Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN Dạy bài thực hành tim hiểu hoạt động của enzim amilaza

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.72 KB, 15 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH THỰC HÀNH TỐT BÀI
THỰC HÀNH "TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG CỦA ENZIM TRONG NƯỚC
BỌT" SINH HỌC 8
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lời mở đầu.
Năm học 2011 – 2012, là năm tiếp theo thực hiện cuộc vận động “Trường
học thân thiện, học sinh tích cực”. Vì vậy trường học phải là môi trường vừa thân
thiện vừa trang bị hệ thống kiến thức cho học sinh. Đó là vấn đề đang được toàn
ngành giáo dục và xã hội quan tâm. Với mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện
cho học sinh, mỗi bộ môn có một vị trí và vai trò nhất định, môn Sinh học 8 cũng
nằm trong hệ thống đó và nó góp phần thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ của bộ
môn Sinh học.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, một khoa học mở, luôn luôn mới
và rất trừu tượng. Mỗi một tiết học, một kiểu bài lên lớp đòi hỏi phải có những
phương pháp khác nhau, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của bài. Làm sao để phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Đặc biệt hơn nữa là “bài thực hành” trong chương trình sinh học là một vấn
đề rất khó, để dạy thành công một bài thực hành đòi hỏi người giáo viên phải tìm
tòi, nghiên cứu phương pháp phù hợp và qua thử nghiệm mới có thể thành công.
Tuy nhiên khả năng thành công của mỗi tiết dạy còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
(sự chuẩn bị của GV và HS). Đòi hỏi học sinh phải có kỹ năng làm thí nghiệm,
cũng như quan sát hiện tượng để củng cố kiến thức đã học. Kỹ năng làm thí
nghiệm ở đây là học sinh phải biết sử dụng dụng cụ thí nghiệm, biết quan sát hiện
tượng thí nghiệm và biết phân tích các hiện tượng để rút ra kết luận, đồng thời
phải đảm bảo thời gian cho thí nghiệm, cho giờ học. Để hình thành những kĩ năng
đó đòi hỏi giáo viên phải có những phương pháp tối ưu sao cho học sinh có thể
hình thành kĩ năng làm thí nghiệm cho bản thân.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1. Thực trạng
Mục đích chung của môn cơ thể người và vệ sinh ở trường THCS là cung
cấp cho học sinh những hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo và mọi hoạt động


sống của con người. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện thân
thể, bảo vệ và tăng cường sức khỏe, nâng cao năng suất, hiệu quả trong học tập,
góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo những con người lao động linh hoạt, năng
động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Với học sinh trường THCS Thành Minh khi được trực tiếp thao tác trên đối
tượng thì các em còn nhiều lúng túng, vụng về khi thao tác thực hành dẫn đến
nhiều thí nghiệm chưa đạt kết quả cao.
Các em còn nhiều hạn chế trong việc phân tích nội dung yêu cầu của bài,
chưa biết kết hợp giữa kiến thức lý thuyết và thực hành, chưa linh hoạt trong sự
vận dụng kiến thức lý thuyết để giải thích các hiện tượng, kết quả của các bài thực
hành.
1
Phần thực hành theo nhóm chỉ tập trung một số học sinh khá - giỏi, các học
sinh trung bình, yếu, kém còn lại thì ngại thực hiện các thí nghiệm. Đây là một số
nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả giảng dạy của giáo viên.
Bên cạnh đó điều kiện dân trí và kinh tế của xã Thành Minh thuộc khu vực
miền núi, điều này dẫn tới học sinh cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực
hiện 1 tiết thực hành. Giáo viên cũng gặp khó khăn trong giảng dạy. Nguyên nhân
dẫn đến kết quả của các bài thực hành chưa đạt được đến mức mong muốn là do:
Thiếu đồ dùng, trang thiết bị thiết yếu cho một số tiết thực hành, học sinh khó
khăn về kinh tế nên chưa chuẩn bị tốt các mẫu vật theo yêu cầu.
Mặt khác đa số các em chưa có ý thức tự giác, tự mình phải tranh thủ thực
hiện các bước thực hành để khắc sâu kiến thức cho bản thân.
Số học sinh bố trí trên một lớp ở cấp trung học cơ sở quá đông nên việc bao
quát, giúp đỡ học sinh thực hiện tốt các bài thực hành là một việc không dễ.
Trên thực tế khi dạy các bài: Quan sát tế bào và mô, tìm hiểu hoạt động của
enzim trong nước bọt, tìm hiểu chức năng của tuỷ sống sẽ không sâu sắc, học
sinh không được củng cố và kiểm nghiệm kiến thức nếu như không có các tiết
thực hành hỗ trợ và các tiết thực hành cũng không được thực hiện thành công nếu
không có lý thuyết “ lý thuyết không có thực hành là lý thuyết suông, thực hành

không có lý thuyết là thực hành mù quáng. Các kiến thức sẽ đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn khi học sinh được tự tìm tòi, kiểm nghiệm qua thực hành "trăm nghe không
bằng một thấy” các thí nghiệm, các buổi quan sát thiên nhiên sẽ gây hứng thú học
tập Sinh học cho học sinh, phát huy tính tích cực tư duy, chủ động giúp học sinh
tìm củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy các bài thực hành trong chương trình Sinh
học 8 không phải bài nào cũng đơn giản, dễ làm, dễ hiểu. Bởi vì bên cạnh những
bài thực hành sát với thực tế như các bài về Sơ cứu người, là những bài rất khó và
vượt xa khả năng của học sinh như bài: phân tích một khẩu phần ăn và lập khẩu
phần ăn cân đối, tìm hiểu en-zim trong tuyến nước bọt
2. Kết quả của thực trạng
Qua khảo sát kỹ năng thực hành bài "Tìm hiểu hoạt động của enzim trong
nước bọt" ở lớp 8a1 trường THCS Thành Minh năm học 2010 - 2011 kết quả kỹ
năng thực hành đạt tỉ lệ thấp cụ thể: Tổng số 34 học sinh.
Lớp
Số HS làm TN
được, đảm bảo
thời gian
Số HS làm TN
được, nhưng còn
chậm
Số HS không làm
được TN hoặc
làm chưa chính
xác
Số HS hứng thú
trong giờ học
8a1 SL TL % SL TL % SL TL % SL TL %
5 14,7 % 17 50 % 12 35,28 % 11 32,3%
Đứng trước thực trạng trên tôi thấy rằng cần phải tìm ra các giải pháp thích

hợp nhằm giúp các em có hứng thú, say mê học bộ môn Sinh học nói chung, hình
2
thành cho các em kĩ năng và khả năng lĩnh hội và vận dụng kiến thức lý thuyết
vào thực hiện tốt các bài thực hành
Qua tìm hiểu SGK, sách tham khảo và các tài liệu trên internet kết hợp với
kinh nghiệm sau 2 năm giảng dạy. Tôi rút ra một số kinh nghiệm nhỏ giúp học
sinh thực hành tốt bài thực hành: "Tìm hiểu hoạt động của enzim trong nước bọt"
trong chương trình Sinh học 8 để các đồng nghiệp tham khảo và góp ý cho tôi
hoàn thiện hơn trong dạy các bài thực hành Sinh học.
3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Để giúp học sinh lớp 8 học tốt các bài thực hành môn Sinh học nói chung
và bài thực hành “Bài 26: Tìn hiểu hoạt động của enzim trong tuyến nước bọt”
nói riêng bản thân tôi đang sử dụng một số giải giải pháp cụ thể sau:
- 1. Xác định yêu cầu đối tiết thực hành :
- 2. Nhờ sự trợ giúp của học sinh.
- 3. Các bước tổ chức giờ thực hành.
- 4. Soạn giáo án phù hợp với phương pháp dạy học tích cực.
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Xác định yêu cầu đối với tiết thực hành.
Muốn nâng cao chất lượng các bài thực hành không thể bỏ qua sự chuẩn bị,
sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của giáo viên. Trong chương trình sách giáo
khoa cũ, điều kiện thiết bị trường học những năm trước đây còn thiếu thốn thì
việc dạy và học của thầy và trò còn gặp khó khăn nhiều. Hiện nay trang thiết bị
trường học, nội dung chương trình mới thì việc dạy và học của giáo viên và học
sinh gặp nhiều thuận lợi hơn. Vậy để phát huy tốt vai trò của thiết bị dạy học bản
thân tôi thực hiện tốt một số công việc cơ bản sau:
* Đối với giáo viên:

- Về chuẩn bị: Cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về phương tiện, giáo viên phải
xây dựng kế hoạch từ đầu năm về phương tiện thực hành ở mỗi bài, để nắm thế
chủ động trong tiết thực hành. Trong thực hành cần có những dụng cụ, thiết bị,
vật mẫu có sẵn hoặc tìm tòi trong thiên nhiên đặc biệt là bộ môn Sinh học.
- Về nội dung: Giáo viên phải nắm chắc kiến thức của bộ môn trong đó lưu
ý kiến thức về giải phẩu học, đồng thời phải có sự tìm hiểu về kiến thức bổ trợ
liên quan đặc biệt là am hiểu thực tiển và liên hệ với thực tế trong cuộc sống hàng
ngày, tạo cho các em sự hào hứng tìm hiểu củng cố kiến thức qua kết quả của các
bài thực hành.
- Về tổ chức thực hành:
+ Khi tiến hành, giáo viên phải đặt vấn đề rõ ràng, giải thích cụ thể mục
đích, yêu cầu, ý nghĩa của thí nghiệm.
+ Các câu hỏi và bài tập phải được giáo viên nêu ra từ trước khi tiến hành
thực hành và ghi lên bảng hoặc vào phiếu học tập. Các câu hỏi và bài tập phải phù
hợp với chủ đề của bài học để khi tìm lời giải đáp giúp học sinh nắm vững, hiểu
sâu bản chất của hiện tượng.
+ Cần hướng dẫn học sinh ghi chép vào vở những hiện tượng xảy ra trong
quá trình thực hành. Những tài liệu ghi chép được trong quá trình quan sát là rất
cần thiết. Vì các dữ kiện đó làm cơ sở giải thích, khái quát rút ra những kết luận
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của bài đồng thời trả lời các câu hỏi và bài tập đề ra.
+ Phối hợp một cách hợp lí các thao tác thực hành với lời nói của giáo
viên.
4
. Đối với những sự kiện, hiện tượng hay cơ chế đơn giản có thể rút ra kết
luận nhờ sự quan sát trực tiếp không cần suy luận bằng các thao tác lôgíc phức tạp
thì lời nói của giáo viên chỉ có tính chất hướng dẫn sự quan sát chứ không phải là
nguồn cung cấp thông tin dạy – học.
. Còn đối với những hiện tượng phức tạp thì nên tổ chức cho học sinh
quan sát thực hành theo lôgíc nghiên cứu, như vậy sẽ có hiệu quả rèn luyện trí
thông minh, tư duy sáng tạo để hình thành kĩ năng, kĩ xảo do học sinh phải sử

dụng các biện pháp trí tuệ, học sinh sẽ lĩnh hội tri thức một cách chủ động, sâu
sắc hơn.
- Thí nghiệm phải đơn giản, vừa sức học sinh tránh những thí nghiệm quá
phức tạp, tránh những yêu cầu quá trừu tượng. Hơn nữa thời gian cho thực hành
phải hợp lí để đảm bảo thu được kết quả thật sát thực tiễn.
- Sau khi thực hành cần tổ chức cho học sinh thảo luận theo hệ thống câu
hỏi, bài tập và kết quả quan sát thu được sau khi thực hành. Sau khi thảo thảo luận
giáo viên phải tổ chức công tác đánh giá kết quả thực hành. Giáo viên có thể đánh
giá dưới nhiều hình thức khác nhau: Mức độ hoàn thành bài thực hành, ý thức
thực hành của học sinh và kết quả bài thu hoạch. Phần đánh giá cần tỉ mỉ cụ thể
cho từng học sinh để từ đó các em tìm ra ưu điểm và nhược điểm, có biện pháp
khắc phục các nhược điểm nhằm nâng cao chất lượng các bài thực hành trong
chương trình Sinh học 8.
Ví dụ: Đối với bài thực hành “Bài 26: Thực hành: Tìm hiểu hoạt động của
enzim trong nước bọt”. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo các thiết bị thí nghiệm và
các thao tác thực hành. Chính vì điều này tôi luôn lựa chọn :
Thø nhÊt : Dông cô bµi thùc hµnh
- 12 ống nghiệm nhỏ, giá để ống nghiệm, đèn cồn và giá đun, ống đong
chia độ, cuộn giấy đo pH, phễu nhỏ và bông lọc, bình thuỷ tinh, đũa thuỷ tinh,
nhiệt kế, cặp ống nghiệm, may so đun nước.
Thức hai : Vật liệu và hoá chất thực hành
- Nước bọt hoà loãng (25%) lọc qua bông lọc.
- Hồ tinh bột 1%
- Hoá chất : dd HCl 2%, dd Iốt 1%, thuốc thử Strôme
Thứ ba: Đến tiết thực hành tôi luôn có chuẩn bị bảng phụ.
Bảng phụ 1: Giáo viên ghi tóm lược lại các bước thực hành của từng phần.
Bảng phụ 2: Kẻ bảng ghi kết quả thực hành.
Cụ thể: Vào tiết thực hành bài 27: “Thực hành: Tìm hiểu hoạt động của enzim
trong nước bọt”.
Bảng phụ 1: Ghi nội dung sau:

Bước 1: Chuẩn bị vật liệu cho các ống nghiêm (có thể tiến hành trước giờ lên
lớp)
* GV phân chia nhóm, hướng dẫn các nhóm cách làm thí nghiệm:
- Lấy 4 ống nghiệm đặt tên là A, B, C, D với dd trong các ống như sau:
+ ống A: 2 ml hồ tinh bột + 2ml nước lã.
+ ống B: 2 ml hồ tinh bột + 2ml nước bọt.
+ ống C: 2 ml hồ tinh bột + 2 ml nước bọt đã đun sôi.
5
+ ống D: 2 ml hồ tinh bột + 2 ml nước bọt + vài giọt dd HCl 2%.
Bước 2: Tiến hành thí nghiệm
- Dùng giấy đo pH đo dung dịch của các ống nghiệm rồi ghi kết quả vào
vở.
- Đặt 4 ống nghiệm trong chậu nước nóng 37
0
C trong thời gian 15 phút
(hình 26.1 SGK).
Bước 3: Kiểm tra kết quả thí nghiệm và giải thích kết quả:
- Chia dung dịch trong mỗi ống nghiệm ra làm 2 phần đựng trong 2 ống
nghiệm mới:
+ ống A thành: A
1
và A
2
+ ống B thành: B
1
và B
2
+ ống C thành: C
1
và C

2
+ ống D thành: D
1
và D
2
- Dïng thuèc thö ®Ó kiÓm tra kÕt qu¶ biÕn ®æi trong c¸c èng nghiÖm.
+ ống A
1

+ ống B
1
Thêm vào mỗi ống vài giọt dd Iốt 1%
+ ống C
1
+ ống D
1
+ ống A
2

+ ống B
2
Thêm vào mỗi ống vài giọt dd Strôme.
+ ống C
2
Đun sôi mỗi ống trên ngọn lửa đèn cồn.
+ ống D
2
Bảng phụ 2: Kẻ bảng 26.1 và 26.2 SGK
Thứ tư : Giáo viên cần làm thử các thí nghiệm các thí nghiệm trong các tiết học
cũng như các bài thực hành để kiểm tra sự hoạt động của các thiết bị. Để từ đó có

sự điều chỉnh nếu có sự sai khác so với mục tiêu của thí nghiệm đề ra.
Xong kết quả bài thực hành muốn đạt kết quả tốt không thể chỉ có sự chuẩn
bị của giáo viên mà còn phải kể đến sự chuẩn bị của học sinh.
Thứ năm: Giáo viên phải nắm chắc kiến thức về hoạt động của enzim trong nước
bọt.
* Đối với học sinh:
Trong lần làm thí nghiệm năm học trước ở lớp 8a1 trường THCS Thành
Minh tôi đặt ra câu hỏi như sau: Tại sao khi nhai lâu một mẫu bánh mì lại có cảm
giác ngọt? Với câu hỏi này tôi thu thập kết quả từ phía các em học sinh có ba
nhóm ý kiến:
Nhóm thứ nhất: Các em cho rằng trong bánh mì có tinh bột chín đã được enzim
amilaza biến đổi thành đường mantôzơ.
Nhóm thứ hai: Các em cho rằng trong bánh mì có đường.
Nhóm thứ ba: Các em không có ý kiến.
6
Sở dĩ có kết quả trên là do các em học sinh chưa có sự chuẩn bị tốt ở nhà.
Rút kinh nghiệm từ lần này tôi đã áp dụng một số biện pháp giúp các em chuẩn bị
bài ở nhà tốt hơn. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hành trong nhóm chưa có sự
hợp tác mà còn ỉ lại cho một số bạn có học lực khá - giỏi.
Rút kinh nghiệm của năm học trước, ở năm học này trước mỗi tiết thực
hành tôi yêu cầu học sinh:
+ Cần xem lại, nắm vững những kiến thức có liên quan đến bài thực hành.
+ Tự giác chuẩn bị những dụng cụ, thiết bị, đồ dùng và mẫu vật có thể kiếm
được ở gia đình và trong thiên nhiên.
+ Cần có ý thức sẵn sàng tham gia thực hành.
+ Phải có ý thức tích cực tự giác hợp tác cùng nhau hoàn thành các công
việc được giao cho tập thể, nhóm tổ.
+ Trong giờ thực hành học sinh phải chủ động thực hiện những công việc
cơ bản, (giáo viên chỉ hướng dẫn và làm mẫu). Có như vậy, học sinh mới phát
hiện được kiến thức trên sản phẩm thực hành, trên cơ sở mà phát triển tư duy,

hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, tạo hứng thú học tập và yêu thích bộ môn.
+ Cùng với giáo viên học sinh phải có sự tự đánh giá kết quả thực hành của
nhóm mình và đánh giá kết quả thực hành của các nhóm trên cơ sở đó mà rút ra
bài học kinh nghiệm và có ý thức phấn đấu cho các tiết thực hành sau. Học sinh tự
đánh giá sẽ tạo ra động lực lớn và ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập.
Ví dụ: Đối với bài 26 “Thực hành: Tìm hiểu hoạt động của enzim trong nước
bọt”.
- Học sinh cần xem lại kiến thức về sự biến đổi hóa học thức ăn trong
khoang miệng.
- Kẻ bảng 26.1 và 26.2 SGK ra giấy.
- Chuẩn bị hồ tinh bột (mỗi nhóm 10 ml).
- Sau khi quan sát được hiện tượng thì phải cùng nhau thảo luận để rút ra
kết luận.
- Các nhóm phải có sự đánh giá lẫn nhau.
Qua việc áp dụng giải pháp này tôi nhận thấy giáo viên đỡ vất vả trong tiết
thực hành và kết quả bài thực hành của các em sẽ tốt hơn. Qua đây giáo viên giáo
dục được ý thức tự học tập của các em.
Kết quả của bài thực hành ngoài việc phụ thuộc vào sự chuẩn bị về thiết bị
của giáo viên, chất lượng thiết bị, sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, còn phụ
thuộc vào kĩ năng thực hành của học sinh.
2 . Nhờ sự hỗ trợ của học sinh.
Đây là giải pháp tôi đã áp dụng nhận thấy rất có hiệu quả, tạo niềm tin cao
cho học sinh vì từ các bạn cùng lớp hướng dẫn làm thí nghiệm để rút ra kết luận
cho bài học. Nhưng để thực hiện giải pháp này cần phải có thời gian dài và sự
chuẩn bị từ trước của giáo viên và học sinh, sự kết hợp chặt chẽ của giáo viên và
một số học sinh được giáo viên chọn. Để thực hiện giải pháp này tôi thực hiện
như sau:
7
Đầu tiên tôi chọn ở mỗi lớp 3 - 4 em học sinh có kết quả học tập bộ môn
tương đối, mạnh dạn, yêu thích bộ môn, cử làm nhóm trưởng trong trong tiết thực

hành.
Sau khi chọn học sinh xong tôi tập trung các em trước khi học bài 26 vào
phòng thiết bị của trường để cùng giáo viên làm quen dần với việc soạn thiết bị
cho các tiết học và từng bước hình thành các thao tác thực hành của các thí
nghiệm bài 26. Trong khi hướng dẫn các em thực hành giáo viên kết hợp bồi
dưỡng kĩ năng diễn đạt cho các em.
Vào các tiết học có tiến hành thí nghiệm, giáo viên yêu cầu các em này hỗ
trợ giáo viên trong việc hướng dẫn các bạn trong lớp tiến hành thí nghiệm trong
bài học, giúp giáo viên bao quát lớp trong các thí nghiệm thực hiện theo nhóm.
Vai trò này của các em thể hiện tầm quan trọng hơn nữa trong các tiết thực hành ở
Bài 26: “Thực hành: Tìm hiểu hoạt động của enzim trong nước bọt”.
Đến tiết thực hành chính các em sẽ là người hỗ trợ giáo viên hướng dẫn các
bạn trong nhóm của mình lần hai sau khi giáo viên đã hướng dẫn lần một và giúp
giáo viên điều hành, bao quát lớp, ghi nhận thao tác, kết quả thí nghiệm, của
các bạn trong mỗi nhóm.
Ví dụ: Đầu giờ thực hành bài 26: “Thực hành: Tìm hiểu hoạt động của
enzim trong nước bọt” tôi phân công mỗi em sẽ phụ trách một nhóm. Các nhóm
trưởng theo dõi đánh giá, cho điểm về ý thức, thái độ của mỗi thành viên trong
nhóm theo mức điểm mà giáo viên đã quy định. Từ đó giáo viên có thể căn cứ để
cho điểm cho từng cá nhân học sinh. Giáo viên chỉ làm nhiệm vụ phụ trách theo
dõi, đánh giá chung.
Qua việc áp dụng giải pháp này tôi nhận thấy có các ưu điểm điển hình
như:
- Tạo nguồn học sinh thực hành cho bộ môn Sinh học.
- Tạo niềm tin trong học sinh.
- Giúp giáo viên đánh giá kết quả bài thực hành chính xác hơn.
- Phát huy tối đa được vai trò của nhóm trưởng.
- Tiết học đạt được hiệu quả cao hơn.
3: Các bước tổ chức giờ thực hành
Sau khi làm xong công tác chuẩn bị thì giáo viên tiến hành các bước dạy

như sau:
Bước 1 : Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm,
chú ý số em trong một nhóm không quá đông để đảm bảo đủ thời gian cho tất cả
các thành viên đều được tiến hành thí nghiệm.
- Các nhóm gồm có cả ba đối tượng học sinh để các em giúp đỡ lẫn nhau
trong quá trình tiến hành thí nghiệm, thảo luận đưa ra nhận xét.
- Giáo viên kiểm tra phần chuẩn bị của các em đã yêu cầu từ các tiết học
trước.
Ví dụ: Khi dạy bài 26 “Thực hành: Tìm hiểu hoạt động của enzim trong nước
bọt” ở lớp 8a3 trường THCS Thành Minh (sí số 27 học sinh):
8
- Tôi đã chia lớp thành 3 nhóm (mỗi nhóm 9 học sinh). Trong đó có một
nhóm trưởng đã được cùng giáo viên chuẩn bị thiết bị và làm thử các thí nghiệm
của tiết học.
+ 2 người nhận và kiểm tra dụng cụ và hóa chất.
+ 1 người chuẩn bị nhãn các ống nghiệm.
+ 3 người chuẩn bị dung dịch nước bọt pha loãng.
+ 2 người chuẩn bị chậu nước nóng 37
0
C.
+ Nhóm trưởng hướng dẫn, theo dõi, đánh giá.
- Sau đó kiểm tra xem đã kẻ bảng 26.1 và 26.2 SGK như thế nào và ôn lại
kiến thức về biến đổi hoá học trong khoang miệng.
Bước 2: Cho học sinh cả lớp tự đọc hướng dẫn thí nghiệm trong sách giáo khoa
nhằm giúp các em nắm bắt được phần nào mục đích của thí nghiệm, cách tiến
hành thí nghiệm.
Ví dụ: Gọi đại diện một học sinh đọc tốt của lớp đọc toàn bộ bài 26 để các học
sinh khác theo dõi.
Bước 3 : Giáo viên nêu mục đích của thí nghiệm cho học sinh nắm chắc để tiến
hành thí nghiệm theo đúng yêu cầu của bài

Ví dụ: Với bài 26 tôi nêu ra mục đích như sau:
- Biết làm thí nghiệm để tìm hiểu những điều kiện đảm bảo cho enzim hoạt
động bình thường.
- Biết xử lí kết quả để rút ra kết luận.
- Rèn luyện tính bền bỉ, khả năng nghiên cứu, tìm tòi.
- Biết cách vệ sinh ăn uống.
Bước 4 : Giới thiệu dụng cụ và cách bố trí thí nghiệm.
- Với dụng cụ thí nghiệm thì giáo viên cũng cần nêu rõ như phần chuẩn bị
- Cách bố trí thí nghiệm có thể tiến hành như phần chuẩn bị nêu trên.
- Nêu những lưu ý cần thiết hoặc những yêu cầu đối với việc thí nghiệm kể
cả về mặt thời gian.
Ví dụ:
- Trong bài 26 cần các dụng cụ và hoá chất sau:
+ Dụng cụ: 12 ống nghiệm nhỏ, giá để ống nghiệm, đèn cồn và giá đun,
ống đong chia độ, cuộn giấy đo pH, phễu nhỏ và bông lọc, bình thuỷ tinh, đũa
thuỷ tinh, nhiệt kế, cặp ống nghiệm, mayso đun nước.
+ Hoá chất: Nước bọt hoà loãng( 25%) lọc qua bông lọc, hồ tinh bột 1%, dd
HCl 2%, dd Iốt 1%, thuốc thử Strôme
- Những lưu ý:
+ Khi làm thí nghiệm phải cẩn thận tránh vỡ ống nghiệm, đổ đèn cồn.
9
+ Phải ghi lại chính xác hiện tượng quan sát được.
+ Phải đảm bảo thời gian của các quá trình làm thí nghiệm.
Bước 5 : Tiến hành thí nghiệm.
- Nếu thí nghiệm nào khó thì giáo viên có thể làm thao tác trước cho các
nhóm theo dõi.
- Cho các nhóm làm thí nghiệm theo kế hoạch đã vạch, các nhóm ghi nhanh
những hiện tượng (mẫu báo cáo thí nghiệm).
- Khi tiến hành thí nghiệm giáo viên cần theo dõi uốn nắn sai sót (nếu có)
cho các em và đảm bảo cho mọi học sinh trong các nhóm đều được làm thí

nghiệm, được quan sát, nhận xét và thảo luận. Nếu các nhóm khi làm thí nghiệm
có gặp khó khăn nào đó thì giáo viên yêu cầu toàn bộ lớp tạm ngừng và hướng
dẫn bổ sung thêm, giáo viên có thể trực tiếp làm lại thí nghiệm đó cho học sinh
theo dõi.
Ví dụ: Với bài thực hành này tôi làm như sau:
- Treo bảng phụ có ghi bước 2 và bước 3 của thí nghiệm, rồi hướng dẫn học
sinh làm theo từng bước.
- Đi quan sát các nhóm tiến hành thí nghiệm, thấy nhóm nào gặp khó khăn
thì hướng dẫn thêm.
- Khi thí nghiệm của các nhóm có hiện tượng thì hướng dẫn học sinh ghi lại
vào mẫu báo cáo.
Bước 6 : Xử lý kết quả thí nghiệm thảo luận đưa ra kết luận của từng phần hoặc
cả bài.
- Sau khi làm thí nghiệm xong từng phần giáo viên hướng dẫn học sinh
nhận xét để đi đến kết luận của phần đó hoặc cả bài.
Tới đây giáo viên chú ý sử dụng hệ thống bảng phụ hoặc phiếu học tập để
giúp các nhóm cùng tìm ra nhận xét một cách chính xác.
- Giáo viên cần tôn trọng các nhận xét của từng nhóm.
- Nếu có nhận xét sai giáo viên cần khéo léo hướng dẫn các em tìm ra
nguyên nhân dẫn đến cái sai như: So sánh với nhận xét các nhóm khác, làm lại thí
nghiệm của mình một cách cẩn thận (nếu còn thời gian).
- Khi dùng bảng phụ giáo viên phải suy nghĩ kỹ là dùng nó để làm gì, đọng
lại kiến thức cơ bản nào. Cần sắp xếp bảng phụ cho hợp lý để khi treo tránh sự sai
sót hoặc tác dụng của nó ít đi. Bên cạnh đó bảng phụ cũng cần phải trình bày khoa
học như dùng phấn mầu với những câu từ quan trọng.
- Nếu thí nghiệm có độ chính xác chưa cao thì giáo viên có thể trình bày
một thí nghiệm thay thế. Nhưng với thí nghiêm thay thế do giáo viên làm phải
đơn giản, dễ làm mà vẫn đảm bảo tính chính xác khoa học.
Ví dụ: Xử lí kết quả bài 26
- Sau khi có kết quả thí nghiệm giáo viên cho học sinh thảo luận để giải

thích hiện tượng (giáo viên gợi ý nếu học sinh khó giải thích).
- Sau đó giáo viên lần lượt treo bảng phụ có nội dung bảng 26.1 và 26.2
10
để học sinh so sánh với kết quả của nhóm mình.
Bước bảy : Tổng kết nhận xét đánh giá
- Về sự chuẩn bị của học sinh
- Về ý thức thực hành của các nhóm (thái độ và kĩ năng thao tác, thao tác
làm thí nghiệm)
- Tuyên dương các nhóm, cá nhân làm tốt, nhắc nhở phê bình nhóm và cá
nhân thực hiện chưa đạt yêu cầu, từ đó tạo ra không khí thi đua, khích lệ tính tự
giác học tập và làm việc của các em.
Ví dụ: Khi nhận xét bài 26
- Gọi các nhóm trưởng đánh giá quá trình làm thí nghiệm của nhóm mình
về chuẩn bị, ý thức, kết quả, kỹ năng.
- Giáo viên đánh giá lại một lần nữa (tuyên dương nhóm làm tốt, phê bình
những nhóm yếu.)
5. Soạn giáo án phù hợp với phương pháp dạy học tích cực.
Đổi mới phương pháp dạy học là trọng tâm đổi mới giáo dục. Phương pháp
dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, khã năng làm việc theo nhóm, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Với phương pháp dạy học tích cực đó thì việc soạn giáo án có vai trò rất
quan trọng. vì đó là kế hoạch dạy học của 1 tiết. Muốn đạt được kết quả cao đòi
hỏi giáo viên phải chuẩn bị công phu.
Ví dụ:
Bài 26: Thực hành :
TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG CỦA ENZIM TRONG NƯỚC BỌT
I. Mục tiêu:
- Biết đặt các thí nghiệm để tìm hiểu những điều kiện bảo đảm cho enzim

hoạt động ( trong thí nghiệm này enzim trong nước bọt chỉ tác động với tinh bột
chín trong điều kiện áp suất 1 at, t
0
= 37
0
C, môi trường kiềm nhẹ)
- Biết rút ra kết luận từ kết quả so sánh giữa thí nghiệm với đối chứng.
- Rèn luyện tính bền bỉ, khả năng tìm tòi nghiên cứu khoa học trong thực hành.
- Giáo dục vệ sinh ăn uống.
II. Chuẩn bị:
1. Dụng cụ thực hành : 12 ống nghiệm nhỏ, giá để ống nghiệm, đèn cồn và giá
đun, ống đong chia độ, cuộn giấy đo pH, phễu nhỏ và bông lọc, bình thuỷ tinh,
đũa thuỷ tinh, nhiệt kế, cặp ống nghiệm, mayso đun nước.
2. Vật liệu :
- Nước bọt hoà loãng( 25%) lọc qua bông lọc.
11
- Hồ tinh bột 1%
- Hoá chất : dd HCl 2%, dd Iốt 1%, thuốc thử Strôme
III. Nội dung và cách tiến hành:
Hoạt động 1:
- Giáo viên kiểm tra hoặc ôn tập, củng cố cho học sinh về biến đổi hoá học
trong khoang miệng.
- Nêu mục tiêu của bài thực hành.
- Kiểm tra việc chuẩn bị mẩu báo cáo của học sinh.
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ và cử nhóm trưởng.
Hoạt động 2:
Bước 1: Chuẩn bị vật liệu cho các ống nghiêm (có thể tiến hành trước giờ lên
lớp)
* Giáo viên hướng dẫn các nhóm cách làm thí nghiệm:
- Lấy 4 ống nghiệm đặt tên là A, B, C, D với dd trong các ống như sau:

+ ống A: 2 ml hồ tinh bột + 2ml nước lã.
+ ống B: 2 ml hồ tinh bột + 2ml nước bọt.
+ ống C: 2 ml hồ tinh bột + 2 ml nước bọt đã đun sôi.
+ ống D: 2 ml hồ tinh bột + 2 ml nước bọt + vài giọt dd HCl 2%.
Bước 2: Tiến hành thí nghiệm
- Dùng giấy đo pH đo dung dịch của các ống nghiệm rồi ghi kết quả vào
vở.
- Đặt 4 ống nghiệm trong chậu nước nóng 37
0
C trong thời gian 15 phút
(hình 26.1 SGK).
? Tại sao cần chậu nước nóng 37
0
C mà không phải là nhiệt độ khác?
* Hướng dẫn học sinh quan sát:
- GV yêu cầu HS quan sát hiện tượng xảy ra và ghi lại kết quả.
- GV yêu cầu HS so sánh dung dịch trong ống nghiệm với ban đầu.
- GV hướng dẫn HS giải thích các hiện tượng.
- GV bổ sung và chuẩn kiến thức ở bảng chuẩn 26.1:
Các ống
nghiệm
Hiện tượng
( độ trong)
Giải thích
A Không đổi Nước lã không có enzim biến đổi tinh bột.
B Tăng lên Nước bọt có enzim làm biến đổi tinh bột.
C Không đổi Nước bọt đun sôi làm mất hoạt tính của enzim biến đổi
tinh bột
D Không đổi Do dd HCl đã hạ thấp pH nên enzim trong nước bọt
không hoạt động, không làm biến đổi tinh bột

Bước 3 Kiểm tra kết quả thí nghiệm và giải thích kết quả:
- GV hướng dẫn HS chia dung dịch trong mỗi ống nghiệm ra làm 2 phần
đựng trong 2 ống nghiệm mới:
+ ống A thành: A
1
và A
2
+ ống B thành: B
1
và B
2
12
+ ống C thành: C
1
và C
2
+ ống D thành: D
1
và D
2
- Tiếp tục hướng dẫn HS cách kiểm tra như sau:
+ ống A
1

+ ống B
1
Thêm vào mỗi ống vài giọt dd Iốt 1%
+ ống C
1
+ ống D

1
+ ống A
2

+ ống B
2
Thêm vào mỗi ống vài giọt dd Strôme.
+ ống C
2
Đun sôi mỗi ống trên ngọn lửa đèn cồn.
+ ống D
2
- HS các nhóm làm thí nghiệm quan sát hiện tượng xảy ra trong khi để 15
phút ghi kết quả vào bảng 26.2 (cột 2)
Tinh bột + Iốt màu xanh
Đường + thuốc thử Strôme màu đỏ nâu
- Các nhóm HS thảo luận để giải thích các hiện tượng và ghi vào bảng
26.2SGK (cột 3)
- GV nhận xét kết quả các nhóm, chỉ ra chỗ sai sót và nguyên nhân, GV bổ
sung và đưa kết quả chuẩn bảng 26.2
Các ống
nghiệm
Hiện tượng
( màu sắc)
Giải thích
A
1
Có màu xanh Nước lã không có enzim biến đổi tinh bột
thành đường
A

2
Không có màu đỏ nâu
B
1
Không có màu xanh Nước bọt có enzim làm biến đổi tinh bột
thành đường.
B
2
Có màu đỏ nâu
C
1
Có màu xanh Enzim trong nước bọt bị đun sôi không còn
khả năng biến đổi tinh bột thành đường
C
2
Không có màu đỏ nâu
D
1
Có màu xanh Enzim trong nước không hoạt động ở pH
axit nên tinh bột không bị biến đổi thành
đường
D
2
Không có màu đỏ nâu
Bước 4: Học sinh viết thu hoạch
- Kiến thức: Học sinh trả lời được
+ Enzim trong nước bọt có tên là gì ?
+ Enzim trong nước bọt có tác dụng gì với tinh bột ?
+ En zim trong nước bọt hoạt động tốt nhất trong điều kiên pH và nhiệt độ
bao nhiêu?

- Kỹ năng:
+ Trình bày lại các bước trong thí nghiệm xác định vai trò và điều kiện hoạt
động của enzim trong nước bọt.
13
+ So sánh kết quả giữa những ống nghiệm nào cho phép ta khẳng định
enzim trong nước bọt có tác dụng biến đổi tinh bột thành đường?
+ So sánh kết quả giữa những ống nghiệm nào cho phép ta nhận xét về một
vài đặc điểm hoạt động của enzim trong nước bọt ?
IV. Tổng kết:
- GV nhận xét cách làm thí nghiệm của HS.
- GV cho biết những sai sót thường xảy ra khi làm thí nghiệm và chứng
minh vai trò của enzim trong nước bọt.
- GVnhận xét, cho điểm vài nhóm làm tốt và nhắc nhở các nhóm hoạt động
có kết quả chưa cao.
- GV cho HS thu dọn vệ sinh.
Sau khi thực hiện giáo án trên tôi nhận thấy vai trò của học sinh trong tiết
học đựoc nâng cao, học sinh đã thực sự tích cực, tự giác làm thí nghiệm một cách
nghiêm túc. Đồng thời kĩ năng thực hành của học sinh cũng được rèn luyện nhiều
hơn.
C. KẾT LUẬN
1. Kết quả đạt được.
Với kinh nghiệm phương pháp dạy các bài thực hành trong môn Sinh học
lớp 8 như đã trình bày ở trên. Tôi đã nhận thấy được sự hứng thú học tập của học
sinh. Trong các giờ thực hành học sinh tự giác tìm tòi kiến thức được thể hiện qua
các thao tác thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Các tiết thực hành trở
nên sôi nổi tránh được sự nhàm chán, học sinh hứng thú tích cực hơn trong học
tập. Đại bộ phận học sinh đã có những kỹ năng cơ bản về các bài thực hành
trong chương trình .
Kết quả kiểm tra kỹ năng thực hành đã có sự chuyển biến mạnh mẽ so với
ban đầu. Cụ thể ở lớp 8a3 với tổng số 27 học sinh

Lớp
Số HS làm TN
được, đảm bảo
thời gian
Số HS làm TN
được, nhưng còn
chậm
Số HS không làm
được TN hoặc
làm chưa chính
xác
Số HS hứng thú
trong giờ học
8a3 SL TL % SL TL % SL TL % SL TL %
9 33,3% 12 44,4% 6 22,3% 24 88,8%
Kết quả đạt được như trên chưa phải là cao, nhưng đối với một trường
THCS ở một xã vùng cao như trường THCS Thành Minh thì đây cũng là một sự
đáng mừng. Thành quả trên đă tạo cho tôi một niềm tin vào công việc mà mình đă
và đang thực hiện, đó là sự tìm tòi các phương pháp mới, mạnh dạn áp dụng vào
thực tiễn. Với mục tiêu là không ngừng nâng cao chất lượng học tập cho học sinh
14
và chất lượng chuyên môn của bản thân, góp phần năng cao chất lượng chung cho
nền giáo dục .
Để bản bảo thành công cho tiết thực hành cần đảm bảo các yêu cầu sau:
*Đối với giáo viên:
- Cần có kế hoạch sử dụng đồ dùng dạy các bài thực hành theo PPCT và
căn cứ tình hình thực tế của nhà trường và địa phương.
- Thường xuyên sử dụng, cải tiến đồ dùng, phương tiện, khắc phục mọi khó
khăn và có sự đầu tư cho các tiết thực hành.
- Thực hiện nghiêm túc đầy đủ những yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy

học theo chương trình và SGK mới.
- Phải có sự kết hợp, hỗ trợ nhau giữa giáo viên và học sinh.
- Sau mỗi bài thực hành phải có sự rút ra các ưu điểm, nhược điểm, những
bài học kinh nghiệm để cho các tiết thực hành sau đạt hiệu quả cao hơn.
*Đối với học sinh
- Phải chủ động, tích cực, tự giác trong các giờ thực hành. Chuẩn bị đầy đủ
mẫu vật theo yêu cầu của giáo viên.
- Nắm chắc phương pháp tiến hành và các thao tác cơ bản theo hướng dẫn
cụ thể phù hợp với từng tiết thực hành
- Biết hợp tác nhóm để cùng nhau tìm ra kiến thức mới.
Trên đây là những nội dung mà tôi đã và đang tìm, thử nghiệm để rút ra
kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình dạy học. Tuy nhiên vì điều kiện thời
gian, cũng như tình hình thực tế của học sinh ở địa phương nơi tôi công tác và
năng lực cá nhân có hạn, nên việc thực hiện phương pháp này chắc hẳn không
tránh khỏi thiếu sót. Kính mong các đồng chí và các bạn đồng nghiệp, trao đổi và
góp ý để giúp tôi hoàn thiện hơn trong chuyên môn.!
Thành Minh ngày 2 tháng 4 năm 2012

Người thực hiện
Lê Văn Công
15

×