Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

BÁO cáo CA BỆNH TĂNG NHIỄM GIUN lươn điều TRỊ KHỎI BẰNG THIABENDAZOLE ĐƯỜNG UỐNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.28 KB, 4 trang )

Y H
ỌC THỰC HÀNH
(879)
-

S
Ố 9/2013






75
BÁO CÁO CA BỆNH TĂNG NHIỄM GIUN LƯƠN ĐIỀU TRỊ KHỎI BẰNG
THIABENDAZOLE ĐƯỜNG UỐNG
NGUYỄN THU HƯƠNG, NGUYỄN THỊ NHẬT LỆ
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương
TÓM TẮT
Bệnh giun lươn do Strongyloides stercoralis là một
bệnh ký sinh trùng đường ruột phổ biến tại nhiều vùng
trên thế giới nhất là Châu Phi, Tây Ấn, Nam Mỹ, Đông
Nam Á. Cũng giống như các bệnh ký sinh trùng khác
bệnh giun lươn khó chẩn đoán vì biểu hiện lâm sàng
rất đa dạng, phong phú. Biểu hiện bệnh từ không triệu
chứng trong nhiễm trùng cấp tính và mãn tính đến
nặng và tử vong trong hội chứng hyperinfection, tỉ lệ tử
vong hơn 85%. Trong cả hai trường hợp, các triệu
chứng là kết quả của ấu trùng di chuyển nội tạng. Báo
cáo này trình bày hai trường hợp có hội chứng tăng
nhiễm ấu trùng giun lươn với biểu hiện hội chứng dạ


dày trên người đã được chuẩn đoán và điều trị khỏi
bằng thiabendazole liều 20mg/kg/lần x 2 lần/ngày x 2
ngày. Theo ghi nhận đây có thể là những ca bệnh
nặng đầu tiên được điều trị khỏi bằng thiabendazole tại
miền Bắc Việt Nam.
SUMMARY
Human strongyloidiasis is main caused by
Strongyloides stercoralis. These nematodes are found
worldwide, but they are endemic in some parts of the
world, especially in Africa, the West Indies, Southeast
Asia, South America. The symptomatic spectrum of
Strongyloides ranges from subclinical in acute and
chronic infection to severe and fatal in hyperinfection
syndrome and disseminated strongyloidiasis, which
have case-fatality rates that approach 85%. In either
case, patients’ symptoms are a result of the parasite’s
larval form migrating through various organs of the
body. In particular, strongyloidiasis is the causative
agent of opportunistic infections, the strong upsurge in
the local immunosuppression, which can lead to death.
This report presents two cases hyperinfection larvae
with expression in the stomach syndrome was
diagnosed and treated cure by thiabendazole
20mg/kg/time dose x 2 times/day x 2 days. As noted
herein may be the one of first serious human
strongyloidiasis are treated with thiabendazole in
Northern Vietnam.
Keywords: Human strongyloidiasis, Strongyloides
stercoralis, thiabendazole.
ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh giun lươn là một bệnh ký sinh trùng đường
ruột phổ biến tại nhiều vùng trên thế giới nhất là Châu
Phi, Tây Ấn, Nam Mỹ, Đông Nam. Giun lươn là một ký
sinh trùng đường ruột được tìm thấy trong khu vực
nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi khí hậu ấm áp phù hợp
cho ký sinh trùng sống sót (Barr JG, 1978). Bệnh có
thể nhiễm đến 35% dân số các nước nhiệt đới (Barr
JG, 1978). Giun lươn có chu kỳ tự nhiễm nếu không
được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời sẽ tồn tại
trong cơ thể suốt đời. Cũng giống như các bệnh ký
sinh trùng khác bệnh giun lươn rất khó chẩn đoán vì
biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, phong phú. Đặc biệt,
giun lươn còn là tác nhân gây nhiễm trùng cơ hội, bộc
phát mạnh trên cơ địa suy giảm miễn dịch, có thể dẫn
đến tử vong. Ở nước ta, tỷ lệ nhiễm giun lươn thì còn
chưa có nghiên cứu xác định rõ và nhưng theo các
báo cáo tái nhiễm khá cao. Điều đáng chú ý là khi
nhiễm bệnh, giun lươn tồn tại rất lâu trong cơ thể và có
thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí có
thể đe dọa tính mạng người bệnh, trong khi đó, việc
điều trị còn nhiều hạn chế. Giun lươn có tên là
Strongyloides stercoralis gây bệnh đã được nhà khoa
học Normand phát hiện lần đầu tiên vào năm 1876 ở
một người lính viễn chinh Pháp chiến đấu tại miền
Nam Việt Nam. Bệnh nhân này bị nhiễm giun lươn
kèm theo triệu chứng rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy nên
một số tài liệu đã gọi là bệnh tiêu chảy Nam Bộ
(Conway, D.J. et al, 1995). Theo nghiên cứu của nhóm
các cán bộ tại Khoa Nội - Tiêu hóa Bệnh viện Nhân
dân 115 trong năm 2004-2005 có ghi nhận rằng trong

nhóm những người bị rối loạn tiêu hóa kéo dài hay tái
đi tái lại có đến 82% bị nhiễm giun lươn. Qua phân tích
số bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng đến khám và điều trị
tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh, thấy
nếu trong năm 2002 chỉ có 40 ca nhiễm giun lươn
được phát hiện, thì trong năm 2003 có đến 80 ca, tăng
gấp 2 lần. Con số này chứng tỏ số người nhiễm giun
lươn trong cộng đồng là cao. Trong giai đoạn 2003-
2005, tại bệnh viện này tỷ lệ nhiễm trên bệnh nhân
nhập viện là 3,2% (Trần Phủ Mạnh Siêu, 2006). Tại
miền Bắc, các báo cáo về ca bệnh giun lươn còn ít.
Trong những năm gần đây, tại Viện Sốt rét-KST-CT
TƯ chúng tôi đã ghi nhận có một số trường hợp nhiễm
giun lươn thể nặng điều trị tại viện. Trong bài này
chúng tôi báo cáo hai trường hợp nhiễm giun lươn
nặng có bệnh cảnh lâm sàng khá phong phú. Thể điển
hình ở đường tiêu hóa với hội chứng dạ dày tá tràng,
hội chứng rối loạn tiêu hóa, suy nhược cơ thể chưa rõ
nguyên nhân. Các bệnh nhân trên đều được điều trị
nhiều nơi, nhiều chuyên khoa trước khi nhập Viện. Xét
nghiệm phân đều tìm thấy ấu trùng giun lươn, đáp ứng
tốt với điều trị đặc hiệu giun lươn thiabendazole và
phục hồi hoàn toàn. Đây là những trường hợp mà các
nhà lâm sàng cần chú ý để phát hiện tác nhân gây
bệnh này trong bệnh lý đường tiêu hóa hiện nay.
Trong điều trị bệnh giun lươn, thiabendazole dùng
đường uống là điều trị chuẩn, và ivermectin là một sự
thay thế hiệu quả diệt giun. Tuy nhiên, những loại
thuốc này không có sẵn tại Việt Nam. Chúng tôi trình
bày hai ca bệnh có hội chứng tăng nhiễm ấu trùng

giun lươn với biểu hiện hội chứng dạ dày lan tỏađã
được điều trị thành công bằng thiabendazole tại Khoa
Khám bệnh chuyên ngành, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-
Côn trùng Trung ương.
Ca thứ nhất: Bệnh nhân nam, sống tại ngoại thành
Hà Nội, 66 tuổi. Vào viện ngày 06/06/2012, ra viện
15/06/2012. Chẩn đoán: Theo dõi bệnh giun lươn.
Bệnh sử: Trước ngày vào viện 7 tháng bệnh nhân nôn
nhiều, suy kiệt, suýt cân, siêu âm có dịch ổ bụng, soi
dạ dày có hình ảnh giun tròn ở niêm mạc dạ dày, xét

Y H
ỌC THỰC HÀNH (879)
-

S
Ố 9/2013







76
nghiệm phân có ấu trùng giun lươn. Điều trị
albendazol 400mg mỗi ngày 2 viên trong 15 ngày liên
tiếp, cùng các thuốc bổ trợ khác tại Bệnh viện Bạch
Mai. Sau đợt điều trị bệnh nhân thể trạng khá lên, xét
nghiệm phân âm tính. Sau đó 4 tháng bệnh nhân xét

nghiệm còn ấu trùng giun lươn. Nhập viện điều trị
albendazol 400mg 2 viên mỗi ngày trong 12 ngày. Sau
đó, xét nghiệm ấu trùng giun lươn vẫn dương tính nên
tiếp tục điều trị ngoại trú bằng albendazol liều như trên
trong 10 ngày tiếp. Tuy nhiên, sau 1 tháng vẫn không
hết ấu trùng trong phân. Do vậy, bệnh nhân được chỉ
định nhập viện với chuẩn đoán bệnh giun lươn thể
hyperinfection. Các xét nghiệm hồng cầu 4,93x10
12
/l,
bạch cầu 8,3x10
12
/l, ure 5,4mmol/l, gluco 5,2mmol/l,
creatinin 83x10
3
/l, AST 39 U/l, ALT 28 U/l, ấu trùng
giun lươn trong phân (++++). Điều trị bằng
thiabendazol 500mg, dạng viên nén, liều điều trị
20mg/kg/lần x 2 lần/ngày x 2 ngày, uống ngay sau ăn
no. Sau 2 ngày xét nghiệm phân âm tính. Sau 5 ngày
xét nghiệm phân vẫn âm tính được ra viện. Sau đợt tái
khám 3 tháng xét nghiệm phân âm tính.
Ca thứ hai: Bệnh nhân nam 65 tuổi. Địa chỉ tại Bắc
Ninh. Vào viện ngày 30/7/2012, ra viện ngày
07/8/2012. Chẩn đoán: bệnh giun lươn. Bệnh sử:
trước ngày vào viện 1 tháng bệnh nhân đau thượng vị,
sốt, rối loạn tiêu hóa, suy kiệt đã khám tại Bệnh viện
108 với chẩn đoán Sán lá gan lớn đã điều trị theo phác
đồ sán lá gan lớn. Sau 2 tháng đến khám lại tại khoa
Khám bệnh chuyên ngành của Viện Sốt rét-KST-

CT.TƯ. Xét nghiệm phân có ấu trùng giun lươn. Bệnh
nhân được điều trị bằng albendazole 400mg mỗi ngày
2 viên trong 12 ngày. Sau 1 tháng tái khám xét nghiệm
vẫn còn dương tính ấu trùng giun lươn. Chỉ định nhập
viện với chuẩn đoán bệnh giun lươn thể
hyperinfection. Các xét nghiệm cơ bản hồng cầu
4,5x10
12
/l, bạch cầu 5,3x10
12
/l, bạch cầu ái toan 15%,
sinh hóa máu Gluco 4,1 mmol/l, creatinin 86x10
3
/l,
AST 47 U/l, ALT 38 U/l, ấu trùng giun lươn trong phân
(++++). Điều trị bằng thiabendazol 500mg mỗi ngày 4
viên chia 2 lần trong 2 ngày, uống ngay sau ăn no.
Sau 2 ngày xét nghiệm phân âm tính. Năm ngày sau
xét nghiệm lại vẫn âm tính bệnh nhân được ra viện.
Sau tái khám 1 tháng xét nghiệm phân âm tính.
BÀN LUẬN
Hội chứng tăng nhiễm ấu trùng giun lươn
(hyperinfection) là một trong những thể lâm sàng nặng
của bệnh giun lươn với tỷ lệ tử vong hơn 85%. Hội
chứng được đặc trưng bởi bệnh nhân mang một
lượng lớn ấu trùng từ chu trình tự nhiễm và thường
gặp trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Với thể
bệnh này điều trị thiabendazole cho bệnh nhân có hiệu
quả khỏi đến hơn 90% (Mahmoud AAF, 1996). Theo
Olayinka Adedayo, 2002, chẩn đoán sớm và điều trị

thiabendazole có thể làm giảm tỷ lệ tử vong cho bệnh
nhân giun lươn hyperinfectionvới liều điều trị 25
mg/kg/ngày trong 5 ngày. Theo y văn, ngoài các thể
bệnh thường gặp, các tác giả còn ghi nhận những
bệnh lý thuận lợi cho giun lươn bùng phát như nhiễm
HTLV-1 Human T-lymphotropic virus), Non hoggkin’s
lymphoma (NHL), ung thư dạ dày, nhiễm HIV, nghiện
rượu mãn tính, xơ gan. Đây là vấn đề cần sự quan
tâm của các bác sĩ ở nhiều chuyên khoa khác nhau,
khi điều trị những bệnh lý trên đây cần tìm hiểu thêm
tình trạng nhiễm giun lươn đi kèm. Tác giả này cũng
ghi nhận trên thế giới 27 ca bệnh ở thể tái nhiễm giun
lươn hyperinfection trong giai đoạn 5 năm (1995-
1999). Một trong những nghiên cứu trên những trẻ
sinh ra từ bà mẹ nhiễm giun lươn, giun móc cho thấy,
giun móc và giun lươn là hai “thủ phạm” chính, gây
giảm hiệu quả của vaccin BCG ngừa lao trên trẻ. Cụ
thể, ở nhóm trẻ có mẹ nhiễm giun lươn, tỷ lệ không
đáp ứng với vaccin là 11%. (Trường ĐH Y khoa Phạm
Ngọc Thạch, TP.HCM). Với thể bệnh này việc chẩn
sớm và điều trị đúng thuốc đặc trị sẽ giúp cải thiện tình
trạng bệnh lý và giảm nguy cơ tử vong cao. Một
trường hợp Việt kiều 65 tuổi sống tại California bị tử
vong do nhiễm giun lươn từ khi còn ở Việt Nam nhưng
không được xác định. Khi dùng thuốc corticoides để
điều trị bệnh viêm động mạch vành tế bào khổng
lồ (GCA: Giant Cell Arteritis) đã vô tình tạo điều kiện
thuận lợi cho giun lươn phát triển, xâm nhập vào phổi
và một số cơ quan khác của cơ thể làm cho người
bệnh bị tử vong. Bệnh giun lươn có thể kéo dài nhiều

năm, bệnh nhân có khả năng bị nhiễm lúc còn ở Việt
Nam nhưng tử vong sau khi đến định cư tại Mỹ do
bệnh có cơ hội và điều kiện phát triển một thời gian
sau đó vì đã vô tình dùng loại thuốc corticoides để điều
trị một bệnh khác. Loại thuốc này có tác dụng ức chế
hệ miễn dịch, góp phần làm cho bệnh giun lươn bùng
phát gây nên hội chứnghyperinfection; giun lươn có
khả năng xâm nhập, tấn công vào phổi và các cơ quan
phủ tạng khá. Trên thực tế có nhiều trường hợp bệnh
giun lươn có khả năng kéo dài tới 30 đến 40 năm mặc
dù bệnh nhân không tiếp xúc với ổ bệnh, không bị tái
nhiễm từ ngoài vào và tuổi thọ của giun trưởng thành
không thể kéo dài thời gian đến mức như vậy. Để giải
thích lý do này, các nhà khoa học cho rằng đó là do
nguyên nhân của hiện tượng tự nhiễm của giun lươn.
Có giả thuyết là giun lươn có thể tồn tại mãi mãi trong
cơ thể vật chủ do đã sinh ra được những thế hệ ấu
trùng mới từ những con giun cái sinh sản đơn giới
nằm dính vào niêm mạc ở phần trên của ruột non (Tổ
chức Y tế Thế giới, 1982).
Theo y văn, albendazol dùng điều trị giun lươnchỉ
là thuốc lựa chọn thứ yếu hoặc chỉ định điều trị phối
hợp với trong những ngày nghỉ thuốc ivermectin. Liệu
trình điều trị 3 ngày nếu trẻ dưới 10kg cân nặng
200mg/lần/ngày và người trên 10kg là
400mg/lần/ngày. Uống thuốc lúc đói và lặp lại sau 1
tuần tránh các tái nhiễm. Thuốc albendazol hấp thu
kém trong ruột nên phải nhai kỹ và uống nước nhiều
nên dùng cùng một chế độ ăn giàu chất béo. Thuốc
chuyển hóa qua gan là chủ yếu (hơn 90%), thải trừ

qua đường niệu rất ít. Việc nghỉ thuốc 1 tuần có tác
dụng giúp gan hồi phục. Thận trọng những trường hợp
kéo dài thuốc điều trị dài hơn 2 tuần sẽ không nghỉ có
thể dẫn đến các tác dụng phụ có hại như rụng tóc, suy
gan, hoặc ký sinh trùng kháng thuốc.
Ivermectin liều 0,2 mg/kg/ngày trong hai ngày có
hiệu quả cao đối với lươn trong cả nhiễm trùng nhẹ và
Y H
ỌC THỰC HÀNH
(879)
-

S
Ố 9/2013






77
nặng. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng được ghi
nhận trong bệnh nhân trong cả hai nhóm điều trị. Hiệu
quả của điều trị liều duy nhất với Ivermectin làm cho
nó là thuốc lựa chọn điều trị giun lươn trong trường
hợp không biến chứng và phức tạp, đặc biệt là cho
các hồ sơ cá nhân nhẹ tác dụng phụ. Theo Marti và
cộng sự (1996), hiệu quả của thuốc ivermectin và
albendazole chống lại S. stercoralis đã được báo cáo
là 82,9% và 45%, tương ứng. Một nghiên cứu khác

của Ponganant Nontasut và cộng sự (2005) cho thấy
hiệu quả của ivermectin chống lại S. stercoralis là
98,7% và albendazole là 78,8%. Theo Adenusi và
cộng sự (2003), tỷ lệ chữa khỏi những ca giun lươn
chưa có biến chứng bằng ivermectin là 84,07% và
bằng thiabendazole là 78,64, sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê. Nhưng tỷ lệ giảm ấu trùng sau
điều trị giữa nhóm điều trị bằng ivermectin là 81% và
thiabendazole là 75%. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Các phản ứng bất lợi trên lâm sàng
là nhẹ và thoáng qua trong đối tượng được điều trị
bằng thuốc ivermectin, trong khi có những dấu hiệu
lâm sàng thay đổi từ nhẹ đến nặng trong những người
điều trị với thiabendazole. Tuy nhiên, có thể tác giả đã
nhầm lẫn giữa tác dụng này với hội chứng có lợi trên
lâm sàng khi điều trị nhóm ký sinh trùng, vi rút, vi
khuẩn hay các nguồn sinh bệnh khác đang bị tiêu diệt
hiệu quả. Đó là triệu chứng quá mẫn hay hội chứng
Herxheimer. Là phản ứng của hệ thống miễn dịch với
các nội độc tố phóng thích khi một lượng lớn sinh vật
gây bệnh đang bị giết, và cơ thể trong thời gian ngắn
không thể loại hết độc tố ra khỏi cơ thể. Vì vậy nó làm
trầm trọng thêm các triệu chứng và sinh them những
triệu chứng mới. Thường khi dừng thuốc thì các triệu
chứng sẽ giảm. Chỉ một số triệu chứng như tiêu chảy,
ngứa lan tỏa và buồn ngủ đã được ghi lại thường
xuyên hơn sau khi ivermectin và thiabendazole. Chỉ số
alkaline phosphatase mức tăng ở bệnh nhân trong cả
hai.
Với hai bệnh nhân chúng tôi trình bày trên đều

nhập viện trong thể trạng suy kiệt nặng. Bệnh nhân
trước khi đến viện đều đã qua các cơ sở điều trị khác
và hoặc điều trị bằng liệu trình albendazole liều cao
nhưng không cải thiện được tình trạng và xuất hiện tái
nhiễm ấu trùng nặng. Khi được điều trị với
thiabendazole 500mg mỗi ngày 4 viên chia 2 lần trong
2 ngày, uống ngay sau ăn no. Bệnh nhân có cải thiện
rõ rệt về lâm sàng. Hiệu quả điều trị cũng thấy rõ với
thời gian điều trị được rút ngắn. Các triệu chứng quá
mẫn cũng đã được xem xét chặt chẽ trong thời gian
dung thuốc. Việc sử dụng loại thuốc này chống lại S.
stercoralis là hiệu quả và an toan. Một may mắn là
thuốc đã có bán trên thị trường Việt Nam. Và đây là cơ
hội cho các bệnh nhân S. stercoralis được điều trị
đúng. Đây những ca bệnh đầu tiên chúng tôi ghi nhận
đã được điều trị khỏi bằng thiabendazol. Cả hai trường
hợp có hội chứng tăng nhiễm ấu trùng giun lươn với
biểu hiện hội chứng dạ dày trên người đã được chuẩn
đoán và điều trị khỏi bằng thiabendazole liều
20mg/kg/lần x 2 lần/ngày x 2 ngày.
Thiabendazole là thuốc được lựa chọn để điều trị
giun lươn, với một tỷ lệ chữa khỏi lên đến 80% (Roxby
et al., 2009). Albendazole có hiệu quả điều trị trong hội
chứng hyperinfection và còn là một chỉ định điều trị
thay thế hữu hiệu đối với Ivermectin. Mebendazole có
thể được sử dụng để điều trị giun lươn nhưng không
nên vì một sự kết hợp với rối loạn chức năng gan
(Rajapurkar et al., 2007). Gần đây, đã có một sự thay
đổi trong điều trị giun lươn, như có nhiều hơn nữa sự
lựa chọn trong điều trị của Ivermectin, đó là hiệu quả

trong việc tiêu diệt giun trong ruột. Ở những bệnh nhân
bị hội chứng hyperinfection, Ivermectin được coi là
phác đồ bậc nhất, và trong các đợt điều trị kéo dài
thuộc được xem xét chỉ định (Roxby et al., 2009). Tuy
nhiên, tại Việt Nam các loại thuốc này còn hạn chế chỉ
định có thể do e ngại trong sử dụng điều trị với các
triệu chứng không mong muốn xảy ra phải phân biệt
với tác dụng có hại của thuốc. Cần có những nghiên
cứu hiệu quả điều trị ca bệnh tiếp với cả ivermectin và
thiabendazole sâu hơn nữa để có được những bằng
chứng rõ ràng giúp giảm được ngành nặng bệnh tật và
tỷ lệ tử vong do bệnh gây ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức Vinh (2004), Điều tra nhiễm
Strongyloides sp. bằng các phương pháp xét nghiệm
phân trực tiếp tại xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, Thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ y học – Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Trần Phủ Mạnh Siêu, Trần Thị Kim Dung,
Nguyễn Hữu Hoàn (2001), “Giun lươn (Strongyloides
stercoralis), tác nhân gây bệnh nội khoa đáng quan
tâm”. Tạp chí Y Học Thành phố Hồ Chí Minh- Số đặc biệt
hội nghị khoa học kỹ thuật Trường Đại học Y Dược Tp
HCM lần thứ 19, tập 5 (4), tr. 199-204.
3. Trần Phủ Mạnh Siêu, Bùi Trọng Hợp, Nguyễn Thị
Minh Tuyết, Ngô Hùng Trí, Trần Thị Kim Dung, Trần Phủ
Mạnh Siêu (2006) “Vai trò giun lươn trong bệnh lý dạ dày
tá tràng qua khảo sát các bệnh nhân tại Bệnh viện Trưng
Vương, Bệnh viện Nhiệt đới Tp. Hồ chí Minh năm 2004-
2006. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 10(4), tr.

229-234.
4. Trần Thị Kim Dung, Trần Phủ Mạnh Siêu, Bùi
Trọng Hợp, Nguyễn Thị Minh Tuyết, Ngô Hùng Trí (2009),
“Tìm hiểu các đặc điểm của bệnh nhiễm giun lươn trên
các bệnh nhân nhập viện có triệu chứng lâm sàng ở dạ
dày tá tràng”, Chuyên đề nội khoa, Tạp chí Y học thành
phố Hồ Chí Minh, tập 13(1), tr. 1-8.
5. Adenusi AA, AO Oke and AO Adenus (2003),
“Comparison of ivermectin and thiabendazole in the
treatment of uncomplicated human Strongyloides
stercoralis infection”, African Journal of Biotechnology Vol.
2 (11), pp. 465-469.
6. Barr, J.R. (1978). Strongyloides stercoralis.
Canadian Medical Association Journal, 118(8), 933-935,
ISSN 1488-2329
7. Conway, D.J. et al. (1995) “Towards Effective
Control of Strongyloides stercoralis” Parasitology
Today, 11, pp. 420-423.
8. Mahmoud Adel A. F. (1996), Strongyloidiasis,
Clinical Infectious Diseases 23:949-53
9. Marti H, Haji HJ, Savioli L, et al. (1996), “A
comparative trial of single-dose ivermectin versus three
days of albendazole for the treatment of Strongyloides

Y H
C THC HNH (879)
-

S
9/2013








78
stercoralis and other soil-transmitted helminth infections in
children, Am J Trop Med Hyg 1996; 55: 477-481.
10. Olayinka Adedayo, MBBS, Gerald Grell, MD,
And Peter Bellot, MD (2002), Hyperinfective
Strongyloidiasis in the Medical Ward: Review of 27 Cases
in 5 Years, South Med J. 95(7).

NGHIÊN CứU NHU CầU LIÊN KếT TRONG CUNG CấP DịCH Vụ Y Tế
TạI ĐạI HọC QUốC GIA Hà Nội

Trịnh Hoàng Hà - Khoa Y Dợc, Đại học Quốc gia Hà Nội
TóM TắT
Nghiên cứu đợc tiến hành theo diện cắt ngang tại
các đơn vị đào tạo và nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa
học sức khỏe đơn vị trong hệ thống Đại học Quốc gia
Hà Nội với 118 đối tợng nghiên cứu, bao gồm 45 cán
bộ quản lý, 73 giảng viên và nghiên cứu viên. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ cán bộ, giảng viên, nghiên
cứu viên có nguyện vọng đợc tham gia cung cấp dịch
vụ y tế cao, chiếm 82,20%. Trong đó có 50,85% sẵn
sàng đầu t để đáp ứng trong khả năng chuyên môn
đợc đào tạo. Giai đoạn đầu, phần lớn đối tợng

nghiên cứu, 69,49% mong muốn tham gia về nhân lực
kỹ thuật và 30,51% đồng ý tham gia đáp ứng đồng bộ,
bao gồm cả cơ sở vật chất, trang thiết bị trong cung
cấp dịch vụ y tế. Có 66,95% đối tợng đợc hỏi mong
muốn triển khai đáp ứng cung cấp dịch vụ khám chữa
bệnh ngay tại đơn vị đào tạo và nghiên cứu.
summary
The study was carried out in cross-section at health
sciences training and research organizations of
Vietnam National University, Hanoi (VNU), with 118
subjects, including 45 managers, 73 lecturers and
researchers. The results showed that 82.20% of the
studied subjects would like to participate in providing
high quality health services. 50.85% of those were
willing to take additional training (if needed) to meet the
required qualifications. In the first phase, 69.49% of the
subjects wanted to participate in technical manpower;
30.51% agreed to participate in the overall procedure,
including providing facilities and equipment for medical
services. There were 66.95% of the subjects wanted to
implement health care services at the training and
research organizations.
Keywords: sciences training.
ĐặT VấN Đề
Trớc năm 1980, hệ thống y tế thế giới đợc chia
làm hai: một là hệ thống phúc lợi, bao gồm phúc lợi xã
hội chủ nghĩa nh Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba.v.v.,
phúc lợi t bản chủ nghĩa nh Thụy Điển, Anh và các
nớc Bắc Âu dựa trên cơ sở cung ứng, tài chính công,
đặc điểm của hệ thống này là công bằng trong chăm

sóc sức khoẻ, ngời ốm dù nghèo hay giàu đều khám
chữa bệnh không mất tiền, nhng mặt trái của hệ
thống y tế phúc lợi là phát triển chậm chạp, hiệu suất
thấp, hiệu quả thấp. Hai là hệ thống tự do mà điển hình
là hệ thống y tế của Mỹ dựa trên cung ứng t, tài chính
t, đặc điểm của hệ thống y tế tự do là hiệu suất, giá
thành, hiệu quả, song mặt trái của nó là thiếu công
bằng, ngời cần chăm sóc nhng không có tiền thì
không đợc chăm sóc [10].
Vào đầu những năm 1980, tình hình phát triển kinh
tế thế giới chậm lại. Cả hai hệ thống y tế trên đều bộ lộ
rõ những nhợc điểm vốn có và rơi vào tình trạng
khủng hoảng. Hai trào lu t duy đợc phát triển. Trào
lu thứ nhất giải quyết tính hiệu quả trong chăm sóc y
tế, thể hiện chủ trơng thu phí tại các bệnh viện công
và phát triển hệ thống y tế t nhân, bảo hiểm y tế cũng
đợc quan tâm hoàn thiện. Trào lu thứ nhất áp dụng
các biện pháp giải quyết tính công bằng trong chăm
sóc y tế, đặc biệt chú trọng mở rộng việc chăm sóc sức
khỏe ngoài bệnh viện. Nhng cả hai trào lu điều có
đặc điểm chung là mở rộng hợp tác, liên kết để cung
cấp dịch vụ sao cho hiệu quả hơn và phù hợp với nhu
cầu xã hội [2,10].
Theo hai trào lu nói trên, các nớc đang phát triển
đứng giữa ngã ba đờng của sự lựa chọn, nên phát
triển theo hớng nào? Nhiều quốc gia phát triển lựa
chọn hệ thống nhà nớc và t nhân hỗn hợp trong đó
có các nớc t bản nh Anh, Thụy Điển, các nớc Bắc
Âu.v.v. Việt Nam lựa chọn hớng cung ứng hỗn hợp
nhng lấy nhà nớc, cung ứng, tài chính công chi phối

nhằm giải quyết hài hoà cả hai mặt công bằng và hiệu
quả để phát triển, hội nhập [5,6,7].
Sau hơn hai mơi năm đổi mới, ngành y tế nớc ta
đã có những thành công đáng kể, đặc biệt là công tác
khám chữa bệnh. Nhờ chính sách xã hội hóa, chúng ta
đã tập trung đợc nguồn lực xã hội phục vụ đầu t
trang thiết bị, công nghệ và chất lợng phục vụ của đội
ngũ nhân viên y tế, cải thiện đợc chất lợng công tác
khám chữa bệnh [2]. Bộ Y tế nớc ta cũng chỉ đạo các
đơn vị trong ngành tăng cờng liên kết, hợp tác trên cơ
sở tận dụng thế mạnh để cùng nhau phát triển nhằm
tiết kiệm chi phí và nâng cao chất lợng khám chữa
bệnh. Tuy nhiên, liên kết vẫn là điểm yếu nhất của hệ
thống y tế nớc ta hiện nay. Nguyên nhân chủ yếu là
do: 1) chúng ta đã phát triển theo hớng chuyên ngành
quá lâu, 2) việc đầu t manh mún dẫn đến không đồng
bộ nên khó kết nối và 3) mặt trái của cơ chế thị trờng
là cần đảm bảo tăng nguồn thu cho mỗi đơn vị. Ngày
01/08/2008, Bộ Y tế đã ban hành Thông t số
09/2008/TT-BYT về việc hớng hớng dẫn kết hợp
giữa các cơ sở đào tạo cán bộ y tế với các bệnh viện
thực hành trong công tác đào tạo, NCKH và chăm sóc
sức khỏe. Việc kết hợp viện-trờng đã mang lại hiệu
quả đáng kể trong công tác đào tạo nguồn nhân lực và
đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân [1].

×