Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

đề tài vai trò của nguyễn ái quốc trong quá trình vận động thành lập đảng 21930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.13 KB, 27 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC:
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP
ĐẢNG (2-1930)

LỚP HỌC PHẦN: 211200847
NHÓM: 2
GVHD: ThS. Vũ Thị Thu Trang
Tp Hồ Chí Minh, 4/2015
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC:
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH
LẬP ĐẢNG (1930)
LỚP HỌC PHẦN: 211200847
NHÓM: 2
STT HỌ VÀ TÊN
MÃ SỐ


SINH VIÊN
CHỮ KÝ
1 Lò Thị Phương Mai 14105851
2 Nguyễn Thị Mến 14094391
3 Đinh Thị Thùy Linh 14109511
4 Nguyễn Thị Mai Hường 14105111
5 Võ Thị Thu Hà 14108181
6 Nguyễn Mộng Thùy 14023791
7 Nguyễn Đặng Bảo Ân 14107061
8 Trần Thị Ánh Tuyết 14068421
9 Nông Thị Ánh Tuyết 14091501
10 Trần Phương Nam 14042221
TP Hồ Chí Minh, 4/2015
Nhận xét của Giáo Viên

























M ỤC L ỤC
PH ẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
I.Nguồn gốc và quá trình hình thành
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Chủ nghĩa Mác
1.1.2 Chủ nghĩa Lênin
1.1.3 Quốc tế cộng sản
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 cách mạng trong nước
1.2.1 cách mạng trên thế giới
1.3 Quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
II. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng Sản
2.1 Sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị
2.2 Sự chuẩn bị về tổ chức
III. Hội nghị thành lập Đảng và cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng
3.2 Hội nghị thành lập Đảng
3.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
IV. Kết luận
PHẦN MỞ ĐẦU

Hồ Chí Minh-vị anh hùng dân tộc, Người đã bôn ba cả đời khắp
năm châu bốn biển để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam .
Giữa lúc nước nhà đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, đòi
hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo và có một đường lối cách mạng đúng
đắn, cũng như một lý luận soi đường. Sự ra đời của Đảng chính là một
bước ngoặt trọng đại cho cách mạng Việt Nam .Quá trình vận động thành
lập Đảng là một quá trình đấu tranh và chuẩn bị lâu dài, toàn diện của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và những người làm cách mạng Việt
Nam. Trong đó người có vai trò hàng đầu, có tác động lớn nhất đến việc
thành lập Đảng chính là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Người sinh ra trong một
gia đình nho học yêu nước, lớn lên trên quê hương giàu truyền thống yêu
nước đấu tranh bất khuất, lại được tiếp nhận sự giáo dục của gia đình theo
tư tưởng yêu nước thương dân …Tất cả đã hình thành cho Nguyễn Ái
Quốc lòng căm thù sâu sắc giặc Pháp xâm lược, đồng cảm với nỗi khổ
của nhân dân ngay từ thời niên thiếu. Tuy chịu ảnh hưởng tinh thần yêu
nước của cha anh nhưng bằng trí tuệ thiên tài và sự độc lập trong suy nghĩ
đã tạo cho Người có một tư tưởng và chí hướng hoàn toàn khác với
phong trào yêu nước đương thời. Người đã sớm nhận thấy những hạn
chế, sai lầm của những nhà cách mạng đi trước nên đã chọn cho mình
một hướng đi riêng đó là sang phương Tây, vừa để học hỏi kinh ngiệm,
nghiên cứu lý luận, xem xét tình hình vừa tham gia trực tiếp vào lao động
và đấu tranh trong hàng ngũ công nhân và nhân dân lao động để tìm con
đường cứu nước. Và sự lựa chọn đó đã mở ra một chặng đường mới, là
mốc đánh dấu cũng là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng. Là
người Việt Nam đầu tiên nắm bắt Chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng
sáng tạo vào đặc điểm lịch sử cách mạng dân tộc. Vai trò quan trọng của
Người được thể hiện rõ nét trong quá trình thành lập Đảng cũng như
trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giúp cho cách mạng
nước nhà từ nay có người lãnh đạo, có một đường lối rõ ràng và giải

quyết được những khủng hoảng lớn đang còn tồn tại.

PHẦN NỘI DUNG
I. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác ra đời năm 1840, ông nghiên cứu xã hội tư bản và
khẳng định rằng sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội là
một tất yếu khách quan.
Ở phương Tây, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản diễn ra
quyết liệt, tiêu biểu có các phong trào: công nhân dệt Li-ông Pháp (1831-
1834), công nhân Xilidi Đức (1844), phong trào Hiến chương Anh (1838-
1848). Các phong trào này đều bị thất bại do thiếu tổ chức, thiếu sự liên
kết và không có lý luận soi đường.
Mác đưa ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lật đổ chủ
nghĩa tư bản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa.
Năm 1848 Mác tuy ên bố: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, đưa ra quy
luật ra đời của Đảng cộng sản: chủ nghĩa xã hội khoa học + phong trào
công nhân.
1.1.2. Chủ nghĩa Lênin
Bối cảnh lịch sử: chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế
quốc, hệ thống thuộc địa ra đời trên khắp thế giới, mâu thuẫn dân tộc
ngày càng trở nên gay gắt.
Tất yếu: “sẽ không có một phong trào vững chắc nếu không có Đảng
vững chắc lãnh đạo, hãy cho tôi một tổ chức của những người cộng sản,
tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga này”.
- Lênin chỉ rõ: Đ ảng cộng sản = Chủ nghĩa Mác + phong trào công
nhân
1.1.3. Quốc tế Cộng sản
- Đảng cộng sản = Chủ nghĩa Mác – Lê nin + phong trào công nhân

1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Cách mạng trong nước
** Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ.
những phong trào tiêu biểu trong thời kì này là:
Phong trào Cần Vưong (1885-1896): ngày 13-7-1885, vua Hàm
Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra
nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Ngày 1-11-1888, vua
Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào Cần vương vẫn tiếp tục đến năm
1896.
Phong trào Đông du(1906-1908): do nhà yêu nước Phan Bội Châu
lãnh đạo. Phong trào mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng dân chủ tư sản.

(Phan bội Châu) (Vua Hàm Nghi)
Phong trào Đông kinh nghĩa thục(1907): Phong trào này diễn ra khá
sôi nổi, dưới nhiều hình thức như: tuyên truyền cải cách văn hoá, xã hội,
hô hào thực nghiệp, đả phá tư tưởng và lề thói phong kiến ,bài trừ mê tín
hủ tục, đả kích bọn tham quan ô lại, cổ vũ lòng yêu nước…
Phong trào Duy tân (1906-1908): do các sĩ phu yêu nước như cụ
Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng… khởi xướng.
Phong trào nhằm vận động cải cách văn hoá , xã hội, động viên lòng yêu
nước, đả kích bọn vua quan thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản …
(Phan Châu Trinh lãnh đạo phong trào Duy Tân)
Phong trào Việt Nam quang phục hội (1912): do cụ Phan Bội Châu
vận động thành lập dưới sự tác động của cuộc cách mạng Tân Hợi Trung
Quốc năm 1911. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình có biến
chuyển mạnh hơn , có nhiều phong trào đã nổi lên là: phong trào tư sản

đấu tranh chống các thế lực tư bản nước ngoài, đòi cải cách dân chủ.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các cuộc khởi
nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng
đều không thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và
hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu
nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỷ XX phong trào
yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của
tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ
phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân
hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân
Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện
pháp bạo động, một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới
khôi phục độc lập.
Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng
lập hiến (năm 1923); Đảng thanh niên (tháng 3-1926); Đảng thanh niên
cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn ( năm 1925), sau nhiều lần
đổi tên, tháng 7-1928 lấy tên là Tân việt cách mạng Đảng, Việt Nam quốc
dân Đảng (tháng 12-1927). Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản
trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó
nổi bật là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Thế nhưng tất cả các phong trào đều thất bại.
Qua đó đă thể hiện: Truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất vì
độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc
tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm cách mạng của Hồ Chí
Minh. Tạo cơ sở cho phong trào yêu nước trở thành một trong 3 nhân tố
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam là sự yếu kém trong tiến
trình giải phóng dân tộc của giai cấp tư sản và những hạn chế về giai cấp,
đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp rộng rãi

được lực lượng dân tộc. Nhìn thấy được con đường cứu nước của những
nhà yêu nước đã lâm vào bế tắc, Nguyễn Ái Quốc quyết tâm rời quê
hương đi tìm con đường cứu nước mới, tìm con đường giải phóng dân
tộc.
1.2.2. Cách mạng trên thế giới
Năm 1917, CM tháng Mười Nga giành thắng lợi, nhà nước của liên
minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsơvích Nga ra đời,
chứng tỏ quá trình hiện thực hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời
mở đầu một thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân, nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng
các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã khẳng
định: Cách mạng tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á
tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay .
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời gắn với vai trò
sáng lập của Lênin. Sự xuất hiện của Quốc tế III thúc đẩy hơn nữa sự
phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế cộng sản (1920) chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con
đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, Quốc tế cộng sản có vai trò quan trọng trong việc
truyền bá CN Mác – Lên và thành lập Đảng CSVN, Nguyễn Ái Quốc
nhấn mạnh “An Nam muốn làm cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ
Đệ tam quốc tế”.
1.2.3 Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Ngày 5-6-1911, từ cảng Nhà Rồng, (Nguyễn Tất Thành)Nguyễn Ái
Quốc làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Trêvin và bắt đầu cuộc hành trình vạn
dặm, hòa mình vào cuộc sống lao động Pháp để tìm đường cứu nước.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy và

nghiên cứu được những vấn đề hết sức có ý nghĩa trong việc giải phóng
dân tộc qua các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Người nhận ra sâu sắc những hạn chế của các nhà yêu nước đương
thời. Mặc dù khâm phục lòng yêu nước nhưng Người không đồng ý đi
theo con đường cứu nước của họ. Và ở đây Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua
hạn chết của tầm nhìn để tìm cho dân tộc mình một con đường cứu nước
khác. Người đã thấy được cách mạng dân chủ tư sản không thể đưa lại
độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung và nhân
dân Việt Nam nói riêng. Nên Người đã quyết định đi theo con đường của
Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế Cộng sản.
Từ 1911 đến 1917, Người đã đến nhà nước châu Âu, châu Phi và
châu Mĩ.
Năm 1917, Người trở lại Pháp sau 8 năm bôn ba và gia nhập Đảng
Xã hội Pháp vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại
Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng và Bác ái.
Ngày 18 – 6 – 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội
nghị Véc-xai Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi
chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân
chủ và quyền bình đẳng của nhân dân An Nam. - Bản yêu sách đó đã
không được Hội nghi Véc-xai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy những lời
tuyên bố của các nhà chính trị đế quốc về quyền tự do dân chủ và quyền
tự quyết của các dân tộc mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng
thống Mĩ Uyn-xơn chỉ là trò bịp để lừa các dân tộc. Vì vậy, muốn được
giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân
mình.
Tháng 7-1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên
báo “Nhân đạo” của Đảng Xã hội Pháp. Người vô cùng phấn khởi và tin
tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người ỉhấy con đường đề giải phóng

dân tộc mình.
“Luận cương đến Bác Hồ và người đã khóc.
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin”
(Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên).
Nguyễn Ái Quốc khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Ngày 25-12-1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp tại Tours nguyễn Ái
quốc đứng về phía đại đa số của đại hội bỏ phiếu tán thành việc thành lập
Đảng cộng sản Pháp và việc gia nhập Quốc tế cộng sản.Từ đó Nguyễn Ái
Quốc trở thành chiến sĩ cộng sản, một chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Việt
Nam. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quyết định trong sự nghiệp hoạt
động cách mạng của Người, nó cũng đánh dấu cho bước ngoặt mở đường
cho thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt nam.
Nguyễn Ái Quốc phát biều tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đàng Xã
hội Pháp, ủng hộ Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Và từ đây, Nguyễn Ấi Quốc đã nhận ra: Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giài phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Như vậy, đã thấy Nguyễn Ái Quốc khác với các nhà yêu nước
đương thời, Người có một phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng
tạo, đem lý luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh
nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể
hiện nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường
lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.
II. NGUYỄN ÁI QUỐC CHẨN BỊ NHỮNG ĐIỀU KIỆN VỀ
TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN
2.1 Về tư tưởng

Sau khi trở thành chiến sĩ cộng sản , cùng với việc thực hiện những
nhiệm vụ đó với với phong trào cộng sản và công nhân quôc tế, Nguyễn
Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước
ta bằng việc tham gia vào các diễn đàn, viết báo…., từng bước chuẩn bị
về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Cuối năm 1917, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những Người Việt
Nam yêu nước với tờ báo “Việt Nam hồn” để tuyên truyền giáo dục Việt
Kiều ở Pháp.
Năm 1922, Người làm chủ nhiệm chủ bút cho báo “Người cùng khổ"
đề vạch trần chính sách đàn áp bọc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp
phần vào việc thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.
Song song đó, viết nhiều bài đăng trên báo “Nhân đạo” của Đảng Cộng
sản Pháp, báo “Đời sống công nhân” của Tổng Liên đoàn Lao động
Pháp.
Đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Matxcova để tham dự
Hội nghị Quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh
nghiệm Cách mạng tháng 10 Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin. Người có
nhiều bài cho các báo “Sự thật” (là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng
Sản Liên Xô) và tạp chí “Thư tín Quốc tế’ của Quốc tế Cộng sản.
Qua các bài báo, tạp chí, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng
vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng
thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ
gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động. Đây là thời gian
Người thu thập tư liệu cho tác phẩm “Bản án chế độ thực dẫn Pháp”.
Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản
ở Liên Xô và các đại hội của Quốc tế công hội, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế
Thanh niên, Và nhất là Đại hội lần V, đã có bản báo cáo rất quan trọng
về dân tộc và thuộc địa; làm sáng tỏ và phát triển một số luận điểm quan
trọng của Lênin về bản chất chủ nghĩa thực dân và nhiệm vụ của các

Đảng Cộng Sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột,
đấu tranh giải phóng dân tộc các ở thuộc địa.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925) mặc dù bị nhà cầm
quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn
được bí mật truyền về Việt Nam vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa
đế quốc, từ đó khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc để đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược; "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một
cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám
vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người t a phải
đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn
lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống
và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra".
Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho sự thành lập Đảng, có ý
nghĩa rất quan trọng. Vì giống như Lênin đã nói “ Không có lý luận cách
mệnh, thì không có cách mệnh, vận động Chỉ có theo lý luận cách
mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh
tiền phong" (Trích hỏi đáp môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam _ NXB Đại học Quốc gia 2010)
1922, Người làm chủ nhiệm chủ bút cho báo“Người cùng khổ”
2.1 Về tổ chức
Với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng
một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp thành lập Hội
liên hiệp thuộc địa năm 1921 nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc
địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Và cũng
thông qua hội này để truyền bá chủ nghĩa Mac - Lê Nin đến các dân tộc
thuộc địa. Đến ngày 11-11-1924, Người tới Quảng Châu. Tại đây, Người
cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Án Độ, sáng lập Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9-7-1925) đã nêu bật được tầm quan
trọng của vấn đề đoàn kết dân tộc trên thế giới.
Và bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra

đời của Đảng Cộng sản VN chính là Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên.
Hội được Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng 6-1925 với cơ quan
tuyên truyền của Hội là tờ báo Thanh niên. Sau khi thành lập, Hội đã mở
các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải
phóng dân tộc cho những người trong tổ chức nhằm thúc đầy sự phát
triển phong trào cách mạng Việt Nam. Chống lại những đường lối dân tộc
chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản.
Hội đã giáo dục và giác ngộ nhiều người yêu nước chân chính theo
con đường Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ thành những chiến sĩ
cách mạng trung thành, làm nòng cốt trong việc thành lập Đảng Cộng sản
sau này.
Truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí
Minh vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền
với xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính
trị quan trọng.
Từ năm 1925 - 1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại
Quảng Châu, đào tạo nên đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Những bài giảng ở đây của Người đã được tập hợp thành cuốn “Đường
cách mệnh”.
Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp
công nhân, để truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận giải phóng dân
tộc nhằm thúc đầy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Những ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và các
lớp huấn luyện của Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển
các phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đưa lý luận Chủ nghĩa
Mác Lênin và tôn chỉ, mục đích đấu tranh của Hội vào các phong trào
này.
Chứng tỏ: “Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của vô sản đã

thắng lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của tư sản"
2.2 Về chính trị
Sự chuẩn bị về chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện thông qua việc hình thành các
quan điểm sau đây, trong đó ảnh hưởng lớn nhất là cuốn “Đường cách
mệnh”:
1. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực
dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao dộng trên thế giới.
2. Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau,
nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể
thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng
chính quốc.
3. Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo
nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu
phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm
động lực cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia đông đảo các
giai tầng khác tham gia.
4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng
cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ
nghĩa Mác - Lênin .
5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không
phải của một vài người, " công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò
nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mệnh của công nông".
Cách mạng "là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của
một hai người".
Những quan điểm này đã được Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên truyền bá trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào công

nhân và phong trào yêu nước Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sau
này, các quan điểm đợc phát triển thành những nội dung cơ bản trong
cương lĩnh chính trị của Đảng.
III. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
3.1 Hội nghị thành lập Đảng
3.1.1 Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam đã phát triển mạnh, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một
đảng cách mạng.
Tháng 6-1929, tại nhà số 213 Khâm Thiên - Hà Nội, đại biểu các tổ
chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc đại hội, quy ết định thành lập Đông
Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất
bản báo Búa Liềm và cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời của
Đảng.
An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8 năm 1929, đại hội tại Sài
Gòn để thông qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và lập Ban chấp hành
Trung ương Đảng.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản
Đảng đã tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt. Những đảng
viên tiên tiến của Tân Việt đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản.
Tháng 9-1929, những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt
cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên bố chính thức lập ra Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn.
Chỉ trong bốn tháng, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời,
chứng tỏ xu thế thành lập Đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong
trào dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, dù đều giương cao ngọn cờ chống đế
quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam nhưng 3 tổ
chức cộng sản trên hoạt động phân tán, ch ia rẽ ảnh hướng xấu đến phong
trào CM VN, do đó yêu cầu khẩn cấp lúc này là khắc phục nhược điểm

đó thống nhất sự lãnh đạo đảm bảo cho quá trình phát triển của CMVN.
3.1.2 Hội nghị thành lập Đảng
Cuối năm 1929 những người cách mạng Việt Nam trong các t ổ
chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách thành lập một
tổ chức Đảng thống nhất.
Ngày 27-10-1929, Quốc tế cộng sản gửi những người cộng sản
Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một Đảng cộng sản Đông Dương,
đồng thời chỉ rõ phương thức để tiến t ới thánh lập Đảng là phải bắt đầu
từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; chỉ rõ mối
quan hệ giữa Đảng cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc
tế.
Nhận được Hội nghị hợp nhất Đảng.
Hội nghị đã thảo tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông
Dương, Nguy ễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc, bằng uy tín cá nhân,
Người triệu tập các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng (Trung Quốc) và
chủ trì luận và nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái
Quốc.
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất
các nhóm cộng sản ở Đông Dương;
2. Định t ên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban trung ương lâm thời gồm 9 người, trong đó có 02 đại
biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương”
Sự kiện Đảng CSVN ra đời (3-2-1930) thể hiện bước phát triển biện
chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam, sự phát triển về chất
từ Hội Việt Nam CMTN đến 03 tổ chức cộng sản, đến Đảng CSVN trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm cách mạng Nguyễn Ái
Quốc.


(Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc tiến hành từ ngày 6/1
đến ngày 7/2 năm 1930)
3.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng CSVN
như: Chánh cương vắn tắt, Chương trình tóm tắt hợp thành Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng CSVN. Cương lĩnh xác định những vấn đề cơ
bản của CMVN như sau:
** Phương hướng chiến lược: “ làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Xác định con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam phải trải
qua hai giai đoạn: Giai đoạn hoàn thành cách mạng tư sản dân quyền
(cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sau này và tiến thẳng lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa (bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ TBCN).
** Nhiệm vụ cụ thể:
Về chính trị:
- Đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập dân tộc.
- Đánh đổ địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân.
- Lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông
Về kinh tế:
Thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư
bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông quản lý;
tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân nghèo; bỏ sưu thuế, mở mang công nông nghiệp, thi hành luật
ngày làm 8 giờ…
Về văn hóa – xã hội:
Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ thông giáo
dục theo công nông hóa…
**Giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng:
- Giai cấp vô sản giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua đôi tiên
phong của mình là Đảng CSVN.

- Lực lượng cách mạng bao gồm Công nhân, nông dân, t iểu tư sản,
tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ.
** Đoàn kết quốc tế:
Văn kiện Đảng đã xác định: “cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới”, phải đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách
mạng thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị
- Xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và phương
hướng phát triển của cách mạng Việt Nam.
- Giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối CMVN.
- Nắm được ngọn cờ lãnh đạo CMVN.
Thực tiễn quá trình vận động của CMVN trong gần 80 năm qua đã
chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ
của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
IV- kết luận
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt nam mang tầm vóc của
lịch sử . Kết quả là sự ra đời của Đảng cộng sản việt Nam là một bước
ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt nam . Nó chấm dứt thời kỳ
cách mạng nước ta ở trong tình trạng bế tắc , khủng hoảng sâu sắc về
đường lối cứu nước, nó “ chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta đã trưởng
thành đủ sức lãnh đạo cách mạng ” , kể từ đây ( 3-2-1930 ) cách mạng
Việt Nam có một Đảng duy nhất lãnh đạo với đường lối thống nhất trên
cả nước. Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là kết quả của quá trình đấu
tranh dân tộc và đấu tranh trong thời đại mới và còn là kết quả của quá
trình chuẩn bị một cách công phu chu đáo, tích cực của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự ra đời của đảng
cộng sản Việt nam gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Hồ Chí Minh , người
đã có sáng lập , lãnh đạo và rèn luyện Đảng.


×