Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Luận văn thạc sỹ Đánh giá tác động của việc chuyển đổi đất nương rẫy sang trồng rừng sản xuất đến đời sống người dân tộc thiểu số tại huyện hướng hóa tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 92 trang )

1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Canh tác trên nương rẫy – một hình thức sản xuất nông nghiệp nguyên thủy của vùng
nhiệt đới – giữ vị trí quan trọng trong đời sống vật chất và tâm linh của con người, là biểu
hiện của mối quan hệ gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Canh tác nương rẫy được xem
là hình thức Đao canh hỏa chủng của tổ tiên người Việt và các dân tộc anh em khác sống ở
vùng núi nước ta. Là một tập quán nhằm giải quyết nhu cầu lương thực có hạt tại chỗ. Tuy
nhiên, hiện nay việc canh tác nương rẫy của đồng bào chủ yếu theo hình thức tự phát, thiếu
định hướng, do áp lực kinh tế và dân số thời gian bỏ hóa gần như không còn nên đất đai bị
xói mòn nghiêm trọng, bị thoái hóa càng làm cho diện tích nương rẫy mới tăng lên, chất
lượng cây trồng thấp và sản lượng giảm dần, dẫn đến canh tác không bền vững, giá trị ngày
công lao động thấp. Tình trạng phát rừng làm nương rẫy gây suy giảm khả năng phòng hộ
bảo vệ môi trường và là một trong những nguyên nhân lớn gây nên lũ lụt, sạt lở đất vào
những tháng mùa mưa, gây cháy rừng vào những tháng mùa khô. Đây cũng là một trong
những yếu tố hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội bền vững của các
địa phương vùng cao [2]. Do đó để duy trì phát triển bền vững thì việc cải tiến nương rẫy
thành hệ kinh tế sinh thái có tính ổn định và hiệu quả kinh tế cao hơn cũng được thừa nhận
như một đòi hỏi tất yếu, phù hợp với xu hướng phát triển và tiến bộ xã hội. Một trong những
biện pháp được thực hiện phổ biến là chuyển đổi đất nương rẫy sang trồng rừng sản xuất có
giá trị cao hơn như Keo, Cao Su, Bời Lời…với những hỗ trợ giúp người dân đảm bảo an
ninh lương thực thông qua Chỉ thị số 15/2007/CT-BNN, ngày 13 tháng 02 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Về việc tăng cường công tác quản lý canh tác nương rẫy;
Quyết định số 2945/QĐ-BNN-KL ngày 05/10/2007 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc
phê duyệt Đề án Hỗ trợ người dân vùng cao canh tác nông nghiệp bền vững trên đất nương
rẫy; Công văn số 3595/BNN-KL ngày 28/12/2007 về việc tăng cường tổ chức triển khai
thực hiện giao rừng, cho thuê rừng và quản lý nương rẫy,
Để giúp người dân miền núi Quảng Trị thay đổi tập quán canh tác thiếu bền vững và tạo
điều kiện về nguồn vốn cho nhân dân chuyển đổi nương rẫy sang trồng rừng. Sở Nông
nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Trị đã ra Quyết định “Bảng Hướng dẫn tạm thời quy vùng sản
xuất nương rẫy” tại Công văn số 505//SNN-KL ngày 28/4/2008, UBND Tỉnh Quảng Trị ra


Quyết định số: 612/QĐ-UBND “Hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số canh tác nông- lâm
nghiệp bền vững trên đất nương rẫy tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2009 - 2012”. Trong đó có hỗ
trợ lương thực nhằm góp phần đảm bảo đời sống của các hộ gia đình trong thời gian chuyển
đổi nương rẫy sang trồng rừng, thúc đẩy phong trào trồng rừng phát triển nhanh và bền
vững, đồng thời tạo cơ hội cho người dân có tài sản giá trị trên diện tích nương rẫy đem lại.

Hướng Hóa là một huyện miền núi nằm phía Tây tỉnh Quảng Trị, với hơn 50% là cộng
đồng dân tộc thiểu số sinh sống, địa hình bị chia chắt mạnh với hệ thống núi cao, diện tích
2
đất ruộng bằng phẳng phân bố nhỏ lẻ, manh mún dọc theo các khe suối. Do vậy, phương
thức canh tác nương rẫy chủ yếu là quảng canh, tra hạt. Năng suất cây trồng phụ thuộc hoàn
toàn vào thiên nhiên và đất đai. Và hậu quả là làm thoái hóa, xói mòn đất; cạn kiệt nguồn
nước, tài nguyên rừng, từ đó có thể dẫn đến các trận lũ quét, sạt lở đất ở vùng núi, lụt lội,
gây nhiều thiệt hại về người, kinh tế, môi trường và xã hội.
Kết quả khảo sát tại các xã trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị cho thấy kể
từ khi triển khai chính sách chuyển đổi đất nương rẫy sang rừng trồng (năm 2010) đến nay,
cuộc sống của người dân đã có nhiều thay đổi. Việc thực thi chính sách đã góp phần đem lại
sự thành công về tỷ lệ tăng trưởng rừng, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội được tiếp
cận với nhiều nguồn sinh kế mới, các dịch vụ xã hội cơ bản… Tuy nhiên, bên cạnh đó,
người dân cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới như thiếu đất canh tác và chất
lượng đất canh tác ngày càng suy giảm; tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận đất ngày
càng gia tăng Việc thiếu đất canh tác, thiếu việc làm và bất bình đẳng trong tiếp cận đất
dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng, gia tăng đói nghèo và bất ổn xã hội
ở các cộng đồng dân tộc thiểu số huyện Hướng Hóa; các giá trị văn hóa truyền thống của
cộng đồng đang bị xói mòn; tệ nạn xã hội nảy sinh gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của
người dân và sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Thực trạng nêu trên cho thấy nhu cầu cấp thiết phải có một nghiên cứu về tác động của
việc thực thi chính sách chuyển đổi đất nương rẫy sang rừng trồng liên quan đến sinh kế bền
vững cho người dân ở huyện Hướng Hóa, bởi mục tiêu mà Chính phủ đặt ra đối với chính
sách chuyển đổi đất nương rẫy sang rừng trồng là góp phần nâng cao đời sống cho đồng bào

dân tộc thiểu số và đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu, đánh giá để chỉ ra những ưu điểm và những
khiếm khuyết trong quá trình thực thi chính sách là điều hết sức quan trọng để từ đó đề xuất
các khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn quá trình thực thi chính sách chuyển đổi đất
nương rẫy sang rừng trồng và góp phần nâng cao đời sống cho người dân vùng núi huyện
Hướng Hóa nói riêng, và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. Chính
vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá tác động của việc chuyển đổi đất
nương rẫy sang trồng rừng sản xuất đến đời sống người dân tộc thiểu số tại huyện
Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị”
Mục đích của đề tài
Tìm hiểu được thực trạng của việc chuyển đổi đất nương rẫy sang trồng rừng sản xuất
và các tác động của chúng đến đời sống của người dân tộc thiểu số tại huyện Hướng
Hóa tỉnh Quảng Trị.
3
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
* Ý nghĩa khoa học
Đề tài là cơ sở luận chứng khoa học giúp cho các nhà quản lý, nhà lập chính sách có
căn cứ trong việc hoạch định chính sách, kế hoạch hành động, giải pháp quản lý hữu hiệu tài
nguyên đất rừng, ứng phó với biến đổi khí hậu, mất an ninh lương thực ở Bắc Trung Bộ nói
chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng.
Phần lớn đất để trồng rừng là đất trống, đồi núi trọc, đất nương rẫy nay đã quy
hoạch lại sang rừng sản xuất và một số diện tích rừng Keo trồng theo dự án hỗ trợ trồng
rừng sản xuất. Mặc dù người dân có nhiều đất song họ không có điều kiện sử dụng tốt hơn
trong việc tạo ra rừng trồng chất lượng cao, cung cấp cho tiềm năng thị trường nên cuộc
sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ
gỗ tiềm năng trong tỉnh là rất tốt. Nên đề tài có thể có cái nhìn khách quan về tác động của
rừng trồng sản xuất đến sinh kế người dân miền núi khi tập quán canh tác thay đổi, đồng
thời đưa ra các giải pháp bền vững cho các hộ trồng rừng sản xuất quy mô nhỏ để phát triển
ngành Lâm nghiệp
* Ý nghĩa thực tiễn

Đối với huyện Hướng Hóa, diện tích đất dành cho sản xuất cây lương thực ít, đời sống
nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, tập quán canh tác còn lạc hậu, tình trạng phát nương làm
rẫy, khai thác tài nguyên rừng tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn còn xảy ra nên diện tích rừng
và chất lượng rừng bị suy giảm, diện tích đất trống, đồi núi trọc còn nhiều. Trước thực trạng
đó cần có các giải pháp tích cực, đánh giá đúng hiệu quả rừng trồng để tuyên truyền vận
động nhân dân các dân tộc hưởng ứng chủ trương trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, đầu tư phát triển rừng góp phần giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho đồng bào vùng cao.
Kết quả nghiên cứu và các tài liệu, số liệu trong đề tài có thể sử dụng lâu dài cho các
mục đích khác nhau trên địa bàn Hướng Hóa như:
+ Đánh giá hiệu quả rừng trồng ở Hướng Hóa trong giai đoạn thực hiện đề tài.
+ Góp phần định hướng xây dựng thị trường lâm sản bền vững ở khu vực miền núi
Quảng Trị.
+Đề xuất cơ chế quản lý tài nguyên, chính sách hỗ trợ theo hướng bền vững về môi
trường và sinh kế người dân vùng gần rừng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
4
- Rừng trồng kinh tế: Cây bời lời đỏ (Litsea glutinosa) và cây keo lai (acacia auriculiormis ×
a mangium ).
- Sinh kế người dân tại huyện Hướng Hóa .
- Những cơ chế, chính sách của hoạt động chuyển đổi đất nương rẫy sang đất trồng
rừng.
- Mối liên hệ giữa việc chuyển đổi đất nương rẫy sang đất trồng rừng với chiến lược
phát triển bền vững tại địa phương.
* Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và điều kiện nghiên cứu nên đề tài được thực hiện trong phạm
vi:
- Phạm vi không gian: 3 điểm thuộc thôn Tà Núc xã Hướng Lộc, thôn Kỳ Rỉ xã A
Xing, thôn Pả Xây xã Thuận huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị: 100% dân tộc thiểu số,có

tham gia chương trình chuyển đổi đất nương rẫy sang trồng rừng, vẫn duy trì canh tác
nương rẫy, có trồng và đã thu hoạch cây Keo lai và cây Bời Lời
- Phạm vi thời gian: Các tài liệu phục vụ đánh giá thực trạng được thu thập trong
khoảng thời gian từ 2007 - 2014. Số liệu điều tra hộ tập trung vào đầu năm 2014 .
Quá trình thực hiện đề tài từ tháng 11 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm sử dụng đất bền vững
Quan điểm về sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đã được nhiều tác giả ở các
quốc gia khác nhau đề cập tới, các khái niệm đều cho thấy những điểm giống nhau khi nói
đến quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đều được thể hiện ở 3 vấn đề kinh tế,
xã hội và môi trường.
Thuật ngữ "bền vững" được sử dụng trong nhiều khái niệm, ví dụ "sự phát triển bền
vững", "kinh tế bền vững", "xã hội bền vững", và "sử dụng bền vững". Theo "Chiến lược
cho cuộc sống bền vững", một hoạt động là bền vững nhằm đạt tất cả các mục đích thực tiễn
của nó, là hành động có thể tiếp tục mãi mãi (IUCN, UNEP,WWF 1993) [10]. Uỷ ban quốc
tế về môi trường và phát triển (Wcea) đã định nghĩa "Phát triển bền vững là phát triển để
đáp ứng nhu cầu của đời này mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của đời
sau".
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm
Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên
Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) [10] với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại
không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu
của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Khái niệm phát triển bền vững được đề cập chính thức trong báo cáo "Tương lai của
chúng ta" của Hội đồng thế giới về phát triển bền vững họp ở Brundland (WCED, 1987)
[23]. Theo khái niệm này "Phát triển bền vững là sự phát triển nh;m thoả mãn mọi nhu cầu
của thế h< hi<n tại mà không làm tổn hại đến những khả năng phát triển để thoả mãn mọi
nhu cầu của những thế h< tiếp theo". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự

phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt
được điều này, tất cả các thành phần kinh tế xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội,
phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: Kinh tế, xã hội và
môi trường. Thế giới đang đứng trước nguy cơ to lớn về sự xuống cấp và huỷ hoại của môi
trường sinh thái. Sự gia tăng dân số, phát triển công nghiệp và các hoạt động phát triển kinh
tế ngày càng mạnh mẽ đã tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Để sử
dụng một cách có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đồng thời bảo vệ môi trường sống và khả
năng tái tạo cần phải có một cách tiếp cận kết hợp hài hòa giữa lợi ích kinh tế, xã hội với
bảo vệ môi trường sinh thái.
Năm 1993, nhóm công tác Quốc tế [15]. đã kiến nghị một khung đánh giá hệ thống
quản lí và sử dụng đất bền vững và định nghĩa như sau: "Quản lý sử dụng đất bền vững" bao
hàm các quy trình công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm hội nhập những nguyên lý kinh
6
tế xã hội với các mối quan tâm về môi trường sao cho có thể đồng thời: Duy trì nâng cao
sản xuất và dịch vụ, giảm thiểu sự rủi ro cho sản xuất, bảo vệ tiềm năng của các nguồn lợi
tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hoá chất lượng đất, có khả năng thực thi về kinh tế, có thể
chấp nhận được về mặt xã hội.
Cùng với nguyên tắc trên, Dumanski [24] cũng đã đề xuất các chỉ tiêu để đánh giá và
giám sát việc sử dụng đất bền vững. Các chỉ tiêu này bao gồm: Năng suất cây trồng, cân
bằng dinh dưỡng, sự bảo toàn độ che phủ đất, số lượng đất, số lượng nước, lợi nhuận nông
trại và sự áp dụng các biện pháp bảo vệ đất. Các chỉ tiêu này là cơ sở quan trọng để phân
tích đánh giá các hệ thống sử dụng đất về tính bền vững, thiết lập nền móng cho chiến lược
sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên đất.
Một mô hình sử dụng đất tổng hợp, bền vững phải đáp ứng một số nội dung sau:
- Giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra cho mọi người ở từng bản làng, buôn sóc, ở từng
địa phương, trong cả nước và trên toàn cầu.
- Tổng hợp được các hiểu biết truyền thống với khoa học hiện đại, vận dụng thích hợp
cho từng nơi.
- Lấy các hệ thống thiên nhiên làm mẫu chuẩn, bắt chước các hành động hoà hợp với
thiên nhiên.

- Tạo lập ra các mô hình định canh lâu bền bằng việc xây dựng phù hợp với điều kiện
sinh thái từng nơi. Để đảm bảo sử dụng đất mang tính tổng hợp bền vững cần thực hiện theo
các nguyên tắc sau:
+ Đa dạng hoá các loại hình sản xuất, các chế độ canh tác, các loại hình sản phẩm, các
dạng hình sinh thái.
+ Kết hợp nhiều ngành nghề: Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, thuỷ sản,
+ Ngăn ngừa được những tai biến môi trường, những rủi ro và nạn ô nhiễm, suy thoái.
+ Sử dụng được các động thực vật hoang dã, các loài cây bản địa, các loài cây quý
hiếm, đa tác dụng.
+ Tận dụng các nguồn tài nguyên: Đất, nước, năng lượng, sinh học làm cho nó được
bảo toàn, tái tạo, tự điều chỉnh và tự tái sinh.
+ Sử dụng được đất theo quy mô nhỏ, thâm canh hiệu quả, được quản lý, chăm sóc,
bảo vệ và phục hồi đất.
Tóm lại, sử dụng đất bền vững là nhu cầu cấp bách của nhiều quốc gia trên thế giới.
Những hiện tượng sa mạc hoá, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, diện tích đất trống, đồi núi trọc
ngày càng tăng lên, đây chính là kết quả của việc sử dụng đất đai không hợp lý. Khái niệm
bền vững được các nhà khoa học trên thế giới chủ yếu hướng vào 3 yêu cầu sau:
7
- Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp
nhận.
- Bền vững về mặt xã hội - nhân văn: Được xã hội chấp nhận cao, thu hút được lao
động, đảm bảo đời sống xã hội.
- Bền vững về mặt môi trường: Bảo vệ được đất đai, ngăn chặn được thoái hoá, xói
mòn, rửa trôi, bảo vệ môi trường tự nhiên.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến vấn đề SDĐ
nông lâm nghiệp, hệ thống quản lý SDĐ, hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng cùng
phương pháp tiếp cận nông thôn mới đã được nghiên cứu và áp dụng ở nhiều quốc gia. Điều
đó chứng tỏ rằng vấn đề SDĐ nông lâm nghiệp được các tác giả nhiều nước, nhiều tổ chức
trên thế giới quan tâm chú ý đến. Tùy theo cách nhìn nhận về quản lý và SDĐ sao cho hợp
lý đã được nhiều tác giả đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa ra một

khái niệm thống nhất là điều rất khó thực hiện, song các tác giả đều có điểm giống nhau, đó
là dựa trên quan điểm về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên quan đến đất đai
phải được xem xét một cách toàn diện và đồng thời nhằm đảm bảo nó một cách lâu dài và
bền vững. Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo vệ
môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái đa dạng sinh học và các đặc điểm về mặt xã hội và nhân
văn.
1.2 Khái niệm, vai trò của an ninh lương thực
1.2.1. Khái niệm an ninh lương thực
An ninh lương thực là khái niệm linh hoạt, được thể hiện khác nhau trong nhiều định
nghĩa của các nghiên cứu và chính sách. Ngay cả một thập kỷ trước thì cũng đã có đến
khoảng 200 định nghĩa trong các bài viết được xuất bản (Maxwell & Smith, 1992) [26] . Vì
thế khái niệm này được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Maxwell (1996) cho rằng bất
cứ khi nào quan niệm này được đề cập đến trong tiêu đề của một nghiên cứu thì nên đưa ra
các định nghĩa rõ ràng hoặc ngầm định cho sát với thực tế. An ninh lương thực là quan niệm
chỉ mới xuất hiện vào giữa những năm 70 trong các thảo luận về tình hình lương thực thế
giới và là phản ứng trước cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu vào thời điểm đó. Quan
tâm ban đầu chủ yếu tập trung các vấn đề cung lương thực - đảm bảo nguồn cung cấp và ở
một mức độ nào đó là ổn định giá cả của nguồn thực phẩm chủ yếu ở cấp độ quốc gia và
quốc tế. Mối quan ngại về cung của các tổ chức quốc tế bắt nguồn từ việc thay đổi tổ chức
của nền kinh tế lương thực toàn cầu và điều này đã gây ra khủng hoảng. Sau đó đã diễn ra
các vòng đàm phán quốc tế dẫn đến việc tổ chức Hội nghị lương thực thế giới năm 1974 và
các hệ thống thể chế mới liên quan đến thông tin, nguồn lực để đảm bảo an toàn lương thực
và các diễn đàn thảo luận chính sách.
8
Là một trong những khái niệm ứng dụng trong chính sách công, quan niệm về an ninh
lương thực tiếp tục được phát triển để phản ánh được độ phức tạp của các vấn đề chính sách
và kỹ thuật có liên quan (FAO, 2003) [27]. Hội nghị thượng đỉnh lương thực thế giới năm
1974 định nghĩa an ninh lương thực là:
“lúc nào cũng có đủ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cơ bản của thế giới để đảm bảo
việc tiêu dùng lương thực, thực phẩm ngày một nhiều hơn và để bù đắp được những biến

động trong sản xuất và giá cả” (UN, 1975).
Năm 1983, FAO mở rộng quan niệm này để tính thêm cả việc đảm bảo cho những người dễ
bị tổn thương tiếp cận được với các nguồn cung cấp sẵn có, hàm ý rằng cần phải quan tâm
đến sự cân bằng giữa cầu và cung trong phương trình an ninh lương thực: “đảm bảo tất cả
mọi người lúc nào cũng tiếp cận được về mặt vật lý và kinh tế đối với nguồn lương thực mà
họ cần”.
Sau đó, Báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) năm 1986 với tiêu đề “Đói nghèo” đã tập
trung vào tính linh hoạt theo thời gian của mất an ninh lương thực. Báo cáo này đã đưa ra sự
phân biệt giữa mất an ninh lương thực kinh niên, gắn liền với các vấn đề về nghèo khổ lâu
năm hoặc nghèo khổ cơ cấu và thu nhập thấp và mất an ninh lương thực đang chuyển đổi
liên quan đến các giai đoạn khi thảm hoạ thiên nhiên, kinh tế sụp đổ hoặc xung đột gây ra
các sức ép lớn; và điều này đã được chấp thuận rộng rãi. Quan niệm về an ninh lương thực
được cụ thể hoá hơn theo nghĩa:
“tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được với đủ lương thực, thực phẩm để đảm bảo một
cuộc sống khoẻ mạnh và năng động.”
Đến giữa những năm 1990, an ninh lương thực được xem là mối quan ngại nghiêm
trọng, trải nhiều cấp độ từ cấp cá nhân lên đến cấp toàn cầu. Tuy nhiên, vấn đề “tiếp cận”
trong an ninh lương thực hiện nay còn bao gồm cả vấn đề có đủ lương thực và điều này cho
thấy người ta vẫn lo ngại về suy dinh dưỡng prôtêin. Việc mở rộng quan niệm bao gồm các
khía cạnh an toàn lương thực, cân bằng dinh dưỡng cũng cho thấy quan ngại về thành phần
lương thực, thực phẩm gồm các điều kiện về dinh dưỡng vi mô và vĩ mô cần thiết cho một
cuộc sống năng động và khoẻ mạnh. Người ta cũng khuyến cáo các hộ gia đình để đảm bảo
cho con em mình có cân bằng dinh dưỡng và thực phẩm, đặc biệt trong giai đoạn phát triển
ban đầu. Các tổ chức quốc tế liên quan đến các vấn đề về lương thực và y tế như Tổ chức
nông lương thế giới (FAO), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Chương trình lương thực thế giới
(WFP), Viện nghiên cứu và chính sách lương thực thế giới (IFPRI) và nhiều tổ chức khác
kêu gọi phát triển nguồn lương thực, thực phẩm cân bằng và đời sống khoẻ mạnh. Người ta
cũng quan tâm nhiều hơn đến sở thích đối với lương thực, thực phẩm theo truyền thống văn
hoá hoặc xã hội. Mức độ phức tạp và cụ thể theo từng hoàn cảnh của an ninh lương thực cho
thấy rằng quan niệm này không còn đơn giản và tự nó không phải là mục đích mà nó là một

loạt các hành động trung gian nhằm đạt được một đời sống năng động và khoẻ mạnh. Báo
9
cáo phát triển con người của UNDP năm 1994 cổ vũ cho quan niệm về an ninh con người,
bao gồm một loạt khía cạnh trong đó có an ninh lương thực. Quan niệm này cũng lien quan
chặt chẽ đến quan điểm về quyền con người trong phát triển đã có ảnh hưởng đến đến các
thảo luận về an ninh lương thực.
Hội nghị lương thực thế giới năm 1996 sử dụng một khái niệm thậm chí còn phức tạp
hơn: “an ninh lương thực ở các cấp độ cá nhân, gia đình, khu vực và toàn cầu [đạt được] khi
tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được về mặt vật lý và kinh tế đối với nguồn lương
thực đầy đủ, an toàn và đảm bảo dinh dưỡng, để đáp ứng nhu cầu bữa ăn và sở thích đối với
thức ăn, nhằm đảm bảo một cuộc sống năng động và khoẻ mạnh” (FAO, 1996).
Báo cáo về tình hình mất an ninh lương thực năm 2001 đã chỉnh sửa lại quan niệm này
như sau: “An ninh lương thực là tình trạng khi tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được
về mặt vật lý, xã hội và kinh tế đối với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn và đảm bảo dinh
dưỡng để đáp ứng nhu cầu bữa ăn và sở thích đối với thức ăn nhằm đảm bảo một cuộc sống
năng động và khoẻ mạnh”
Đặc biệt, an ninh lương thực có thể được xem là một hiện tượng liên quan đến các cá
nhân. Đây là tình trạng dinh dưỡng của các thành viên trong gia đình (mục tiêu cuối cùng)
và rủi ro không đạt được tình trạng này thoả đáng hoặc tình trạng thoả đáng này bị suy yếu.
Rủi ro thứ hai phản ánh sự tổn thương của các cá nhân trong bối cảnh này. Các tổn thương
có thể xuất hiện như là các hiện tượng kinh niên hoặc tạm thời. Người ta ít quan tâm đến
tình trạng mất an ninh lương thực tạm thời và rủi ro khủng hoảng lương thực.Theo WB năm
1986 [28]. “nguyên nhân chính của mất an ninh lương thực tạm thời là thay đổi hàng năm
của giá nông sản quốc tế, nguồn ngoại tệ thu được, sản xuất lương thực trong nước và thu
nhập của các hộ gia đình. Các yếu tố này thường liên quan với nhau. Khả năng của người
dân sản xuất hoặc mua lương thực hoặc các nhu yếu phẩm khác tạm thời giảm sút sẽ làm
suy yếu sự phát triển dài hạn và gây tổn thất về nguồn vốn con người mà phải mất nhiều
năm mới phục hồi được (FAO, 2003).
Trong các định nghĩa về an ninh lương thực có ba biến số riêng biệt ảnh hưởng đến an ninh
lương thực: sẵn có, tiếp cận được và sử dụng. Các biến số này được định nghĩa trên thực tế

như sau:
Sẵn có lương thực: đảm bảo có đủ khối lượng lương thực ở một mức độ chất lượng phù
hợp từ các nguồn sản xuất hoặc đầu vào khác ở trong nước.
Tiếp cận lương thực: khía cạnh tiếp cận lương thực của an ninh lương thực liên quan đến
khả năng của các cá nhân tiếp cận được với nguồn tài nguyên và các tài sản sở hữu khác để
có được một lượng lương thực thích hợp với chế độ ăn uống dinh dưỡng. “Tài sản sở hữu”
là một loạt hàng hoá mà một người có thể thiết lập được quyền kiểm soát đối với chúng
trong bối cảnh luật pháp, chính trị, kinh tế và xã hội của cộng đồng nơi người đó đang sinh
sống (bao gồm cả các quyền truyền thống như sử dụng các nguồn tài nguyên chung). Ở cấp
10
độ quốc gia, tiếp cận đối với lương thực được tính dựa trên mức giá của lương thực nhập
khẩu và tỷ lệ nguồn chi cho lương thực nhập khẩu so với nguồn thu được từ xuất khẩu
lương thực.
Ổn định lương thực: khía cạnh ổn định lương thực hàm ý một dân tộc hoặc một hộ gia
đình hoặc một cá nhân lúc nào cũng phải tiếp cận được với nguồn lương thực phù hợp.
Những người này không gặp phải rủi ro không tiếp cận được với lương thực do các cú sốc
bất thường (như khủng hoảng khí hậu hoặc kinh tế) hoặc các hiện tượng chu kỳ (như mất an
ninh lương thực theo mùa). Bên cạnh các cuộc tranh cãi về khả năng của môi trường có thể
đảm bảo được nhu cầu lương thực toàn cầu thì cũng có các yếu tố mới tác động đến độ ổn
định của nguồn cung lương thực, bao gồm:
• Thay đổi khí hậu và các biến động hàng năm và các tác động không thuận đối với ổn định
sản lượng và tăng khả năng mất an ninh lương thực;
• Tình trạng suy thoái ở mức độ báo động về môi trường cũng như là tính tự túc của hệ
thống sinh thái và nông-sinh thái toàn cầu;
• Tác động của cải cách thương mại đối với giá cả và sản lượng (có thể do thay đổi mùa vụ),
đặc biệt là tác động tiêu cực đến an ninh lương thực ở nông thôn nếu như điều này làm giảm
giá cả thực tế theo hướng bất lợi cho nông dân trong nước
Tiêu dùng lương thực: tiêu dùng lương thực thông qua các chế độ ăn uống hợp lý, nước
sạch, đảm bảo vệ sinh và y tế để đảm bảo dinh dưỡng khi tất cả các nhu cầu tâm sinh lý
được đáp ứng. Điều này khiến cho các yếu tố phi lương thực cũng có vai trò quan trọng đối

với an ninh lương thực.
Tóm lại, an ninh lương thực là khi tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được về mặt
vật lý, xã hội và kinh tế đối với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn và đảm bảo dinh dưỡng
để đáp ứng nhu cầu ăn uống và khẩu vị thức ăn nhằm đảm bảo một cuộc sống năng động và
khoẻ mạnh. Mặc dù trong nhiều năm an ninh lương thực được xem là vấn đề của một số
nước đang phát triển song gần đây nó đã trở thành mối quan tâm toàn cầu. Thay đổi khí hậu
nhanh chóng, nguy cơ khủng hoảng nguồn nước và nhu cầu ngày càng lớn đối với nguồn
thịt gia súc, gia cầm và năng lượng sinh học đang tạo ra những bất ổn mới đối với đảm bảo
nguồn lương thực cho nền kinh tế toàn cầu (AusAid, 2008).
11
1.2.2 Vai trò của an ninh lương thực đối với đời sống xã hội
Theo các tài liệu chính thức của Liên Hợp Quốc, an ninh lương thực là một trong 7 nhân
tố cấu thành an ninh con người cùng với các nhân tố khác đó là: an ninh kinh tế, an ninh sức
khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. An ninh
lương thực đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống cũng như trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của con người. An ninh lương thực đảm bảo cho người dân có đủ lương thực để
dùng trong một thời gian dài. Một nền kinh tế có an ninh lương thực tốt nghĩa là người dân
sống trong đó không còn phải lo về việc thiếu lương thực hay không đủ khả năng để mua
lương thực khi cần thiết. Đặc biệt trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh ở các
nước đang phát triển cùng với việc sử dụng lúa gạo vào những mục đích khác nhau thì vấn
đề an ninh lương thực ngày càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Theo ông Jean Ziegler
[29]. , một đại diện của Liên Hợp Quốc nhận xét: “ việc dùng cây lương thực để sản xuất
khối lượng lớn nhiên liệu sinh học là một tội ác vì nó tác động trực tiếp tới giá lương thực
trên toàn cầu, đe doạ cuộc sống của hàng triệu người”. Hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều sử dụng gạo làm lương thực để dự trữ. Số lượng gạo dự trữ này hàng năm đều tăng do
vấn đề tăng dân số. Khi gặp sự cố bất ngờ như thiên tai bão lũ mùa màng thất bát thì
Chính Phủ các nước sẽ sử dụng đến lượng lương thực dự trữ nàycứu trợ nhằm đảm bảo
cuộc sống khỏe mạnh và đáp ứng yêu cầu hoạt động thể chất bình thường, kể cả hoạt động
lao động của con người ”. Song thực tế thì khả năng này ngày nay đang dần bị đe dọa một
cách nghiêm trọng. Bằng chứng xác thực nhất là cuộc khủng hoảng lương thực trong năm

2008 vừa xảy ra. Hàng loạt những tín hiệu về việc thiếu lương thực trên thế giới đã được
phát đi. Kết quả là cuộc chạy đua tăng giá lúa gạo trên thị trường thế giới. Vì vấn đề này mà
ở một số nước những biến động về chính trị, xã hội đã gây ảnh hưởng đến đời sống người
dân. Tại Thái Lan, chính phủ đã phải triển khai quân đội để ngăn chặn tình trạng cướp
lương thực trên cánh đồng và các nhà kho. Trong tháng qua, nhiều vụ bạo động đã xảy ra tại
các nước như Ai Cập, Indonesia, Philippines, Bangladesh, do cuộc khủng hoảng lương
thực. Tình trạng bất ổn vì thiếu lương thực cũng đã xảy ra tại nhiều nơi thuộc châu Á.
Sự cảnh báo về một " thời kỳ xung đột kéo dài" và sẽ xuất hiện các dạng xung đột mới bắt
nguồn từ việc thiếu lương thực và giá cả tăng.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh lương thực
- Sản lượng lương thực: Về lương thực, chủ yếu có ba loại ngũ cốc: lúa gạo, lúa mì, ngô với
quá nửa diện tích đất đai trồng trọt trên hành tinh. Chỉ riêng lúa gạo và lúa mì cung cấp
chừng 40% năng lượng về thức ăn của loài người.
Lúa gạo là cây lương thực quan trọng hơn cả do nú thích ứng với nhiều điều kiện khí hậu
và sinh thái rất khác nhau: nhiệt đới, ôn đới, vùng cao, khô, vùng thấp có nước.
12
Lúa mì đứng hàng thứ hai sau lúa gạo về cây lương thực chủ yếu. Lúa mì thích nghi với
khí hậu ôn đới, mùa đông lạnh ẩm, năng suất bình quân khoảng 20 tạ/ ha trên diện tích 210
triệu ha và tổng sản lượng thế giới là 355 triệu tấn.
327 Kcal/ 100g và 7,6%. Tuy nhiên, lúa gạo có khá đầy đủ các loại axit amin cần thiết,
trong khi đó, ngô thiếu hẳn hai loại quan trọng mà cơ thể không thể tổng hợp được là lizin
và priptophan
Tuy nhiên, hiện nay an ninh lương thực đang đối diện với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu lương thực. Con người không có đủ lương thực để sống vì
sản lượng lương thực đang giảm sút đến mức báo động. Chính vì vậy, sản lượng lương thực
là nhân tố tiên quyết đến vấn đề an ninh lương thực không chỉ cho mỗi quốc gia mà còn cho
toàn cầu. Muốn giải quyết được cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay thì trước hết cần có
chiến lược tăng sản lượng lương thực, đảm bảo lương thực cho cả những vùng khó khăn
nhất trên thế giới.
- Khí hậu:

Khí hậu là một trong những yếu tố tác động đến sản lượng lương thực bởi từ xưa tới nay
việc sản xuất gieo trồng các cây lương thực phần lớn phụ thuộc vào thời tiết cụ thể là nguồn
nước mưa và nhiệt độ. Hiện nay 2/ 3 dân số trên thế giới đang sống ở các khu vực nông
thôn, đa số tại cỏc nước đang phát triển.
Biến đổi khí hậu sẽ gây ra tình trạng mất cân bằng về khí hậu, mưa nhiều ở các khu vực khí
hậu ôn hòa nhưng lại gây ra hạn hán ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Hạn hán sẽ tác
động tiêu cực đến hoạt động nông nghiệp làm giảm sản lượng lương thực. Châu Phi là châu
lục dễ bị ảnh hưởng nhất khi lượng mưa giảm. Sản lượng nông nghiệp đang giảm sút, gây ra
nạn đói kém. Theo TTXVN, Ủy ban Liên chính phủ về khí hậu thay đổi của LHQ dự kiến
vào cuối thế kỷ này, mực nước biển sẽ dâng cao từ 18 đến 59 cm và các đảo quốc nhỏ thuộc
vùng châu thổ Mega ở châu Á nằm trong số những nơi bị đe dọa nghiêm trọng nhất. Diện
tích đất sử dụng cho nông nghiệp sẽ ít nhiều bị giảm đi do phải nhường cho đất sinh hoạt.
Khi cung về lương thực không kịp đáp ứng cầu lương thực sẽ dẫn đến khủng hoảng lương
thực( thiếu lương thực, giá lương thực tăng…)
- Diện tích đất Nông nghiệp:
Cùng với dân số thế giới ngày càng tăng, các đô thị, trung tâm công nghiệp ngày càng
nhiều thì tỉ lệ nghịch với nó là diện tích đất nông nghiệp ngày càng ít đi vì phải chuyển đổi
mục đích sử dụng. Chưa kể đến những tàn phá của con người gây ô nhiễm môi trường, đất
bị xói mòn, bạc màu hiệu quả sử dụng không cao. Đây là những tín hiệu không vui cho thế
giới về vấn đề tăng năng suất lương thực
Sự phát triển là tất yếu, nhưng điều đáng nói là sự phát triển lộn xộn, thiếu quy hoạch đã
làm cho nhiều quốc gia trên thế giới rơi vào tình trạng mất đất đai dành cho trồng trọt. Vì
13
vậy, mỗi quốc gia cần có những hành động rõ ràng, cụ thể hơn để bảo vệ đất nông nghiệp
nhằm đảm bảo an ninh lương thực một cách bền vững.
- Tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới:
Đây là một trong những nhân tố có tác động gián tiếp đến tình hình an ninh lương
thực. Nếu tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới ổn định thì sẽ là môi trường tốt để các
ngành nông nghiệp phát triển và lương thực sẽ được đảm bảo. Ngược lại, nếu có chiến
tranh, bạo động, dịch bệnh…tàn phá thì chắc chắn an ninh lương thực sẽ bất ổn.

1.3. Lâm nghiệp Việt Nam
Năm 1943 diện tích rừng Việt Nam lần đầu tiên được công bố là 14,3 triệu ha
(P.Mau-rant), Khi đó toàn bộ diện tích rừng là rừng tự nhiên và đa số là rừng nguyên sinh.
Qua hai cuộc chiến tranh 1945-1954 và 1965-1975 diện tích rừng Việt Nam đã giảm xuống
còn 11,2 triệu ha. Tốc độ giảm diện tích rừng nhanh nhất là 15 năm sau khi đất nước thống
nhất (1975) và đến năm 1990 diện tích rừng đạt mức thấp nhất là 9,17 triệu ha, chiếm khoản
64% diện tích rừng thống kê năm 1943. Từ năm 1990 trở đi, thông qua các chương trình
327, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và điều kiện giảm thiểu sức ép lương thực, củi đốt, nên
diện tích rừng đã tăng lên 11,3 triệu ha vào năm 2000 và 13,3 triệu ha năm 2009, đạt xấp xỉ
93% diện tích rừng ban đầu. Tuy nhiên diện tích rừng tăng chủ yếu là gần 3 triệu ha rừng
trồng, còn rừng tự nhiên phục hồi chậm hơn, các hệ sinh thái nguyên sinh chỉ còn lại trong
vùng lõi của các khu bảo tồn hoặc các vườn quốc gia. Bảng 1.1 và Biểu đồ 1.1 chỉ rõ xu thế
thay đổi diện tích rừng của Việt Nam trong 60 năm qua. [16].
Bảng 1.1. Sự thay đổi di<n tích rừng Vi<t Nam
Năm
Diện tích rừng (1000 ha)
Tỷ lệ
che
(%)
Ha/ngườ
i
Thay đổi so 1990
Rừng tự
nhiên
Rừng
trồng
Tổng Ha %
1943 14.300 0 14.300 43,0 0,70
1976 11.077 92 11.169 33,8 0,22
1980 10.186 422 10.608 32,1 0,19

1985 9.038 584 9.892 30,0 0,16
1990 8.430 745 9.175 27,8 0,14
1995 8.252 1.050 9.302 28,2 0,12 +127 +0,4
14
2000 9.444 1.471 10.915 33,2 0,14 +1.740 +5,4
2005 10.283 2.334 12.617 36,4 0,15 +3.442 +8,6
2009 10.339 2.920 13.259 39,1 0,15 +4.084 +11,3
2011 10.285 2.852 13.515 39,7 0,15 +4.340 +11,9
(Nguồn: Tổng cục Lâm nghi<p, 2012)
(Nguồn: Tổng cục Lâm nghi<p, 2012)
Biểu đồ 1.1. Sự thay đổi di<n tích rừng Vi<t Nam
1.4. Rừng trồng sản xuất
1.4.1 Phát triển TRSX bền vững ở trên thế giới
Diện tích rừng trồng đã tăng lên nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu và cung cấp
khoảng 50% tổng sản lượng gỗ trên toàn thế giới.Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế
giới (FAO) ước tính rằng tổng diện tích rừng trồng đến năm 2005 khoảng 140 triệu ha (FAO
2006), bình quân mỗi năm tăng khoảng 3 triệu ha.
Cho đến nay cơ sở khoa học cho việc phát triển TRSX ở các nước phát triển đã được
hoàn thiện nhưng đang trong giai đoạn thử nghiệm, nghiên cứu, từng bước hoàn thiện và ổn
định đi vào sản xuất phục vụ PTLN ở các nước đang phát triển[11]. Theo kinh nghiệm phát
triển RTSX của một số nước trên thế giới, để có thể phát triển RTSX có hiệu quả thì:
Thứ nhất, Nhà nước và các cấp, ban, ngành có liên quan cần rà soát lại diện tích đất
lâm nghiệp, quy hoạch cụ thể diện tích TRSX một cách khoa học. RSX phải được quy
hoạch tập trung, không phân tán, chia lô nhỏ lẻ. RSX phải được quy hoạch trên đất có thổ
nhưỡng phù hợp nhằm nâng cao HQKT RTSX.
Thứ hai, công tác giống là khâu quan trọng nhất, mang tính đột phá và đã thu được
nhiều thành tựu đáng kể. Nhờ những công trình nghiên cứu chọn lọc và tạo giống mới, cho
tới nay trên nhiều nước đã có những giống cây trồng cho năng suất rất cao, cao gấp 2-3 lần
so với bình thường. Thí dụ như ở Brazil đã tạo được những khu rừng có năng suất trữ lượng
70-80m

3
/ha/năm; Tại Công Gô năng suất rừng đạt 40-50m
3
/ha/năm. Theo Swoatdi và
Chamlong (1990), tại Thái Lan rừng Tếch cũng đạt đến sản lượng 15-20m
3
/ha/năm. Bên
cạnh công tác giống cây trồng, các biện pháp trồng, chăm sóc và nuôi dưỡng rừng cũng đã
được quan tâm nghiên cứu. MH nghiên cứu trồng rừng nhiều tầng hỗn loài giữa cây gỗ và
15
cây họ đậu ở Malaysia trên 3 đối tượng: RTN, rừng Keo TT và rừng Tếch đã được đánh giá
là có hiệu quả cao[11]. Tài nguyên rừng của Ôxtrâylia bao gồm 43,2 triệu ha rừng tự nhiên
và 1,1 triệu ha rừng trồng. Để đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp, diện tích rừng trồng
của nước này phải đạt 3 triệu ha vào năm 2020 và do vậy diện tích rừng trồng hàng năm
phải lên tới 80.000 ha. Đóng góp của rừng và công nghiệp rừng đã đạt 6 tỷ đô la Ôxtrâylia
trong năm tài khóa1994-1995, trong khi mức đóng góp của cả ngành nông nghiệp lâm
nghiệp và ngư nghiệp là 13 tỷ đô la Ôxtrâylia.
Thứ ba, là giải quyết thu nhập cho người trồng rừng. Đa số người dân tham gia trồng
rừng có chất lượng cuộc sống thấp, thu nhập bấp bênh, độ rủi ro cao. Vì vậy, TRSX phải
quan tâm trước hết là nâng cao mức sống cho người dân. Trong thời gian đầu nhà nước phải
có chính sách ưu đãi, hỗ trợ để đảm bảo ổn định cuộc sống cho họ. Đây là vấn đề đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Theo Bradford R Phillíp (2002) ở Fuiji người ta đã
nghiên cứu trồng một số loại Tre, Luồng trên đồi vừa để bảo vệ đất và tạo thu nhập phát
triển kinh tế cho 119 hộ gia đình nghèo; Ở Indonesia người ta đã áp dụng phương thức nông
lâm kết hợp với cây Tếch[24]… Đây là một trong những hướng đi phù hợp với vùng đồi ở
một số nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Thứ tư, cần phát triển hiệu quả thị trường tiêu thụ. Các sản phẩm rừng trồng phải
phục vụ được mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của người dân, phương thức canh tác
phải gắn với kiến thức bản địa để người dân dễ áp dụng. Vấn đề này nghiên cứu của
Ianuskow K (1996) cho biết cần phải giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các

khu rừng trồng kinh tế, trong đó cần có kế hoạch xây dựng và phát triển các nhà máy chế
biến lâm sản với các qui mô khác nhau trên cơ sở áp dụng các công cụ chính sách đòn bẩy
để thu hút các thành phần kinh tế tham gia phát triển rừng. Theo Thom R Waggener (2000)
để phát triển trồng rừng theo hướng sản xuất hàng hóa với HQKT cao không chỉ đòi hỏi
phải có sự đầu tư tập trung về kinh tế kỹ thuật mà còn phải nghiên cứu làm sáng tỏ hàng loạt
vấn đề có liên quan đến chính sách và thị trường. Theo quan điểm thị trường, nhà kinh tế
lâm nghiệp cho rằng thị trường sẽ trả lời câu hỏi sản xuất cái gì, cho ai? Khi thị trường có
nhu cầu và lợi ích của người sản xuất được bảo đảm thì động cơ lợi nhuận và thu nhập sẽ
thôi thúc họ tăng đầu tư mở rộng qui mô sản xuất và thâm canh cao tạo sản phẩm hàng hóa
ngày càng nhiều cho xã hội[30].
Thứ năm, là cần xã hội hoá TRSX, chẳng hạn ở Trung Quốc đã thực hiện xã hội hóa,
tư nhân hóa về phát triển rừng, có chính sách khuyến khích tư nhân phát triển trồng rừng
bằng cách như tư nhân hóa rừng và đất rừng, cho phép tư nhân được phép ký hợp đồng thuê
đất của Nhà nước, giảm thuế đánh vào lâm sản, dầu tư tài chính cho tư nhân trồng rừng, đẩy
mạnh mối quan hệ hợp tác giữa các Công ty với người dân để phát triển trồng rừng, triển
khai dịch vụ trao đổi phí thải. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong các ngành xả thải
nhiều thì phải mua chứng chỉ phí thải và nguồn thu này một phần được trả cho người trồng
rừng.
16
Theo nghiên cứu của một số tác giả ở Thái Lan, Indonesia cho biết hiện nay ở các
nước Đông Nam Á có 3 vấn đề quan trọng cần được xem xét để khuyến khích để người dân
tham gia trồng rừng là: Qui định rõ ràng về quyền sử dụng đất; qui định rõ ràng về đối
tượng hưởng lợi từ rừng trồng; nâng cao hiểu biết và nắm bắt kỹ thuật của người dân.
Đây cũng là vấn đề cần giải quyết để thu hút nguồn vốn tư nhân và các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư phát triển RSX ở các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói
riêng[31].
1.4.2 Những đặc điểm chủ yếu của RTSX
Ở Việt Nam, diện tích rừng trồng cũng tăng lên rất nhanh từ 1 triệu ha năm 1990 lên
2.852 triệu ha năm 2011, nằm trong tốp 10 các nước (đứng thứ 9 thế giới và thứ 3 Đông
Nam Á) có diện tích rừng trồng lớn nhất thế giới[16] Đây là kết quả của sự đổi mới trong

chính sách phát triển lâm nghiệp đã thúc đẩy trồng rừng sản xuất và nâng cao năng lực cạnh
tranh trên cơ sở tận dụng tối đa lợi thế so sánh cấp quốc gia. Những chính sách quan trọng
có thể kể đến là: Luật đất đai, Luật BV&PTR; các Nghị định 01/CP; 02/CP; 163/CP về
VIỆC giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp. Bên cạnh đó là các chính sách đầu tư, tín dụng như
luật Khuyến khích đầu tư trong nước như: Nghị định 43/1999/NĐ-CP, Nghị định
50/1999/NĐ-CP,… Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 –
2020.
1.4.2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội
Trồng và phát triển RSX một mặt ngăn chặn được tình trạng suy thoái của rừng, nâng
cao năng suất trữ lượng và làm tăng độ che phủ của rừng góp phần bảo vệ môi trường
sinh thái; mặt khác nó cũng gắn với nguy cơ giảm tính đa dạng sinh học của rừng. Vì
vậy, việc đầu tư phát triển RTSX nhất thiết phải được xem xét, cân nhắc ngay từ khi
hình thành ý tưởng, định hướng phát triển đến tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm PTBV
về các mặt kinh tế - xã hội - môi trường. Không vì lợi ích trước mắt mà để lại những
hậu quả nghiêm trọng, khôn lường về sau. TRSX có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, trồng rừng sản xuất phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên, sinh thái:
Không phải bất kỳ ở đâu cũng có thể TRSX mà chỉ những vùng có diện tích đất trống đồi
núi trọc, có điều kiện về đất đai, địa hình, thổ nhưỡng, sinh thái phù hợp mới có thể tiến
hành TRSX. Hiện tại, hầu hết các tỉnh có lợi thế về phát triển rừng, lợi nhuận, ngân sách
thu được từ rừng là không đáng kể, bản thân người dân sống ở vùng có rừng không sống
được bằng nghề rừng lại sống chủ yếu nhờ vào đất nông nghiệp; đất nông nghiệp lại ít, cuộc
sống của họ gặp nhiều khó khăn, cố gắng lắm cũng chỉ đủ ăn, nếu gặp thiên tai thì lại bị
nghèo đói[13].
17
- Thứ hai, Trồng rừng sản xuất nhằm khai thác hết tiềm năng đất đai, nâng cao hiệu
quả sử dụng đất, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
- Thứ ba, Trồng rừng sản xuất góp phần nâng cao độ che phủ, bảo vệ môi trường sinh
thái và PTBV: Trồng rừng sản xuất làm tăng lưu vực nguồn sinh thủy và khả năng phòng hộ
đầu nguồn các hồ đập, điều tiết dòng chảy chống xói mòn, rữa trôi đất, cải thiện và điều hòa

khí hậu trong vùng sinh thái, tạo môi trường sống thuận lợi cho các các loài động vật rừng
sinh sống và phát triển. Theo kết quả nghiên cứu mới đây về kinh tế môi trường của các nhà
khoa học. Việc trồng và phát triển rừng làm tăng giá trị dịch vụ môi trường nhằm phục vụ
và đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống, thúc đẩy PTBV[11].
Việt Nam hiện có khoảng 13,4 triệu ha rừng, chiếm gần 2/3 diện tích tự nhiên, trong
đó gần 11 triệu ha là rừng tự nhiên, hơn 2 triệu ha rừng trồng.; lao động dôi dư nhiều, dân số
miền núi tăng nhanh, nếu không giải quyết được đời sống cho người dân sống ven rừng và
gần rừng ngang bằng với nhu cầu đời sống của xã hội thì sẽ tạo ra nguy cơ tiềm ẩn gây mất
ổn định chính trị xã hội[13]. Vì vậy chỉ có đổi mới tư duy bằng cách giao đất, giao rừng cho
người dân, chăm sóc, bảo vệ rừng và sống được nhờ rừng thì mới giải quyết được các vấn
đề trên.
1.4.2.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật
Xuất phát từ mục đích, đối tượng RTSX có điểm khác biệt so với các loại rừng khác
nên quy trình TRSX cũng có những đặc thù nhất định. Tuy nhiên để đảm bảo rừng trồng có
năng suất, hiệu quả cao, việc trồng rừng cần phải tuân thủ các quy định cụ thể cho từng loài
cây, từ chọn giống cây trồng, chọn đất, chuẩn bị đất, tiến hành tròng cho đến chăm sóc, bảo
vệ và khai thác. Quá trình phát triển RTSX phải đảm bảo các yêu cầu sau:
a) Yêu cầu về đất đai: Việc bố trí cây trồng phù hợp với điều kiện đất đai sẽ phát huy lợi thế
so sánh của từng vùng. Tùy vào từng điều kiện khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng để bố trí các
loại cây trồng phù hợp với đặc điểm sinh học của từng loài cây. Vấn đề quan trọng là khi
điều tra khảo sát tìm đất để trồng cây gì thì phải đánh giá thành phần cơ giới của đất, lập bản
đồ thổ nhưỡng tạo điều kiện để sau này có chế độ chăm sóc, bón phân thích hợp đưa lại hiệu
quả sản xuất kinh doanh cao. Các loại đất được quy hoạch vào TRSX bao gồm[5]:
+ Đối tượng Ia: Đất trống đặc trưng bởi thực bì cỏ, lau lách hoặc chuối rừng.
+ Đối tượng Ib: Đồi trọc đặc trưng bởi thực bì cây bụi, sim mua và cũng có thể có ít
một số cây gỗ, tre mọc rãi rác.
+ Đối tượng Ic: Rừng phục hồi đặc trưng bởi cây gỗ rải rác và các thân cây gỗ tái
sinh với mật độ thấp.
+ Ngoài ra hiện nay các tỉnh còn có xu hướng chuyển đổi đối tượng rừng nghèo kiệt
sang RTSX với kỳ vọng nhanh đưa lại nguồn thu và HQKT cao hơn so với các phương thức

tác động khác.
18
Tùy theo phân loại các hạng đất như độ dốc, tầng dày, thành phần cơ giới của đất và
đặc trưng của các loại thực bì trên từng nhóm, mức độ đáp ứng yêu cầu về đất đai của mỗi
loại đất hoàn toàn khác nhau:
19
- Đất hạng I (rất thuận lợi đối với TRSX)
+ Độ dày từng đất > 50 cm,
+ Độ dốc < 15
0
+ Thành phần cơ giới: đất thịt nhẹ, đất thịt trung bình; đá mẹ: Rhiolit, Granit
+ Thực bì chỉ thị: Trảng cỏ cây bụi dày, sinh trưởng từ TB đến tốt; Cây bụi hoặc nứa
tép sinh trưởng trung bình đến tốt; Độ che phủ của cây bụi cỏ cao >70cm.
- Đất hạng II (thuận lợi đối với TRSX)
+ Độ dày tầng đất 30- 50 cm
+ Độ dốc 15
0
-25
0
+ Thành phần cơ giới: đất thịt nhẹ đến rất nhẹ, đất thịt pha cát xốp ẩm hay sét pha cát
hơi chặt; đá mẹ: Phấn sa.
+ Thực bì chỉ thị: Cỏ may, sim mua sinh trưởng xấu đến TB; Tế guộc dày đặc, sinh
trưởng TB; Lau, Chít mọc xen cây bụi, nứa tép mọc thành bụi rãi rác, sinh trưởng xấu đến
TB; Độ che phủ của cây bụi cỏ cao từ 50-70 cm.
- Đất hạng III ( ít thuận lợi đối với TRSX)
+ Độ dày từng đất <30 cm
+ Độ dốc 26-35
0
+ Thành phần cơ giới: đất thịt nặng hơi chặt, đất sét pha thịt chặt khô; đất cát pha; đá
mẹ: Sa phiến thạch.

+ Thực bì chỉ thị: Cỏ may, cỏ lông lợn, tế guộc mọc rải rác sinh trưởng xấu; đất trống hoặc
có rất ít thực vật sinh trưởng xấu; độ che phủ của cây bụi cỏ cao từ 30-50 cm.
Để RTSX đạt hiệu quả cao nên chọn trồng ở loại đất hạng I và hạng II; một vài dạng
đất ở hạng III có thể trồng sau khi làm đất hoặc cải tạo đất mới tiến hành trồng nhưng sẽ tốn
kém và HQKT mang lại không cao.
b) Yêu cầu về giống
Do đặc điểm cây rừng có thời gian sinh trưởng dài; chu kỳ sản xuất kinh doanh ít
nhất cũng từ 5-7 năm ( đối với trồng rừng nguyên liệu giấy, ván dăm); trung bình thì khoảng
từ 20-30 năm, một số loại cây bản địa chu kỳ kinh doanh trên 50 năm. Việc chọn giống là
khâu then chốt quyết định chất lượng rừng trồng và hiệu quả sản xuất, nếu sai lầm xảy ra
trong quá trình chọn giống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng rừng cây và hiệu quả kinh
doanh sau này[14].
20
Việc chọn loài cây để phát triển RTSX dựa vào mức độ phù hợp của các yếu tố sau:
(i) Có giá trị kinh tế phù hợp với mục đích của người trồng rừng. (ii) Có đặc điểm sinh
trưởng phù hợp với điều kiện lập địa của vùng đất quy hoạch trồng rừng. (iii) Sản phẩm của
nó có thị trường tiêu thụ ổn định trong và ngoài nước. (iv) Có thể rút ngắn được thời gian
sản xuất kinh doanh, sớm đưa lại HQKT. (v) Có khả năng chống chịu với điều kiện thời tiết bất
lợi và không ảnh hưởng xấu đến môi trường, sâu bệnh và dịch hại. Ngoài ra việc chọn giống
của từng loài cây cần đảm bảo các yếu tố kỹ thuật cơ bản về chiều cao vút ngọn ( H
vn
); đường
kính cổ rể (D
cr
); đặc điểm hình thái cây con.
Ngoài các tiêu chí nêu trên, khi chọn cây giống cần xem xét đặc điểm hình thái cây
con. Một cây giống tốt phải có hình dáng cân đối, thân cây khỏe, hệ thống rễ phát triển, lá
có màu xanh tươi; cây không cong queo, không sâu bệnh, không bị gãy ngọn, không phân
cành, không bị vỡ bầu[7].
Bảng 1.2. Chỉ tiêu kỹ thuật cây giống một số loài cây TRSX phổ biến

Tên loài cây
Chiều cao vút
ngọn (H
vn
)
(cm)
Đường kính
cổ rể (D
cr
)
(cm)
Kích thước bầu (cm)
Chiều cao Đường kính
1. Keo LT (từ hạt) 25-35 0,25-0,35 12 7-8
2. Keo Tai tượng 25-35 0,25-0,35 12 7-8
3. Keo giâm hom 25-35 0,25-0,35 12 7-8
4. Bạch đàn 25-35 0,25-0,35 12 7-8
4. Phi lao 100-150 1,0-1,5 18 12
6. Thông nhựa 20-25 0,6-0,8 13 8
7. Huê mộc 40-60 0,35-0,45 16 10
(Nguồn: Giống và một số kỷ thuật lâm sinh trong trồng rừng)
c)Yêu cầu về kỹ thuật trồng, chăm sóc RSX
* Yêu cầu về bi<n pháp kỹ thuật trồng rừng sản xuất
- Phát dọn thực bì: Tùy theo đối tượng cây trồng, độ dốc của hiện trường trồng rừng,
khí hậu, nguồn lực về lao động mà có thể áp dụng một trong hai phương thức xử lý thực bì
sau:
+Xử lý thực bì toàn diện: Thường áp dụng cho những diện tích mà thực địa có dộ dốc
< 15
0
, lượng mưa phân bố tương đối đều trong năm, phù hợp với các loài cây ưa sáng như

Keo.
21
+Xử lý thực bì không toàn diện: Thường áp dụng đối với những hiện trường trồng
rừng có độ dốc cao > 15
0
, vùng có lượng mưa lớn. Để tránh xói mòn rữa trôi người ta xử lý
thực bì theo hàng, theo băng.
Công tác phát dọn và xử lý thực bì thường tiến hành trước khi đào hố ít nhất là 15
ngày. Trong quá trình xử lý thực bì (thu gom, đốt) cần phải đảm bảo đúng quy trình kỹ
thuật, tránh lây lan xảy ra cháy rừng.
- Đào và lấp hố: Tùy vào đối tượng cây trồng, độ dốc hiện trường, phương thức trồng
thuần loài hay hỗn loài để sắp xếp sơ đồ bố trí cây trồng và đào kích thước hố phù hợp.
Sau khi đào hố xong, tiến hành lấp hố kết hợp với bón phân trước khi trồng từ 10-15
ngày. Tác dụng của lấp hố là ủ cho đất xốp và giữ độ ẩm cho đất.
+ Trồng cây: Để đảm bảo tỷ lệ cây sống cao và sinh trưởng tốt, cần phải đảm bảo
đúng các thao tác kỹ thuật trồng theo hướng dẫn: Thời vụ trồng thường vào đầu mùa mưa,
từ giữa tháng 6 đến hết tháng 7. Trước khi trồng nên tưới ẩm cây con, cắt bỏ bịch ni lông,
tránh làm vỡ bầu, đặt cây ngay ngắn vào giữa hố, cổ rễ thấp hơn mặt đất khoảng 2cm, nén
đất xung quanh chặt vừa phải, giữ cho cây ngay ngắn, ấn chặt đất tạo lổ nhỏ giữ nước, phủ
phân xanh quanh cây và tưới nước.
*Bi<n pháp kỹ thuật chăm sóc bảo v< rừng sau khi trồng
Để rừng có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt chúng ta phải đầu tư chăm sóc 3
năm đầu bằng luỗng phát thực bì (2 lần/năm); Sau khi trồng 1 tháng kiểm tra thấy cây nào
chết phải trồng dặm, sau 3 tháng kiểm tra thấy tỷ lệ cây sống 90% là đạt yêu cầu. Một năm
có thể làm cỏ 2 lần kết hợp bón phân (phân chuồng hoai 2kg/hốc hoặc 100g NPK/gốc tùy
từng điều kiện cụ thể).
Làm cỏ quanh gốc, xới gốc kết hợp trồng dặm bổ sung những cây bị chết, cây còi cọc
không có khả năng phát triển. Trong thời kỳ rừng non chưa khép tán thì công tác bảo vệ
rừng là hết sức cần thiết, cấm không cho gia súc vào dẫm đạp làm đổ gãy cây. Ngoài ra
trong quá trình chăm sóc bảo vệ cần theo dõi sâu bệnh hại để có kế hoạch phòng trừ kịp thời

và hiệu quả[1].
22
1.4.3 Xu h ng v mô hình ch y u v RTSXướ à ủ ế ề
*Xu hướng phát triển TRSX
Cùng với quá trình phát triển KTXH, mục tiêu trồng và phát triển rừng của nước ta đã có
những thay đổi để phù hợp với tình hình trong từng giai đoạn, cụ thể như sau:
- Giai đoạn 1992-1998: Trọng tâm của hoạt động trồng rừng giai đoạn này là phủ
xanh đất trồng đồi núi trọc; ưu tiên bảo vệ RPH xung yếu, nơi còn du canh du cư phá rừng
làm rẫy gắn với thực hiện định canh định cư. Tập trung tạo mới RPH, RĐD mà nhiệm vụ
chủ yếu là trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng ở những nơi xung yếu. các hoạt
động trồng rừng chủ yếu được thực hiện thông quan chương trình 327[7]. Trong giai đoạn
này RTSX vẫn chưa được khuyến khích phát triển.
- Giai đoạn 1998-2010: Mục tiêu trọng tâm của giai đoạn này là tạo vùng nguyên liệu
gắn với công nghiệp chế biến. Tuy nhiên đến năm 2002 Nhà nước mới có chính sách khuyến
khích phát triển RSX và sau hơn 2 năm (đến năm 2004) chính sách đó mới được thực thi và tiến
hành triển khai đồng bộ. Thông qua phát triển RSX, người trồng rừng đã nhận thức được rừng
trồng sản xuất là của họ chứ không phải là rừng của nhà nước nên đã bắt đầu quan tâm và có
trách nhiệm hơn đối với rừng[14].
Trong giai đoạn này, nhu cầu về RTSX, đặc biệt là phục vụ cho mục tiêu sản xuất giấy
gia tăng đã làm thay đổi một cách đáng kể thu nhập từ hoạt động trồng rừng. Đây chính là yếu
tố quan trong thu hút nhiều gia đình phát triển hoạt động trồng rừng theo hình thức qui mô hộ
gia đình.
*Một số mô hình TRSX
- Mô hình TRSX theo dự án 5 tri<u ha rừng: Đây là mô hình trồng rừng dưới sự hỗ
trợ của nhà nước. Nhà nước bố trí vốn cho các Ban quản lý dự án cơ sở để tổ chức cho dân
trồng. Người dân nhận khoán hoặc đăng ký xin cấp đất, nhận đất để trồng rừng. Nhà nước
hỗ trợ bình quân khoảng 2 triệu đồng/ha để mua giống và hỗ trợ một phần công lao động,
quản lý chỉ đạo. Sản phẩm thu được từ rừng do người dân hưởng và sở hữu rừng thuộc về
người dân, người dân có quyền định đoạt trên diện tích RSX mà mình trồng.
- Mô hình hỗ trợ đồng bào dân tộc trồng rừng và canh tác trên đất nương rẫy: Với

MH này chủ yếu là trồng rừng trên đất dốc, trồng cây bản địa và một số vùng có điều kiện
giao thông đi lại thuận lợi thì trồng rừng nguyên liệu. Với hình thức Nhà nước hỗ trợ cây
giống, công trồng rừng và trợ cấp gạo cho đồng bào ăn trong thời gian chưa có sản phẩm
thu hoạch . Với MH này chỉ được đánh giá cao về chính sách xã hội; ổn định đời sống đồng
bào dân tộc hạn chế du canh du cư chặt phá rừng ảnh hưởng đến môi sinh môi trường. Nếu
xét về mặt kinh tế thì không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.
- Mô hình trồng rừng theo hinh thức hộ gia đình hay trang trại: Đây là mô hình trồng
rừng mang tính chất chủ động của hộ gia đình hay chủ trang trại. Với điều kiện thuận lợi về
23
đất đai, hộ gia đình hay trang trại tự bỏ vốn để phát triển RTSX trên đất đai họ có hay được
phép sử dụng hay chuyển đổi một số cây trồng không hiệu quả sang trồng rừng. Đây là mô
hình mang tính phổ biến trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, thường các mô hình trồng rừng có sự đan xen do các nguyên nhân lịch sử, do
yếu tố tiếp cận đất đai, do sự hạn chế về các yếu tố nguồn lực khác. Tuy nhiên, mô hình TRSX
theo hình thức hộ hay trang trại đang trở thành xu hướng tất yếu khi xem xét hoạt động TRSX
như một hoạt động kinh doanh. Vấn đề quan trọng trong phát triển RTSX là làm sao lựa chọn
mô hình trồng rừng phù hợp với từng điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hôi và đặc thù của từng
vùng. Mục địch cuối cùng của lựa chọn này làm nâng cao hiệu quả RTSX ở mô hình lựa chọn,
đơn vị hay địa phương đó.
1.4.4. Phát tri n r ng tr ng s n xu t v i phát tri n b n v ngể ừ ồ ả ấ ớ ể ề ữ
Ngày nay, phát triển luôn gắn với phát triển bền vững, nhất là đối với các nước đang
phát triển; PTBV gắn với nhiều ngành nhưng đối với ngành nông nghiệp nói chung và
TRSX nói riêng liên quan nhạy cảm đến PTBV. Việc TRSX không chỉ đơn thuần đóng góp
vào GDP cao liên tục, khai thác có hiệu quả nguồn lực mà còn bảo vệ môi trường sinh thái
và dự trữ nguồn lực cho thế hệ tương lai. Ngày nay và kể cả sau này, cho dù KTXH có phát
triển đến đâu, qui trình công nghệ sản xuất có thay đổi bằng các ứng dụng khoa học kỹ thuật
mới, tiến bộ thì nước và không khí vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự PTBV của
nhân loại. Ảnh hưởng của rừng thể hiện rõ nét nhất trong mùa mưa lũ, nếu rừng đầu nguồn
được bảo vệ tốt thì sẽ trở thành lá chắn vững chắc ngăn dòng nước lũ đầu nguồn các sông;
hạn chế dòng chảy gây lũ lụt ở vùng đồng bằng, giảm bớt thiệt hại do ngập úng ảnh hưởng

đến các ngành sản xuất và đời sống; ngoài ra rừng còn có chức năng giữ ẩm tạo nguồn nước
ngầm hạn chế khô hạn trong mùa khô. Rừng phát triển tốt có tác dụng điều hòa không khí,
hạn chế sự tạo mưa a xít, giảm dần tốc độ nóng lên của trái đất. Thực tế trong những năm
qua cho thấy, những vùng nào, nước nào, những địa phương nào làm tốt công tác bảo vệ
rừng đầu nguồn, chăm sóc tốt RTN và rừng trồng thì tình trạng thiệt hại do mưa lũ, nhất là
lũ ống lũ quét ở vùng núi, vùng đất dốc giảm, đất nông nghiệp không bị xói mòn sa mạc
hóa, cây trồng vật nuôi được bảo vệ[8].
Xác định rõ TRSX vừa là ngành kinh tế quan trọng, vừa có ý nghĩa phòng hộ, trong
mấy năm trở lại đây các ngành, các địa phương đều quan tâm đến công tác trồng và phát
triển RSX; thể hiện trong công tác quy hoạch phân chia 3 loại rừng đã chú trọng đến phát
triển RSX cả về qui mô diện tích lẫn nhiệm vụ giải pháp tác động chính là trồng rừng, qui
hoạch vùng nguyên liệu gắn với chế biến sâu phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu gỗ rừng trồng.
1.4.5. Hi u qu kinh t c a r ng tr ng s n xu tệ ả ế ủ ừ ồ ả ấ
1.4.5.1. Quan ni m v phân lo i hi u qu kinh t tr ng r ng s n xu tệ à ạ ệ ả ế ồ ừ ả ấ
24
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác các yếu tố đầu
tư, các nguồn lực tự nhiên và phương thức quản lý. Bàn về khái niệm HQKT, các nhà kinh
tế ở nhiều nước, nhiều lĩnh vực có những quan điểm khác nhau.
Hi<u quả kinh tế đạt được khi nhà sản xuất đạt được hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
phân bố, có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều được tính đến khi xem xét sử dụng
các nguồn lực trong sản xuất. Hiệu quả kỹ thuật liên quan đến những đặc tính vật chất của
sản xuất; thể hiện trình độ, kỹ năng, tay nghề kỹ thuật của người sản xuất. Hiệu quả phân bố
phản ánh khả năng phối hợp các yếu tố đầu vào trên thị trường theo giá để tối thiểu hóa chi
phí khi sản xuất một lượng sản phẩm nhất định. HQKT liên quan đến yếu tố tổ chức quản lý
và phản ánh cả trình độ kỹ thuật tay nghề và khả năng phối hợp đầu vào theo giá để đạt
được lợi nhuận ở mức tối đa[17].
HQKT là sự phối hợp giữa nội dung tiết kiệm chi phí tài nguyên cho sản xuất (tức là
làm giảm đến mức tối đa chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm tạo ra - hiệu quả kỹ
thuật) với thị trường sản phẩm (hiệu quả về giá). Nâng cao hi<u quả kinh tế có nghĩa là:
Tăng cường độ lợi dụng các nguồn lực về kinh tế, tự nhiên sẵn có trong hoạt động kinh tế để

phục vụ lợi ích con người, đó là đòi hỏi khách quan của mọi nền sản xuất xã hội. Bản chất
của việc tăng HQKT là làm thế nào để kết hợp tối ưu giữa 2 yếu tố đầu vào, đầu ra trong
quá trình sản xuất nhằm đưa lại lợi ích cao nhất (nếu có thể)[7].
Tóm lại: HQKT là một phạm trù kinh tế - xã hội, phản ánh mặt chất lượng của hoạt
động sản xuất kinh doanh, là đặc trưng của mọi nền sản xuất xã hội thể hiện mối tương quan
so sánh cả về tuyệt đối và tương đối giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra.
Quan niệm HQKT ở các hình thái kinh tế khác nhau không giống nhau. Tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội và mục đích yêu cầu của một nước, một vùng, một ngành sản xuất cụ
thể mà đánh giá theo những góc độ khác nhau sao cho phù hợp với tình hình thực tế[6].
HQKT sản xuất lâm nghiệp nói chung, HQKT TRSX nói riêng là một vấn đề khá
phức tạp bởi vì ngoài hiệu quả về mặt kinh tế thuần túy còn có hiệu quả về mặt xã hội, môi
trường sinh thái, khó có thể lượng hóa được một cách đầy đủ.
Từ trước đến nay việc trồng rừng thường được đánh giá cao về hiệu quả môi trường
sinh thái và hiệu quả xã hội, HQKT ít được bàn tới. Chính vì thế, các cấp, các ngành, các
địa phương chỉ mới quan tâm đến trồng RPH, đặc dụng nhằm phủ xanh đất trống đồi nói
trọc, bảo vệ môi trường sinh thái và bảo tồn tính đa dạng sinh học.
Trong những năm gần đây thực hiện PTLN theo hướng xã hội hóa, việc TRSX được
xem như làn gió mới thổi vào ngành kinh tế lâm nghiệp hiện đại. Vì vậy, việc đánh giá
HQKT TRSX là một đòi hỏi khách quan xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của sự phát triển;
đây là một vấn đề mới cần nghiên cứu để có giải pháp định hướng đúng trong quá trình chỉ
đạo sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
25
Việc đánh giá HQKT TRSX được thực hiện thông qua tổng hợp tính toán các chi phí
đầu tư đối với từng loại cây trồng trên từng đơn vị diện tích (từ khi trồng, chăm sóc, quản lý
bảo vệ đến lúc khai thác) và kết quả thu được từ việc khai thác diện tích rừng trồng nói trên.
Nghiên cứu HQKT không chỉ dừng lại ở việc đánh giá mà thông qua đó tìm ra những
phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả TRSX đưa lại thu nhập chính
đáng cho người nông dân, đáp ứng nhu cầu gỗ nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu,
thúc đẩy kinh tế - xã hội môi trường PTBV; tăng GDP cho nền kinh tế.

Trong đánh HQ của RTSX, ngoài ý nghĩa kinh tế thuần túy đó là lợi ích mà RTSX
mang lại cho doanh nghiệp, cho hộ gia đình, cần nhìn nhận hiệu quả môi trường, hiệu quả
xã hội mà RTSX mang lại. Mặc dầu những giá trị trên khó có thể lượng hóa, quá trình đánh
giá cần có những nhìn nhận chính xác những giá trị trên. [15].
1.4.5.2. H th ng ch tiêu phân tích ánh giá hi u qu kinh t TRSXệ ố ỉ đ ệ ả ế
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKT TRSX không những phản ánh được mối quan hệ
giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất hay giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được
mà còn phản ánh được trình độ quản lý. Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá HQKT
TRSX phải xuất phát từ bản chất hiệu quả. Trong sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất
lâm nghiệp nói riêng việc nâng cao HQKT là vấn đề hết sức quan trọng. Từ các nguồn lực
có hạn, người nông dân phải lựa chọn các phương thức kết hợp như thế nào để đạt hiệu quả
cao nhất. Đánh giá HQKT của việc TRSX trong điều kiện kinh tế thị trường có những khó
khăn nhất định bởi vì trong quá trình sản xuất yếu tố tư liệu sản xuất tác động vào quá trình
sản xuất trong nhiều năm nhưng không đều; chu kỳ sản xuất dài nên chịu ảnh hưởng của
biến động thị trường, giá cả, điều kiện tự nhiên đến sản xuất và hiệu quả sản xuất[7].
Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về đánh giá HQKT TRSX. HQKT
trong TRSX không chỉ xét trong 1 chu kỳ, ngắn hạn mà phải xét qua nhiều chu kỳ, dài hạn
gắn với PTBV. Trong TRSX, HQKT bao gồm cả hiệu quả sinh học, bởi vì quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây trồng diễn ra theo chu trình mang đặc tính sinh học riêng của
từng loại cây; việc dùng các biện pháp kỹ thuật tác động nhằm thay đổi chu trình sinh học
của cây trồng theo hướng có lợi cho con người cũng là giải pháp nâng cao HQKT. Ví dụ: rút
ngắn thời gian sinh trưởng làm tiết kiệm thời gian và chi phí; tác động kỹ thuật làm rút ngắn
tuổi thành thục công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm rừng trồng. Năng suất cây trồng
tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần, sự phản ứng của năng suất cây trồng với
mức đầu tư sẽ bị giảm dần kể từ một điểm nào đó, điểm đó được gọi là điểm tối ưu sinh
học. Kể từ điểm này thì một đơn vị đầu vào tăng lên sẽ cho năng suất cây trồng tăng ít hơn
so với trước đó, nếu tiếp tục tăng mức đầu tư thì hiệu quả sẽ giảm dần[19]. Đối với TRSX
ngoài HQKT đưa lại cho nội bộ ngành còn thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển như
công nghiệp chế biến, dịch vụ thương mại, xuất nhập khẩu, tạo môi trường phòng hộ tốt cho
sản xuất nông nghiệp và các ngành sản xuất khác, bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy

PTBV[9].

×