch lạc, hệ thống hơn
những biểu tượng và ý niệm trong một chỉnh thể tác phẩm .
4. Về vấn đề hoạt động nghệ thuật của trẻ:
Nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng những hình tượng sinh động,
cụ thể gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng tình cảm. Bởi vậy giáo

dục nghệ thuật cho trẻ là một quá trình khó khăn phức tạp . Tuy nhiên trẻ mẫu giáo
đã có thể tham gia vào một số hình thức nghệ thuật : đặt một câu chuyện, thích tự
mình kể lại chuyện, suy nghĩ một bài thơ, bài hát vẽ và nặn. Trẻ tham gia vào các
hình thức nghệ thuật này một cách hồn nhiên và chân thực. Trên cơ sở ấy đứa trẻ đã
hình thành năng lực sáng tạo nghệ thuật . Biểu hiện là trẻ biết phối hợp các tri thức,
ấn tượng của mình để tạo ra một sản phẩm mang tính chất nghệ thuật , những tri
thức, những ấn tượng ấy đã được tích lũy dần trong cuộc sống của trẻ trong câu
chuyện, những cuộn phim…
Trên cơ sở phát triển năng lực sáng tạo nghệ thuật ở trẻ sẽ góp phần kích thích khả
năng trẻ tự tham gia vào hoạt động nghệ thuật. Sáng tạo của trẻ được thể hiện ở chỗ
trẻ thường kết hợp có ý thức các chủ đề khác nhau. Trẻ lấy tư liệu từ truyện thần
thoại, trong các chuyện kể, trong cuộc sống.
Về khả năng tự hoạt động của trẻ thì nhà văn M.Gooski nói: “ Bản thân con người
đã làm nghệ sỹ” trẻ tiếp xúc với tác phẩm nghệ thuật và bộc lộ những xúc cảm đó là
biểu hiện của hoạt động nghệ thuật . Trong tiếp xúc với nghệ thuật , làm theo sáng
kiến chủ động, chủ quan của mình tức là trẻ đã tìm được ra phương thức để thỏa
mãn những nhu cầu tự thể hiện mình trước tác phẩm nghệ thuật và có thể nói là có
thể nói là để có được những tác phẩm đó trẻ phải trải qua một quá trình tích lũy
nhiều vốn văn hóa nghệ thuật nhất định: Trẻ đã nhiều lần được nghe kể chuyện,
nghe đọc thơ, xem tranh, hát, múa … Trong khi chứng minh năng lực tự hoạt động
10
nghệ thuật . Có thể nói trẻ rất có khả năng trong lĩnh vực này. Như vậy văn học là
một loại hình nghệ thuật , tiếp xúc với văn học trẻ nảy sinh hoạt động văn học nghệ
thuật.
Tất cả các đặc điểm trên cho chúng ta thấy trẻ có khả năng kể sáng tạo truyện thần
thoại. Từ việc nghe cô kể chuyện thì chính bản thân trẻ nảy sinh ra chủ định mong
muốn thể hiện các hình tượng do mình nghĩ ra bằng cách xây dựng lắp ghép các ấn
tượng trí tuệ thành một câu chuyện và trẻ thể hiện nó (tự kể) song để phát triển trí
sáng tạo ấy cần phải có quá trình dạy của cô, thông qua đó trẻ biết diễn đạt các hình
tượng và mô tả sự vật khi kể. Bởi khả năng hoạt động sáng tạo nghệ thuật là kết quả

của sự tổ chức hoạt động sáng tạo cho trẻ. Ngoài ra còn đưa trẻ vào tự hoạt động
văn học nghệ thuật chính là đưa trẻ vào hoạt động, phát triển tính tích cực cá nhân,
tính độc lập sáng tạo … hình thành nhân cách trẻ.
III/ CƠ SỞ NGỮ VĂN ( TRUYỆN THẦN THOẠI)
1.Khái niệm truyện thần thoại dân gian:Là truyện kể về sự tích các thần, những
câu chuyện này vốn do người thời cổ tưởng tượng ra, đẻ giải thích nguồn gốc ý
nghĩa của hiện tượng tự nhiên và xã hội được coi là có quan hệ mật thiết đến sự
sống còn của tập thể thị tộc, bộ lạc như: trời đất, mưa gió, sông núi, hạn hán, lũ
lụt…
2. Đặc trưng cơ bản của thần thoại dân gian: ra đời từ sớm đó là từ thời Hùng
Vương nhưng lại làm mất mát đi rất nhiều và nó có kết cấu phần lớn đều ngắn, kết
cục thì đơn giản, ít chặt chẽ và ta có thể phân thành các nhóm:
Nhóm thần thoại về nguồn gốc các loại động thực vật như “Sự tích lúa thần”
Loại thần thoại về nguồn gốc con người: là các dân tộc ở Việt Nam như : truyện “
Ngọc Hoàng nặn người” “ Sự tích trăm trứng”
Loại thần thoại về các anh hùng thời quyết sử, các anh hùng văn hóa, tổ sư của các
nghề như: “Lữ thần người mộc” “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”
Truyện thần thoại nó cũng được lan truyền từ người này sang người khác và từ đời
này qua đời khác bằng cách truyền miệng. Mỗi người được nghe nó, khi kể lại có
thể thêm bớt để kể lại cho người nghe khác. Qua nghe truyện thần thoại giúp cho
con người ta có những ước mơ muốn vươn lên làm chủ thiên nhiên, cải tiến công
cụ, kéo dài tuổi thọ và tăng hạnh phúc… cho con người và từ mơ ước ngày xưa dó
nay đã trở thành hiện thực.
3. Đặc điểm thi pháp của truyện thần thoại dân gian: là truyện có mở đầu có kết
thúc nó giải thích ước mơ ban đầu của tổ tiên chúng ta. Ngoài ra nó còn phản ánh
ước mơ tái taọ của con người.
Trong từng thời thơ ấu cũng giống hư thời cổ xưa của loài người. đó là lúc con
người còn nhiều tính hồn nhiên, chất phát thơ ngây. Trong điều kiện hiểu biết rất ít
ỏi nhưng lai cần tìm hiểu thiên nhiên, xã hội để lao động, đáu tranh cho sự tồn tại và
11

phát triển của mình, con người phải bổ xung vào chỗ chưa hiểu biết bằng tưởng
tượng . Do đó mà truyện thần thoại hấp dẫn đối với trẻ. Khi tư duy của trẻ chưa phát
triển thì tưởng tượng được coi là phương thức rất quan trọng để nhận thức thế giới
qua các câu truyện thần thoại. Các nhân vật trong chuyện được coi là thần thánh và
bao giờ cũng giành được sự chiến thắng. Vì vậy truyện thần thoại nó giúp trẻ thích
thú và khi kể nó có thể kể bằng sự sáng tạo của mình.
Truyện thần thoại là sự lãng mạn sự mơ ước, sự khát vọng của con người đã đánh
thức con người có tinh thần cách mạng với thực tế và đấu tranh chinh phục để thắng
thiện tai. Khái quát hóa những thành công của con người.
Hành động trong thần thoại: Lấy nhân vật làm trung tâm, những hành động của sự
vật được miêu tả qua diến biến của thành công và chiến thắng.
Thời gian thần thoại nó đi từ đời này qua đời khác và có yếu tố hiện thực, là sự
khái quát hóa những thành công của con người. Vì vậy khi kể cô giáo phải đặc biệt
chú ý đến yếu tố này để sáng tạo trong khi kể gây sự chú ý cho trẻ. Cô có thể kéo
dài hoặc rút ngắn thời gian của truyện bằng sự sáng tạo riêng của mình, để trẻ hiểu
và có thể khi kể trẻ biết kể theo cách sáng tạo riêng của mình.
Không gian trong chuyện thần thoại có sự tự nhiên và có nhân cách háo tự nhiên,
nhiều truyện có tính chất thần thoại suy nguyên. Vì vậy khi kể phải thể hiện được
giọng điệu để kể một cách sáng tạo .
Đăc điểm tiêu biểu của truyện thần thoại rất nhiều những hiện tượng kỳ vĩ mỹ lệ
và những chi tiết sống động, hấp dẫn, những cảm nghĩ độc đáo và những phương
pháp , biện pháp , nghệ thuật có giá trị trong nghệ thuật . Qua những đặc điểm này
giúp cho trí tưởng tượng của trẻ phong phú, đa dạng hơn và nó còn kích thích sự
tích tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật , để rẻ biết kể lại truyện thần
thoại có sự sáng tạo
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG DẠY TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI KỂ LẠI
TRUYỆN Ở TRƯỜNG MẦM NON HẠ LONG
Để xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp dạy trẻ kể lại truyện…
một cách sáng tạo ở lớp mẫu giáo lớn, tôi đẫ tiến hành điều tra khảo sát thực trạng
việc dạy trẻ kể lại truyện ở các lớp mẫu giáo tại trường mầm non Hạ Long- thành

phố Hạ Long- tỉnh Quảng Ninh.
I/ KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG DẠY TRẺ KỂ:
1. Mục đích điều tra:
Khi tiến hành điều tra nhằm đánh giá thực trạng tình hình chung của việc dạy trẻ
kể lại truyện ở các lớp mẫu giáo lớn để làm cơ sở nghiên cứu các biện pháp tổ chức
cho trẻ kể lại truyện thần thoại một cách sáng tạo.
2. Các lớp được điều tra ở trường mầm non Hạ Long- TP Hạ Long
12
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi A
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi B
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi C
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi D; mẫu giáo 5-6 tuổi E,G.
3. Thời gian điều tra
Từ ngày 20/3/2005 đến 20/4/2005.
4. Nội dung điều tra : Gồm:
- Việc soạn giáo án của giáo viên
- Tiết kể lại chuyện của trẻ.
5. Phương pháp điều tra ;
Tôi sử dụng phương pháp quan sát để điều tra, đến từng lớp quan sát và dự giờ dạy
trẻ kể lại truyện để xem cách thức của giáo viên ra sao.
II/ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA;
1. Việc soạn giáo án của giáo viên :
Qua điều tra tôi thấy mục đíc yêu cần đặt ra trong các giáo án còn rất chung
chung.Chủ yếu các giáo viên xác định 3 mục đích yêu cầu sau:
- Trẻ hiểu nội dung câu chuyện
- Trẻ hiểu được tính cách và ngữ điệu khác nhau của từng nhân vật
- Trẻ kể lại được truyện theo trình tự nội dung truyện trong 6 giáo án thì có 2
giáo án xác định mục đích yêu cầu sau:
*Giáo án 1: Dạy trẻ kể lại truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh”
+ Trẻ hiểu nội dung truyện.

+ Trẻ phân biệt được giọng điệu khác nhau của các nhân vật
+ Trẻ lại truyện theo từng đoạn.
+ Rèn luyện khả năng kể diễn cảm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
( Nguyễn Thị Loan- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi A)
* Giáo án 2: Dạy trẻ kể lại truyện “ Sự tích bánh chưng bánh dày”
+ Trẻ hiểu nội dung câu chuyện
+ Trẻ kể lại toàn bộ nội dung truyện
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ và giáo dục đạo đức.
( Trần Thị Thu Cúc lớp mẫu giáo 5-6 tuổi D0
Trong tất cả 6 giáo án thì chưa có giáo án nào nhắc tới việc sử dụng phương pháp ,
biện pháp gì trong tiết dạy và chưa có giáo án nào đề cập đến việc giáo dục nghệ
thuật , giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Trong 4 giáo án chưa có giáo án nào đề cập và đặt
ra yêu cần dạy trẻ kể lại truyện sáng tạo .
2. Điều tra một số tiết dạy trẻ kể lại truyện ( Tôi đã dự giờ ghi chép lại) ở trường
mầm non Hạ Long thành phố Hạ Long- Quảng Ninh:
13
- Tiết 1: Dạy trẻ kể lai truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh”ở lớp mẫu giáo lớn A do cô
giáo Nguyễn Thị Loan dạy.
- Tiết 2: Dạy trẻ kể lại truyện “Sơn Tinh- Thủy Tinh” ở lớp mẫu giáo 5tuổi B do
cô giáo Đào Thu Thảo dạy.
Thực trạng kể lại truyện của trẻ ở 2 lớp này; đây là tiết dạy “ dạy trẻ kể lại truyện”
Nhưng thực tế thì rất ít trẻ biết kể lại, cụ thể ở hai lớp mới chỉ có được 10 cháu biết
kể lại còn những trẻ khác thì không thể kể được theo yêu cầu, còn trẻ biết kể lại thì
chỉ kể được ở mức thuộc truyện chứ chưa thể hiện được giọng điệu và tính cách
của từng nhân vật. Vì vậy giờ học chưa thu hút được sự chú ý của trẻ.
Qua 2 tiết dạy trẻ kể lại chuyện “ Sơn Tinh –Thủy Tinh”ở 2 lớp này cô giáo tiến
hành cong hình thức, cách tiến hành chưa gây được hứng thú với trẻ và trong tiết
học các cô chưa sử dụng phương pháp , biện pháp nào. Cô cứ lần lượt cho trẻ kể lại,
trẻ nào kể được thì về chỗ và cô mời bạn khác lên kể. Cô chỉ bao quát lớp và nhắc
trẻ chú ý nghe bạn kể chuyện.

Cụ thể: cô giáo Đào Thu Thảo- lớp 5 tuổi B đã tiến hành như sau: Vào tiết học cô
nhắc trẻ trật tự và cô gọi cháu Nguyễn Minh An lên kể lại chuyện “Sơn Tinh -Thủy
Tinh” cho cả lớp nghe. Khi cháu kể đến doạn Thủy Tinh đến sau và đã bị Sơn Tinh
rước công chúa đi rồi và cháu không kể tiếp nữa. Cô cho cháu An về chỗ và gọi
chua Thục Anh lên kể lại từ đầu mà cô không có biện pháp nào để khuyến khích trẻ
tham gia vào họat động “kể” cô tổ chức tiết học quá đơn điệu dẫn đến tình trạng trẻ
không chú ý trong tiết học. Một số trẻ kể được lại truyện nhưng chỉ ở mức độ thuộc
truyện, chứ chưa có sự sáng tạo trong ngôn ngữ và trong hành động của từng nhân
vật… Khi tiết học kết thúc cô đều chỉ nhắc trẻ kể lại truyện cho ông, bà, bố, mẹ
nghe.
Nhìn chung 2 tiết dạy trên. các cô mới chú ý đến một số trẻ biết kể lại truyện mà
chưa chú ý đến những trẻ nhút nhát, trẻ chưa kể lại được cô chưa chú ý đến việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ và cách thức tổ chức tiết học của mình.
Tiết thứ 3; Dạy trẻ kể lại truyện” Chàng Rùa” ở lớp mẫu giáo 5 tuổi C So với 2
lớp trên thì lớp này có hứng thú trong giờ học hơn. Vì vào bài cô đã gây được sự
chú ý của trẻ qua lời dẫn dắt hấp dẫn của cô như : Câu chuyện hôm nay nói về một
cậu bé Rùa bé tí tẹo như “ cái bát” mà lại giúp được bố mẹ làm mọi việc…đó là nội
dùn câu chuyện gì? “ Chàng Rùa” Vậy bạn nào hãy kể lại cho cô và các bạn cùng
nghe.
Tuy phần giới thiệu đã có sự hấp dẫn và thu hút được sự chú ý của trẻ nhưng trẻ
vẫn kể ở giọng đèu đều, chưa thể hiện được cảm xúc của mình với nhân vật trong
tác phẩm và có trẻ kể được một đoạn thì ấp úng nhưng cô chưa có sự gợi ý để trẻ
nhớ tiếp những đoạn sau và cô chưa quan tâm đến sự sáng tạo trong khi kể của trẻ.
Do đó tiết học chưa gây được hứng thú.
14
Qua 3 tiết học trênở 3 lớp: A, B, C trường mầm non Hạ Long tôi thấy số trẻ kể
được lại truyện còn rất ít chỉ khoảng (20/120) cháu và phần đông là cháu kể lại theo
kiểu thuộc truyện chứ chưa có sự sáng tạo và cách tổ chức các tiết học còn buồn tẻ
với các giọng kể đều đều dẫn đến không gây được hứng thú cho trẻ và không có khả
năng phát huy tính sáng tạo của trẻ.

Tiếp theo tôi dự 3 lớp mẫu giáo C, D, E cùng trường mầm non Hạ Long (3 tiết)
Tiết thứ nhất: Dạy trẻ kể lại truyện: “Sơn Tinh –Thủy Tinh”ở lớp mẫu giáo 5-6
tuổi C do cô giáo : Vũ Mỹ Hạnh.
Qua giờ dạy tôi đã thấy cô sử dụng biện pháp trnh minh họa vứi biện pháp đàm
thoại trong tiết học. Trên thực tế trẻ đã kể lại được nội dung cốt truyện “ Sơn Tinh-
Thủy Tinh” và lời dẫn dắt vào bài của cô đã gây được sự chú ý cho trẻ cụ thể là :
Trong câu chuyện nói về hai chàng trai đều rất tài ba người thì có tài dâng nước lên
cao, còn người lại có tài dần níu lên cao. Trong hai người này đã có một người được
Vua gả công chúa cho. Đó là nội dung của câu chuyện gì? Bạn nào đã thuộc kể lại
cho cô và cả lớp cùng nghe. Cô mời cháu Anh Dũng có năng khiếu kể lại. Sau đó
cho cháu về chỗ ngồi và cô cho cả lớp xem tranh minh họa. Cho trẻ xem tới đâu, cô
đặt câu hỏi đàm thoại tới đó, để trẻ nhớ lại trình tự nội dung cốt truyện.
Sau đó mời cháu khác kể lại. Tiết học này trẻ đã có hứng thú khi được kêt lại toàn
bộ câu chuyện.
Tiết thứ hai: Dạy trẻ kể lại truyện “Sự tích bánh Chưng bánh dầy” ở lớp mẫu giáo
5-6 tuổi D do cô giáo: Trần Thu Cúc.
Trong tiết học cô sử dụng biện pháp đàm thoại. Cụ thể cô hỏi trẻ. Hôm trước cô đã
kể cho cả lớp mình nghe truyện gì? Ai là người đã nghĩ racách làm 2 thứ bánh “
Bánh chưng- bánh dầy”? Hai thứ bánh đó được tế trời đất vào ngày nào hàng năm?
(Ngày hội đầu năm, ngày tết) Lang Liêu đã được nhà vua cho làm gì? Ai lên kể lại
cho cô và cả lớp cùng nghe. ở tiết này trẻ đã kể được lại truyện “ Sự tích bánh
chưng- bánh dầy” theo trình tự nội dung cốt truyện. Tuy nhiên vẫn chưa có sự sáng
tạo . Nhưng có cháu đã biết tóm tắt: Ví dụ:
Ngày xưa ở nước ta, vua Hùng thứ 6 có một người con trai tên là Lang liêu, còn
các hoàng tử kia đều văn hay võ giỏi nhưng lại không thích lao động. Chỉ có Lang
Liêu là chăm chỉ hiền lành. Chàng đem vợ con về quê cuốc nương làm rẫy… Do đó
mà lời kể của trẻ đã thu hút được sự chú ý của các bạn. Trẻ kể xong cô cho các bạn
nhận xét và nhắc trẻ về nhà kể lại cho ông bà, bố mẹ nghe.
Tiết thứ 3: Dạy trẻ kể lại truyện: “ Sự tích bánh chưng- bánh dầy” do cô giáo Phạm
Thị Quyên dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi G.

Trong tiết họccô đã sử dụng biện pháp thi đua, biện pháp dùng tranh minh họa kết
hợp vớp đàm thoại. Trên thực tế trẻ ở lớp này khi kể đã có sự sáng tạo với thủ thuật
của cô để cuốn hút trẻ.
15
Cụ thể: Cô hỏi trẻ: Bạn nào cho cô và các bạn cùng biết. Trong ngày tết mọi nhà
đều gói bánh gì để thắp hương? ( bánh chưng) có nhà còn làm cả bánh gì nữa?
( bánh dầy). Bánh này ăn có ngon không? cháu có biết ai là người nghĩ ra cách làm
hai thứ bánh này không? . Bây giờ phong tục của nhân dân ta đến tết gói bánh gì?
( làm bánh gì?) Làm bánh chưng thế nào? Làm bánh dầy thế nào?
Mời 1 bạn lên kể cho cô và các bạn cùng nghe chuyện “ Sự tích bánh chưng- bánh
dầy” Cô mời cháu Hà Phương lên kể tới đoạn… “ đến ngày hội lớn đầu năm. Ai tìm
được của ngon vật lạ nhất đem đến để tế trời đất thì sẽ được nhường ngôi. Khi Hà
Phương kể xong cô động viên và khuyến khích để trẻ cố gắng kể lần sau hay hơn. ví
dụ Bạn Hà Phương kể rất hay nhưng nếu bạn thể hiện giọng điệu phù hợp từng nhân
vật thì câu chuyện còn hay hơn, hấp dẫn hơn nữa đấy. Cô kể mẫu một câu sau đó
gợi ý vàmời trẻ khác lên kể lại truyện. Cô cho trẻ xem tranh minh họa và đặt câu hỏi
đàm thoại với trẻ để giúp trẻ nhớ lại và tự tin hơn khi kể. Ví dụ; cho trẻ xem bức
tranh vẽ cảnh ngày tết có bánh chưng- bánh dầy và hỏi trẻ: đây là bán gì? do ai nghĩ
ra? Làm như thế nào để được bánh chưng? Sau đó cô mời trẻ khác kể tiếp theo tranh
cho đến hết câu chuyện.
Nhìn chung trẻ lớp này số đông các cháu hứng thú với tiết học và một vài trẻ đã kể
có 1 chút sáng tạo trong ngôn ngữ. Tuy nhiên trẻ chưa hình tượngể hiện được giong
điệu rõ ràng của từng nhân vật trong chuyện. Cô giáo đã có sự động viên khuyến
khích trẻ kịp thờo. Vì vậy mà trẻ đã tự tin hơn trong tiết học và tham gia tích cực
trong hoạt động “kể”
III/ Kết quả điều tra :
1. Ưu điểm:
- Về phía cô: Các cô đã chú ý đến việc soạn giáo án cho tiết dạy, một vài cô đã
chú ý đến khả năng kể chuyện của trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ và một vài cô
đã có thủ thuật cuốn hút trẻ vào tiết học.

- Về phía trẻ: Một số trẻ đã biết thực hiện nhiệm vụ học tập của mình, biết chú ý
nghe cô, nghe bạn kể lại truyện và có một vài trẻ kể chuyện có sự sáng tạo trong
ngôn ngữ .
2. Nhược điểm:
- Về phía cô: Các cô soạn giáo án còn rất chung chung, chủ yếu là soạn dựa vào
cuốn “ Chương trình chăm sóc giáo dục và hướng dẫn thực hiện.” Đây là cuốn sách
mang tính chất là phương hướng chỉ đạo chung. Mục đích yêu cầu đặt ra cho tiết
học cũng rất chung chung.
Vì vậy đòi hỏi môic giáo viên khi soạn giáo án cần phải có sáng kiến của mình.
Các cô mới chú ý đến việc ổn định tổ chức lớp và chú ý đến những trẻ mạnh dạn
biết kể lại chuyện mà chưa quan tâm chú ý tới cháu còn nhút nhát và khả năng tiếp
thu kém.
16
Trong tiết học các cô chưa xác định được với tiết này thì cần sử dụng phương pháp
, biện pháp nào cho phù hợp để giúp trẻ nhận thức tốt.
Khi cô sử dụng biện pháp đàm thoại thì những câu hỏi mà cô dặt ra cong rất đơn
giản, chưa khai thác được khả năng sáng tạo của trẻ.Ví dụ: truyện “ Sơn Tinh- Thủy
Tinh” Cô hỏi? Bỗng nhiên có mấy người cùng một lúc đến xin thi tài ? đó là ai?
Nhưng cũng với câu hỏi về ý đồ đó thì có cô lạihỏi cách khác, để gây kích thích trí
tưởng tượng của trẻ và khả năng tái tọa truyện của trẻ bằng ngôn ngữ của chính bản
thân trẻ.
Ví dụ : Cùng một lúc có mấy chàng trai đến xin thi tài? chàng trai đó có tên là gì?
và họ đã trổ tài ra sao?
Nhìn chung các câu hỏi mà cô đặt ra chưa thể hiện được sự gợi mở để trẻ có thể dẽ
hình dung, tưởng tượng và sống với tác phẩm , với câu chuyện thần thoại mà mình
được nghe. Do vậy khi trẻ kể lại truyeenj trẻ cũng chưa có sự sáng tạo, thậm chí nếu
trẻ có thể kể khác đi một chút nhưng nội dung truyện vẫn không thay đổi thì cô giáo
lại uốn nắn để trẻ kể lại giống như trong sách.
Phần đông các cô chưa đặt ra được biện pháp kích thích mọi trẻ đều được tham gia
vào hoạt động học tập. Do đó mà tiết học trở nên nhàm chán và buồn tẻ không gây

được hứng thú cho trẻ.
- Về phía trẻ: Phần đông trẻ chưa chú ý vào tiết học, khả năng kể lại truyện của trẻ
còn kém ( chủ yếu là kể theo kiểu thuộc truyện)
3. Nguyên nhân đẫn đến thực trạng điều tra trên.
Trong quá trình điều tra thực trạng kể lai truyện của trẻ. Tôi có dự các tiết học của
cô giáo trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe. Qua các tiết này tôi nhận thấy các cô đều
rơi vào tình trạng kể như thuộc truyện, kể với giọng đều đều và kể lần 1, lần 2, lần 3
đều như nhau.
Khi kể cử chỉ điệu bộ của cô chưa thể hiện được, ngữ điệu của cô chưa phù hợp
diễn biến câu chuyện, chưa thể hiện rõ giọng điệu của từng nhân vật trong chuyện,
cô kể chưa có sự sáng tạo và chưa được diễn cảm .
Khi cho trẻ kể lại truyện cô có sử dụng biện pháp đàm thoại, những câu hỏi đặt ra
chưa phong phú.
Nhìn chung các cô chưa nhìn thấy tầm quan trọng, vị trí vai trò của hoạt động văn
học nghệ thuật. Trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Do vậy mà chưa xem trẻ
không chỉ là một chủ thể tiếp thu mà còn là một chủ thể sáng tạo. Giáo viên chưa
nắm vững được phương pháp ,biện pháp dạy trẻ kể lại truyện. Do đó mà khi tổ chức
cho trẻ hoạt động còn lúng túng và cứng nhắc.
Các cô chưa hiểu rõ vai trò của truyện thần thoại đối với khả năng sáng tạo của
trẻ. Cho nên chưa tạo điều kiện và có được những biện pháp nâng cao khả năng làm
việc độc lập sáng tạo của trẻ, giúp trẻ hứng thú trong tiết học.
17
Trương mẫu giáo là môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện.
Vì trẻ có khả năng tự hoạt động nghệ thuật sáng tạo. Cách thức tổ chức tiết học ở
trường mẫu giáo cũng có vai trò rất lớn trong quá trình giáo dục trẻ. Tổ chức làm
sao để phat huy được ở trẻ tích cực độc lập sáng tạo trong mọi hoạt động, nhất là
hoạt động văn học nghệ thuật .
Qua việc điều tra sư bộ thực trạng trong việc tổ chức cho trẻ kể lại truyện thần
thoại ở một trường mầm non, kết hợp với khả năng phát triển của trẻ. Tôi thấy rằng
cần thiết phải có các biện pháp để giáo viên sử dụng linh hoạt trong việc tổ chức

cho trẻ kể lại truyện. Kích thích trẻ kể sáng tạo và phát huy tính tích cực của tư duy
và khả năng tự hoạt động nghệ thuật của trẻ.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI KỂ LẠI
TRUYỆN THẦN THOẠI MỘT CÁCH SÁNG TẠO.
I/ QUAN NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO: là bất cứ hoạt động nào của con người,
tạo ra một cái gì mới không kể rằng cái được tạo ra ấy là một vật nào đó của thế
giới bên ngoài hay một cấu tạo nào đó của trí tuệ hoặc tình cảm, chỉ sống và biểu lộ
trong bản thân con người.
Bộ não không chỉ là một cơ quan giữ lại và tái hiện kinh nghiệmcũ của chúng ta.
Nó còn là cơ quan phối hợp chỉnh lý một cách sáng tạo và xây dựng lên những tình
thế mới và hành vi mới bằng những yếu tố của kinh nghiệm cũ đó. Nếu như hoạt
động của con người chỉ hạn chế ở việc tái hiện cái cũ thì con người chỉ là một sinh
vật chỉ hướng về quá khứ và chỉ biết thích ứng với tương lai trong chừng mực mà
cái tương lai đó tái hiện cái quá khứ này. Chính hoạt động sáng tạo của con người
đã làm cho con người trở thành một sinh vật hướng về tương lai của mình.
Hoạt động sáng tạo dựa trên năng lực phối hợp của bộ náo chúng ta dược khoa
học tâm lý gọi là tưởng tượng. Thường thường nói đến tưởng tượng hoặc huyền
tưởng ta không hoàn toàn hiểu đúng từ những từ đónhư chúng ta đẫ hiểu được
trong khoa học. Theo thói quen sử dụng hàng ngày ta thường gọi tưởng tượng hay
huyền tưởng là tất cả những gì không có thực, không phù hợp với hiện thực. Do đó
không thể có một ý nghĩa thực tế nghiêm chỉnh nào. Nhưng thực ra trí tưởng tượng
là cơ sở của bất cứ hoạt động sáng tạo nào biểu hiện hoàn toàn như nhau trong mọi
phương diện của đời sống văn hóa. Nó làm cho một sáng tạo nghệ thuật khoa học
và kỹ thuật có khả năng thực hiện.
Theo quan điểm thông thường thì sáng tạo là lĩnh vực của một số ít người, những
thiên tài, những tài năng đã sáng tác ra những tác phẩm vĩ đại. Tìm ra những phát
minh khoa học lớn hoặc nghĩ ra một cải tiến nào đó trong kỹ thuật ở đây tôi nhất trí
với quan điểm của Vưgôtxki “ Sáng tạo thực ra không chỉ có ở những nơi tạo ra sản
18
phẩm lịch sử vĩ đại mà ở khắp nơi nào dù có con người tưởng tượng ,phối hợp, biến

đổi ra một cái gì mới, dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa so với sáng tạo của những bậc
thiên tài”. “Tuyệt đại đa số những phát minh là do những người vô danh làm ra.
Như thế một quan điểm khoa học về vấn đề này buộc ta phải xem xét sự sáng tạo là
một qui luật hơn là một ngoại lệ”. Tất nhiên những biểu hiện cao nhất của sáng tạo
cho đến nay vẫn là một số ít thiên tài chọn lọc trong nhân loại, nhưng trong đời
sống hàng ngày xung quanh ta sáng tạo là một điều kiện cần thiết của sự tồn tại và
tất cả những gì vượt qua ngoài khuôn khổ cũ dù chỉ một nét của cái mới thì nguồn
gốc phát minh của nó đều do quá trình sáng tạo của con người.
Đối với trẻ mẫu giáo hoạt động sáng tạo được thể hiện trong mọi hoạt động: hoạt
động vui chơi, hoạt động học tập…
Trong hoạt động học tập, sự sáng tạo được thể hiện ngay trong quá trình học mà
chúng ta có thể quan sát được qua hoạt động, qua diễn đạt ngôn ngữ của trẻ, Đặc
biệt nó được thể hịên rõ nhất thông qua hoạt động văn học nghệ thuật ở trẻ như :
đọc , thơ, kể chuyện, đóng kịch…
2. Kể lại truyện thần thoại một cách sáng tạo có thể được quan niệm như sau:
Vẫn giữ nguyên nội dung cốt truyện, làm phong phú cốt chuyện hay nói cách khác
kể chuyện sáng tạo không làm biến dạng thần thoại. Sáng tạo không có nghĩa là
sáng tạo ra một văn bản thần thoại mới mà căn cứ vào những yếu tố động, Biến đổi
của truyện để sáng tạo trong kể. Sáng tạo trong diễn đạt ngôn ngữ kể làm câu
chuyện thêm sinh động, hấp dẫn hơn những nội dùn cốt chuyện thì không thay đổi.
Như vậy ở đè tài này tôi nhằm hệ thống hóa những biện pháp và xây dựng một số
biện pháp mới dựa trên các phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học : Trao đổi, gợi mở, sử dụng các phương tiện đồ dùng trực quan…
giúp trẻ sáng tạo truyện thần thoại dân gian làm cho câu chuyện thêm phong phú về
hình thức, sâu sắc về nội dung và nâng cao hiệu quả giáo dục , sáng tạo gắn với
hoạt động kể. Do đó sáng tạo được giới hạn trong hoạt động của chủ thể và được
thể hiện trong quá trình vận động những đặc trưng thi pháp của thần thoại dân gian.
Mức độ sáng tạo được thể hiện ở chỗ: làm biến đổi, làm khác, làm mới ít nhiều bản
kể.
II/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ KỂ LẠI TRUYỆN THẦN THOẠI

DÂN GIAN CÓ SÁNG TẠO .
Một trong những vấn đề quan trọng nhất của giáo dục học mẫu giáo cũng như
tâm lý học mẫu giáo là vấn đề sáng tạo ở trẻ. Sự phát triển năng lực sáng tạo và ý
nghĩa của công việc sáng tạo đổi mới, sự phát triển chung và sự trưởng thành của
trẻ.
đẻ thực hiện được vấn đề quan trọng của giáo dục học mẫu giáo chúng ta cần
hoàn thiện cách thức tổ chức tiết học và vận dụng các biện pháp thích hợp để kích
19
thích tính tích cực tư duy, tưởng tượng nghệ thuật và khả năng sáng tạo trong tiết
học “ Dạy trẻ kể lại truyện thần thoại” ở lớp mẫu giáo lớn.
Theo từ điển tiếng Việt “ Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ
thể” như:
Mục đích đề tài đặt ra.ở đề tài này tôi hệ thống hóa và đưa ra một số biện pháp mới
dựa trên những cơ sở khoa học liên ngành, các phương pháp chung cơ bản cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học để giúp trẻ kể lại truyện sáng tạo .
Có nhiều phương pháp , biện pháp có thể sử dụng trong tiết học “ Dạy trẻ kể lại
truyện” ở đây tôi chủ yếu dựa trên 2 phương pháp cơ bản: phương pháp trao đổi gợi
mở, và phương pháp sử dụng các hình tượng trực quan.
Trao đổi gợi mở với trẻ về một vấn đề trong tác phẩm văn học, phương pháp này
nhằm kích thích hoạt động nhận thức của trẻ. Nó đòi hỏi phải lôi cuốn trẻ tham gia
trao đổi, bộc lộ suy nghĩ cảm nhận riêng của mình. Nói cách khác đi là khêu gợi để
trẻ bộc lộ cảm thụ của cá nhân tự do, hồn nhiên. Dựa vào phương pháp trao đổi, gợi
mở chúng tôi xây dựng một số biện pháp sau:
1. Biện pháp trao đổi gợi mở bằng hệ thống câu hỏi dựa vào các mốc, sự kiện, tình
tiết chính của chuyện.
Mục đích của biện pháp này là giúp trẻ nhớ lại trình tự côt truyện và kể bằng ngôn
ngữ, trí tưởng tượng sáng tạo của mình.
Ví dụ: Truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh” ta có thể trao đổi với trẻ như : Có một
nàng công chúa mà biết bao nhiêu chàng trai muốn được cầu hôn…
Bằng những câu hỏi khái quát gợi mở dần dần trẻ nhớ vào một số mốc, sự kiện

tình tiết để kích thích khả năng tái hiện và sáng tạo ở trẻ như:
Truyện kể về vua Hùng thứ 18 có một người con gái xinh đẹp?
Vua đã mở hội kến rể ra sao?
Cuộc thi tài của Sơn Tinh và Thủy Tinh diễn ra như thế nào?
Ai là người đón được công chúa đi ?
Thủy Tinh đã tức giận như thế nào?
Hai người đã tranh đấu ra sao ?
Ai là người thắng cuộc ?
Bây giờ tháng bảy tháng tám hàng năm thiên nhiên có hiện tượng gì?
2. Biện pháp sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ theo hành động nhân vật trung tâm.
Hoạt động nhân vật trong truyện là nội dung cốt truyện. Cô giáo có thể trao đổi
với trẻ theo hoạt động của nhân vật chính diện hoặc hoạt động của nhân vật mà để
trẻ tự kể lại những chuỗi hành động của nhân vật mà để trẻ tự kể.
Ví dụ: Truyện “ Sự tích bánh chưng- bánh dầy” cô giáo có thể trao đổi với trẻ
theo hoạt động nhân vật như nhân vật Lang Liêu cô giáo có thể hỏi:
Lang Liêu là người như thế nào?
20
Lang Liêu đã làm lễ vật gì để để dâng vua cha tế trời đất nhân ngày đầu
năm?
3. Trao đổi với trẻ theo những mô típ giúp trẻ nhớ lại nội dung cốt truyện và kích
thích trẻ kể lại truyện có sáng tạo.
Ví dụ: Truyện “Sơn Tinh –Thủy Tinh” cô giáo có thể trao đổi theo một mô típ
như:
Mô típ: thử tài
Mô típ: trổ tài
Mỗi mô típ cô giáo có thể trao đổi với trẻ theo những câuhỏi khác nhau.
Mô típ thử tài:
Thủy Tinh ra oai như thế nào?
Sơn Tinh ra oai làm phép gì?
4. Trao đổi với trẻ theo hệ thống các câu hỏi hướng vào các yếu tố thần kỳ.

Tùy đối tượng trẻ mà ta đặat câu hỏi sao cho phù hợp. Tuy nhiên câu hỏi phải luôn
kích thích sự sáng tạo trong diễn đạt ngôn ngữ và hoạt động kể của trẻ.
Ví dụ : Truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh” Yếu tố thần kỳ là phép lạ cuả Thủy Tinh.
Với trẻ kém cô giáo có thể hỏi:
Thủy Tinh ra oai như thế nào?
Trên đay là một số biện pháp dựa vào phương pháp trao đổi gợi mở để dạy trẻ kể
lại truyện. Tuy nhiên tùy từng tiết học và đối tượng trẻ mà cô giáo sử dụng cho phù
hợp để luôn gây hứng thú đối với trẻ. Kích thích khả năng kể lại truyện có sáng tạo
và phát triển ngôn ngữ mạch lạc, trí tưởng tượng phong phú ở trẻ.
Hình tượng trực quan rất quan trọng đối với trẻ. Bởi tư duy của trẻ chủ yếu là trực
quan hình tượng , bản thân nội dung cốt truyện là những yếu tố gây hứng thú hấp
dẫn và lôi cuốn trẻ, gây cho trẻ hứng thú và thích được tự mình kể chuyện . Khi có
đồ dùng trực quan để minh họa cho câu chuyện mà trẻ kể thì nó không chỉ giúp trẻ
nhớ truyện, kể lại truyện, mà nó còn giúp trẻ kể lại truyện có sáng tạo.
5. Tranh được sắp sếp theo trình tự cốt truyện:
Cô giáo có thể tiến hành cho trẻ xem lần lượt những bức tranh để trẻ nhớ lại và kể
lại truyện theo trình tự
6. Sử dụng tranh không theo trình tự cốt truyện Cô giáo có thể sắp sếp các bức tranh
xen phần kết, phần giữa, phần đầu truyện… Như truyện” Sự tích bánh chưng bánh
dầy”
Lang Liêu dâng lễ vật lên vua cha.
Lang Liêu cùng vợ con làm bánh.
Lang liêu cùng bà con gắt lúa.
7. Sử dụng một hoặc một số bức tranh tiêu biểu để thể hiện nội dung chính của tác
phẩm .
21
8. Sử dụng sa bàn:
Ví dụ: truyện “ Sơn Tinh Thủy Tinh” Cô giáo có thể hiện sa bàn để giúp trẻ nhớ
lại truyện và trẻ tự kể lại truyện như : Có một dãy núi, một khu biển, mộttòa lâu đài
và một số con vật như voi, gà…

Ngoài ra ta còn có thể sử dụng 1 số biện pháp khác để đưa trẻ vào tự hoạt động
văn học nghệ thuật cụ thể là: trẻ tự kể truyện và tự kể có sự sáng tạo .
Cô kể 1 đoạn diễn cảm , kích thích trẻ nhớ lại truyện để trẻ kể tiếp.
Cho trẻ nhận xét bạn kể, khích lệ trẻ thi đua kể hay hơn bằng hệ thống ngôn ngữ
của mình.
Khi trẻ kể cô giáo luôn chú ý, khêu gợi hớng thú và khả năng tích cực tư duy sáng
tạo của trẻ. bạn kể đã hay chưa? Vì sao? Bạn kể hay nhất đoạn nào? Cháu có thích
đoạn bạn vừa kể không? tại sao?
Tất cả các biện pháp cô giáo đều luôn luôn phải hướng trẻ thi đua để trẻ kể hay
hơn, bằng cách cho trẻ hướng vào ngôn ngữ trong kể chuyện sáng tạo vào những
đặc điểm thi pháp của truyện thần thoại, sáng tạo trong hoạt động kể( cử chỉ, điệu
bộ trên nét mặt, ánh mắt, sự giao tiếp với người nghe để bộc lộ thái độ tình cảm với
người kể) Sáng tạo trong diễn cảm lời kể cho phù hợp với nội dung. Đặc biệt là chú
ý hướng trẻ sáng tạo các chi tiết làm phong phú truyện.
Vậy việc dạy trẻ kể lại truyện thần thoại có sáng tạo có thể sử dụng kết hợp hài
hòa, hợp lý các biện pháp trên. Tuy nhiên không phải tiết nào cô cũng sử dụng hết
các biện pháp đó mà cô phải sử dụng linh hoạt và thay đổi biện pháp trong các tiết
học cho phù hợp với khả năng của trẻ.
CHƯƠNG IV
THỰC NGHIỆM VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
I/ Thực nghiệm :
1. Địa bàn thực nghiệm : Trường mầm non Hạ Long- Thành phố Hạ Long- tỉnh
Quảng Ninh. Nơi mà địa bàn chủ yếu phần đông là công nhân và nội trợ buôn bán.
2. Yêu cầu đối với thực nghiệm .
- Chia 2 nhóm đối tượng.
+ Nhóm đối chứng (20cháu)
+ Nhóm thực nghiệm (20 cháu)
- Trẻ ở hai nhóm này có cùng trình độ.
- Nội dung bài dạy như nhau
- Biện pháp sử dụng khác nhau.

- Các yếu tố tâm lý tương đương.
3. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm: Gồm 4 mức độ
22
- Mức độ 1: Trẻ có thể tái tạo lại truyện hoàn toàn bằng trí nhớ, ngôn ngữ và trí
tưởng tượng của trẻ.
- Mức độ 2 : Trẻ bước đầu biết sáng tạo ở mỗi số các chi tiết hoặc sáng tạo ở hành
động nhân vật, ở ngôn ngữ kể truyện… cho phong phú gây ra sự hồi họp đối với
người nghe.
- Mức độ 3 : Trẻ nhớ trình tự nội dùn truyện, thuộc truyện.
- Mức độ 4 : Trẻ không nhớ được truyện
4. Tiến hành thực nghiệm :
4.1 Mục đích thực nghiệm
Sử dụng một số biện pháp tổ chức cho trẻ kể lại truyện có sáng tạo ở lớp mẫu giáo
lớn để xem kết quả biểu hiện như thế nào?
4.2. Nội dung thực nghiệm : Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài tôi tiến hành hai thực
nghiệm sau:
Thực nghiệm 1: Dạy trẻ kể lại truyện :
“ Sơn Tinh Thủy Tinh”
Thực nghiệm 2: Dạy trẻ kể lại truyện:
“ Sự tích bánh chưng bánh dầy”
4.2.1 Những điều cần chú ý trước khi tổ chức cho trẻ kể lại truyện.
- Xác định mục đích yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục cần đạt trong tiết học.
- Đề ra một số biện pháp tổ chức.
- Theo dõi mức độ kêt lại chuyện sáng tạo của trẻ qua 2 thực nghiệm
Mục đích yêu cầu chung.
- Trẻ kể được chuyện “ Sơn Tinh Thủy Tinh” “ Sự Tích bánh chưng bánh dầy”
- Trẻ hứng thú tự nguyện, tích cực có nhiều sáng tạo trong khi kể.
- Giáo dục trẻ tình cảm thẩm mỹ , tình cảm đạo đức, tính kiên trì, sự nỗ lực
của bản thân để hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
- Rèn luyện kỹ năng kể diễn cảm và khả năng ghi nhứ coa chủ định ở trẻ.

- Phát triển ở trẻ tính tích cực tư duy, tính độc lập sáng tạo , trí tưởng tượng ,
ngôn ngữ mạch lạc và khả năng tự hoạt động nghệ thuật .
4.2.2. Một số biện pháp trong hai thực nghiệm : như đá trình bày ở ( chươngIII)
tôi tiến hành thực nghiệm với những biện pháp sau:
Biện pháp 1 : Sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ bằng hệ thống câu hỏi dựa vào các
mốc, sự kiện, tình tiết của truyện
Biện pháp 2: Sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ theo hành động nhân vật trung tâm.
Biện pháp 3 : Trao đổi bằng hệ thống câu hỏi hướng vào yếu tố thần kỳ.
Biện pháp 4 : Sử dụng một hoặc một số bức tranh tiêu biểu thể hiện nội dùn chính
của tác phẩm .
biện pháp 5 : Cô kể một đoạn diễn cảm , kích thích trẻ nhớ lại truyện để trẻ kể tiếp.
23
Biện pháp 6 : Sử dụng sa bàn.
biện pháp 7 : Cho trẻ nhận xét bạn kể, khích lệ trẻ thi dua kể hay hơn bằng hệ
thống ngôn ngữ của mình.
Trên đay là một số biện pháp mà tôi sử dụng trong thực nghiệm . Tuy nhiên
không nhất thiết phải sử dụng đầy đủ các biện pháp mà tùy vào từng thực nghiệm,
tùy khả năng của trẻ mà cô sử dụng biện pháp nào cho phù hợp để luôn kích thích
trẻ kể lại truyện có sáng tạo .
4.2.3. Mô tả thực nghiệm .
- Giáo án: Thực nghiệm 1: “Sơn Tinh Thủy Tinh”
* Mục đích yêu cầu.
Trẻ tự kể lại bằng trí nhớ, bằng ngôn ngữ và trí tưởng tượng của trẻ
Trẻ say sưa tích cực có nhiều sáng tạo trong khi kể.
Giáo dục trẻ.
* biện pháp sử dụng trong thực nghiệm .
- Trao đổi gợi mở với trẻ bằng hệ thống câu hỏi dựa vào các tình tiết của truyện.
- Sử dụng một số bức tranh tiêu biểu thể hiện nội dung chính của tác phẩm .
- Cô kể diên cảm một đoạn, kích thích trẻ nhớ lại truyện và trẻ kể tiếp.
* Đồ dùng: một số bức tranh

- Tranh: Tòa lâu đài và nhà vua cùng các cô gái
Nhà vua cùng hai chàng trai.
Tranh Sơn Tinh đem lễ vật và rước công chúa đi
Tranh Thủy Tinh nổi giận gây sóng gió…
* Tiến hành:
- ổn định tổ chức
Cô kể diễn cảm 1 đoạn kích thích trẻ nhớ lại truyện để kể tiếp.
“ Thủa xưa vua Hùng Vương thư 18 có một người con gái rất xinh đẹp. Vua muốn
con gái của mình vua muốn con gái của mình lấy 1 chàng rể phải hiện lành và tài
giỏi. Do đó vua truyền lệnh mở hội kén rể cho con gái, nghe thế các chàng trai khắp
nơi nô nức kéo về kinh đo thi tài, biết bao chàng trai tuấn tú vô nghệ tài ba lần lượt
xin ra trổ tài, nhưng mãi vua vẫn chưa ưng chọn ai. Ông thất vọng quá thế rồi bỗng
nhiên có hai chàng trai cùng một lúc tiến vào xin thi tài”
Bạn nào cho cô biết cô vừa kể một đoạn trong câu chuyện gì? Bận nào giỏi lên kể
tiếp chuyện này cho cô và các bạn cùng nghe. Rất nhiều trẻ hững thú giơ tay lên kể
tiếp. Nhưng do trẻ còn rất lúng túng cách diến đạt ngôn ngữ và hành động ( cử
chiư, điệu bộ, nét mặt…) nên tôi tiếp tục sử dụng câu hỏi gợi mở với trẻ bằng các
hệ thống câu hỏi dựa vào các tình tiết của truyện.
+ Hai chàng trai có tên là gì?
24
+ Thủy tinh đã ra oai như thế nào? ( gây sấm sét đùng đùng, mây tuôn gió nổi,
bốn bề nước đổ, trời đất tối tăm…)
+ Sơn Tinh khoan thai làm gì? ( Vẫy tay hóa phép, dời núi, đổ cây, phá rừng
vung đất chống lại trận nước dâng lên của Thủy Tinh… Sơn Tinh giơ gậy thần chỉ
bốn phương lập tức cảnh vật trở lại bình thường, trời trong, sông lặng. Cây cỏ xanh
tươi)
+ Hai người đều tài giỏi vua đã ra điều kiện gì? “ Rạng sáng mai, ai đem của lạ
vật quí đến trước ta sẽ gả con gái cho người ấy”
+ Ai là người đến trước? (Sơn Tinh)
+ Thủy Tinh đã tức giận ra sao? ( Dâng nước lên bao vây núi, suốt ngày đêm, đất

trời đen tối, mưa gió mịt mùng…)
+ Sơn Tinh như thế nào? ( Bình tĩnh chống lại Thủy Tinh)
+ Cuối cùng như thế nào? ( Thủy Tinh Thua cuộc rút quân về…)
+ Và hàng năm cứ khoảng thánh 7, tháng 8 thì sao? ( Thủy Tinh lại dâng nước
đánh Sơn Tinh…)
Bạn nào lên kể lại truyện cho cả lớp cùng nghe? ( Có rất nhiều trẻ giơ tay- tôi gọi
trẻ lên kể). Có trẻ dã biết kể sáng tạo và sau khi bạn kể xong tôi cho trẻ nhận xét
bạn kể.
+ Bạn kể đã hay chưa? Vì sao? Cháu thích đoạn nào trong truyện? Cháu kể đọn
đó cho cô và các bạn cùng nghe. Cháu cố gắng kể khác và hay hơn bạn. Cô thấy các
bạn kể hay rồi nhưng giọng điệu của bạn còn chưa đúng. Lần sau các con kể đoạn
này cố gắng thể hiện đúng giọng của nhân vật như giọng của Thủy Tinh thí bực tức,
giận dữ…
Các bạn đã kể haảnồi những cô thấy lớp mình còn nhiều bạn có thể kể hay hơn
nữa. Bây giờ ai kể lại nào? Lúc này tôi gọi trẻ giư tay lên kể. Khi gọi cháu lên chỉ
kể được một đoạn dầu ( từ đầu đến…đó là Sơn Tinh- Thủy Tinh) . Tôi đã sử dụng
biện pháp : dùng câu hỏi gợi mở.
+ Các bạn vừa kể lại truyện gì? ( Sơn Tinh- Thủy Tinh)
+ Trong truyện có những nhân vật nào? ( Vua Hùng Vương, công chúa, Sơn Tinh,
Thủy Tinh…)
+ Nhà vua tổ chức mở hội gì?
+ Ai là người được Vua Hùng chọn thi tài?
+ Họ thi tài ba như thế nào? ( Thủy Tinh ra oai gây sấm sét, gió nổi… Sơn Tinh
Khoan thai chống trả lại bằng cách hóa phép, rời núi…) Trẻ tự kể lại
Tôi đã chú ý kết hợp các biện pháp để kích thích mỗi trẻ đều tham gia vào hoạt
động kể. Sau đótôi sử dụng biện pháp dùng tranh tiêu biểu để cho trẻ nhớ lại truyện
và tự kể. Trên đây có 1 bức tranh lớp mình xem đó là tranh gì?
25

×