Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Giáo trình CTXH TS. Mai Thị Kim Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.92 KB, 148 trang )

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC- BỘ MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI

TS. MAI THỊ KIM THANH
NHẬP MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
(SOCIAL WORK)
HÀ NỘI 2005
Chương I
CÔNG TÁC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC
I. Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội cũng như bất kỳ môn khoa học nào, nó không xuất hiện
ngay một lúc dưới dạng hoàn chỉnh với một hệ thống khái niệm, quy luật,
nguyên lý và phương pháp của nó. Vì vậy để hiểu và trả lời được câu hỏi
công tác xã hội là gì? Thì cho tới nay đã có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa
khác nhau về nó.
Theo F.LuLu Pablo - Bộ trưởng bộ xã hội Philippin, chuyên gia tư vấn
cho dự án “ Tư pháp vị thành niên” của Radda Barnen: công tác xã hội vừa là
một nghệ thuật, vừa là một môn khoa học, là một nghề chuyên môn giúp con
người giải quyết những vấn đề của cá nhân, của nhóm (đặc biệt gia đình), của
cộng đồng và để đạt được những mối quan hệ thoả đáng về cá nhân, nhóm,
cộng đồng thông qua các hoạt động xã hội như: công tác xã hội cá nhân, công
tác xã hội nhóm, tổ chức cộng đồng, quản lý xã hội và nghiên cứu.
Theo Foundation of Social Work Practice ( Cơ sở thực hành công tác xã
hội): công tác xã hội là một khoa học ứng dụng để giúp đỡ mọi người vượt
qua khó khăn của họ và đạt được vị trí ở mức độ phù hợp trong xã hội. Công
tác xã hội được coi như là một môn khoa học vì nó dựa trên những luận
chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã được chứng minh, nó cung cấp
một lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn cho công tác xã hội và xây dựng
những kĩ năng chuyên môn hoá.


Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh - giảng viên trường Đại học Mở bán công
Thành phố Hồ Chí Minh: công tác xã hội là một hoạt động thực tiễn, mang
tính tổng hợp cao được thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp
nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong việc giải quyết các vấn
đề đời sống của họ. Qua đó công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi,
hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. Công tác xã hội là hoạt động thực tiễn
2
bởi họ luôn làm việc trực tiếp với đối tượng, với nhóm người cụ thể và mang
tính tổng hợp cao bởi người làm công tác xã hội phải làm việc với nhiều vấn
đề khác nhau như: tệ nạn xã hội, vấn đề người nghèo, vấn đề gia đình…Công
tác xã hội không giải quyết mọi vấn đề của con người và xã hội mà chỉ nhằm
vào những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của con người. Đó là
an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội, đồng thời hỗ trợ con người giải quyết vấn
đề đời sống cụ thể của họ, nhằm đem lại sự ổn định, hạnh phúc cho mọi
người và phát triển cho cộng đồng, xã hội.
Theo Joanf Robertson – chủ nhiệm khoa công tác xã hội trường Đại học
Wisconsin – Hoa Kỳ: công tác xã hội là một quá trình giải quyết vấn đề hợp
lý nhằm thay đổi theo kế hoạch, hướng tới mục tiêu đã đề ra ở các cấp độ cá
nhân, gia đình, nhóm, tổ chức, cộng đồng và chính sách xã hội.
Theo NASW - tổ chức quốc tế phục vụ cộng đồng, gia đình và tổ chức
tình nguyện Liên Hợp Quốc: công tác xã hội là những hoạt động chuyên
nghiệp, nhằm mục đích giúp đỡ các cá nhân, nhóm và cộng đồng trong hoàn
cảnh khó khăn, để họ tự phục hồi chức năng hoạt động trong xã hội và để tạo
ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được những mục đích của cá nhân.
Theo ISSW-Liên đoàn chuyên nghiệp xã hội quốc tế (tại đại hội Montrean
tháng 7/2000): công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội
việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người, sự tăng quyền
lực và giải phóng người dân giúp cuộc sống của họ ngày càng thoải mái dễ
chịu. Vận dụng các lí thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, công
tác xã hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi trường của

họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề.
Theo quan niệm của các học giả Trung Quốc: công tác xã hội là 1 sự
nghiệp và môn khoa học chuyên ngành của nhà nước và xã hội để giải quyết
và dự phòng những vấn đề xã hội nảy sinh do thành viên xã hội thiếu khả
năng thích ứng với cuộc sống xã hội hay mất thăng bằng với các chức năng
xã hội. Tính năng của nó là điều chỉnh quan hệ xã hội, cải thiện chế độ xã
3
hội, đẩy mạnh xây dựng xã hội, thúc đẩy sự phát triển ổn định của xã hội
thông qua phục vụ xã hội và quản lí xã hội .
Theo Crouch.R.C: Công tác xã hội là sự cố gắng hỗ trợ những người
không làm chủ các phương tiện sinh tồn biết tiếp cận được với chúng và đạt
được mức độ độc lập cao nhất có thể được.
Theo từ điển xã hội học: công tác xã hội là một dịch vụ đã chuyên môn
hoá-một việc giúp đỡ có tính cá nhân để giải quyết những vấn đề xã hội đặc
biệt.
Với quan niệm phong phú về nội dung công tác xã hội như vậy mà việc
nêu lên một định nghĩa thật hoàn chỉnh, chính xác về công tác xã hội không
phải là đơn giản. Tuy nhiên, có thể tóm tắt nội dung khái niệm công tác xã
hội như sau:
Công tác xã hội là một nghề, một dịch vụ xã hội cung ứng cho cá nhân,
gia đình cá nhân ấy, cho 1 nhóm người, một cộng đồng khi gặp khó khăn mà
tự họ không tìm ra lối giải quyết.
Công tác xã hội với trọng tâm là làm giảm bớt các vấn đề trong quan hệ
của con người, là làm phong phú thêm cho cuộc sống thông qua mối quan hệ
tương tác đã được cải thiện. Nó tìm cách làm tăng chức năng xã hội của các
cá nhân đơn lẻ hoặc trong các nhóm thông qua các hoạt động hướng vào
mối quan hệ hình thành sự tương tác giữa các cá nhân với môi trường.
Dịch vụ xã hội này (công tác xã hội) cung ứng thông tin, tài liệu, sự hỗ
trợ tinh thần và các kĩ năng chuyên môn thông qua sự quan tâm giữa người
và người nhằm giúp đối tượng có thêm khả năng, điều kiện và hoàn cảnh để

họ tự cải thiện cuộc sống của chính mình.
Nhân viên công tác xã hội với các kĩ năng được đào tạo về chuyên môn và
các kinh nghiệm nghề nghiệp là người trực tiếp làm việc để đạt được các
mục đích được định rõ và do nghề công tác xã hội đặt ra bằng cách vận
dụng các phương pháp, kĩ năng cơ bản trong công tác xã hội để làm cho đối
tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu, giải quyết điều chỉnh những vấn đề
đang đặt ra của mình cho phù hợp với sự thay đổi mô hình xã hội.
4
Từ định nghĩa trên có thể thấy công tác xã hội chính là một khoa học, một
nghề và đối tượng của nó chính là các hoạt động xã hội đặc thù nhằm giúp đỡ
các cá nhân, nhóm, cộng đồng ngăn chặn, khôi phục các chức năng bị suy
thoái, đồng thời chính họ tự vươn lên để giải quyết các vấn đề đã và đang đặt
ra của mình, từ đó hoà nhập với cộng đồng xã hội.
II. Phân biệt công tác xã hội với công tác từ thiện, cứu trợ xã hội, bảo
đảm xã hội
II.1 Phân biệt Công tác xã hội với công tác từ thiện
Công tác xã hội với công tác từ thiện về mặt hình thức là hai hoạt động
cùng có những khiá cạnh giống nhau đó là xuất phát từ lòng nhân đạo, lòng
thương người và cùng giúp những người trong hoàn những cảnh đặc biệt khó
khăn. Tuy nhiên, giữa chúng đều có những khác nhau về căn bản do xuất
phát từ những mục đích, cách tiếp cận cũng như phương pháp làm việc.
Về động cơ: Nếu như công tác từ thiện, động cơ của họ khi làm có thể
xuất phát từ cá nhân, từ nhu cầu tâm lý muốn tự khẳng định, bù đắp. muốn
tạo uy tín, cũng có thể là mang một màu sắc tôn giáo nào đó như làm phúc,
để đức cho con cháu, hoặc cũng có thể là muốn che giấu một điều gì đó… thì
ở công tác xã hội, động cơ của nó khác hẳn, vơi quan niệm cho rằng đây là
một nghề phi lợi nhuận nên ở đây đối tượng và lợi ích của họ chính là mối
quan tâm hàng đầu duy nhất.
Về mục đích: Do xuất phát từ động cơ cho rằng đối tượng và lợi ích của họ
chính là mối quan tâm hàng đầu duy nhất nên mục đích của công tác xã hội

chính là giúp đối tượng có vấn đề phát huy tiềm năng của chính họ để họ tự
vươn lên. ở đây, vấn đề của đối tượng sẽ được giải quyết tận gốc và toàn
diện. Trong khi đó hoạt động của công tác từ thiện chỉ là phân phối viện trợ
của một cá nhân hay tổ chức nào đó, đấy là một hoạt động thường để giải
quyết những vấn đề mang tính cấp bách như lũ lụt, thiên tai, hoả hoạn… vì
thế nó không đáo tứng được nhu cầu của đối tượng.
5
Về phương pháp: do công tác xã hội là một khoa học nên phương pháp
được thực hiện trong công tác xã hội chính là dựa vào những kiến thức, kĩ
năng, kinh nghiệm đã học được từ trường lớp và từ thực tiễn, mà nhân viên
xã hội thực thi để giúp đỡ đối tượng, trong khi ở công tác từ thiện chỉ là
những hoạt động phân bổ mang tính chu kỳ.
Về mối quan hệ: Với quan điểm nghề nghiệp của ngành là những quan
điểm về con người, về mục đích cho sự an sinh cỉa họ và những biện pháp đi
đến mục đích đó mà trong quan hệ vớu đối tượng, mối quan hệ của người
nhân viên xã hội với đối tượng trong công tác xã hội là mối quan hệ bình
đẳng, mật thiết, tôn trọng. ở đây nhân viên xã hội tìm hiểu nhu cầu của đối
tượng, dùng những kiến thức, kỹ năng của mình phát huy tiềm năng của đối
tượng. Làm cùng và làm với họ. Tôn trọng và khuyến khích đối tượng tự chủ
động tham gia cũng như tự quyết lấy những vấn đề của chính mình. Trong
khi đó ở hoạt động từ thiện, mối quan hệ này khác hẳn, nó là mối quan hệ
nhất thời, từ trên xuống, thậm chí có khi mang tính ban ơn. ở đây người giúp
đỡ chủ động quyết định, áp đặt có khi làm thay cho đối tượng, còn đối tượng
thụ động ngồi chờ.
Về kết quả: Xuất phát từ động cơ, mục đích, phương pháp và mối quan hệ
khác nhau mà kết quả của hai hoạt động này khác hẳn nhau. Trong khi ở hoạt
động công tác xã hội, vấn đề cốt lõi được giải quyết. Đối tượng có thể tự
đứng vững trên đôi chân của chính mình sau khi được giúp thì ở hoạt động
từ thiện việc giúp đỡ này chỉ mang tính chất xoa dịu nhất thời, nhu cầu chính
vẫn chưa giải quyết được,thậm chí đối tượng còn mang tính ỉ lại, chờ đợi.

II.2. Phân biệt Công tác xã hội với Cứu trợ xã hội
Nếu như công tác xã hội là một nghề, một dịch vụ xã hội cung ứng cho cá
nhân, gia đình cá nhân ấy, cho một nhóm người, một cộng đồng khi gặp khó
khăn mà tự họ không tìm ra lối giải quyết thì cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của
nhà nước, xã hội, cộng đồng thông qua các chính sách, chế độ, biện pháp và
6
hình thức khác nhau cho các thành viên của xã hội khi họ gặp những khó
khăn, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống hoặc do những nguyên nhân khác nhau
dẫn đến mất một phần hoặc toàn bộ thu nhập, tài sản… nhằm tạo điều kiện để
họ có thể vuợt qua khó khăn, đảm bảo cho cuộc sống, sinh hoạt, tự mình
vươn lên hoà nhập trở lại với cộng đồng và xã hội.
Cứu trợ xã hội bao gồm: cứu tế xã hội và trợ giúp xã hội.
Cứu tế xã hội: là cứu giúp cho các thành viên của xã hội khi họ gặp những
rủi ro, bất hạnh mà cuộc sống bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu không có sự cứu
tế thì họ và gia đình có thể bị nguy hại đến cuộc sống, có thể dẫn đến cái
chết. ở đây, tính chất của cứu tế là mang tính tức thời, cấp cứu, đôi khi mang
tính chất thường xuyên, lâu dài đặc biệt là những trường hợp như: người già
cô đơn không nơi nương tựa, người nghèo, người tàn tật - những người
không có khả năng lao động, không có nguồn thu nhập để trang trải cho cuộc
sống hàng ngày.
Trợ giúp xã hội: là sự hỗ trợ thêm bằng tiền, hiện vật hoặc các điều kiện
vật chất, tinh thần khác của cộng đồng và xã hội cho các đối tượng khi gặp
phải những khó khăn hoặc sa sút nào đó. Họ có thể vẫn cố gắng để tự lo liệu
cuộc sống nhưng nếu không có sự giúp đỡ thì cuộc sống của họ trở nên khó
khăn hơn và dễ rơi vào tình cảnh bần cùng. ở đây, tính chất của trợ giúp xã
hội khác với cứu tế xã hội ở chỗ đối tượng có cơ hội khắc phục hoặc giảm
bớt hậu quả, rủi ro, tự vươn lên đảm bảo cuộc sống của mình, sớm hoà nhập
trở lại với đối tượng chung của cộng đồng. Trợ giúp vừa có tính tức thời, vừa
có tính lâu dài, nhưng lâu dài là chủ yếu. Trợ giúp có phạm vi hoạt động lớn
hơn cứu tế xã hội.

II.3 Phân biệt Công tác xã hội với Bảo đảm xã hội
Nếu như công tác xã hội với trọng tâm là làm giảm bớt các vấn đề trong
quan hệ của con người, là làm phong phú thêm cho cuộc sống thông qua mối
quan hệ tương tác đã được cải thiện. Nó tìm cách làm tăng chức năng xã hội của
các cá nhân đơn lẻ hoặc trong các nhóm thông qua các hoạt động hướng vào mối
7
quan hệ hình thành sự tương tác giữa các cá nhân với môi trường, thì bảo đảm
xã hội là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh
tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Đây là một chính sách xã hội vô cùng quan
trọng nhằm bảo đảm những điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để duy trì,
ổn định và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội, mà trước hết là
người lao động.
Bảo đảm xã hội tập trung ở 3 lĩnh vực chủ yếu là: ưu đãi xã hội, bảo hiểm
xã hội và cứu trợ xã hội.
Ưu đãi xã hội: là một chính sách có tính đặc thù của Nhà nước dành cho
các đối tượng là những người có công với đất nước như: gia đình có công với
cách mạng, thương bệnh binh, liệt sĩ và thân nhân của họ…
Bảo hiểm xã hội: là một hệ thống chính sách, chế độ nhằm đảm bảo khoản
thu nhập thay thế cho người lao động trong các trường hợp bị giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm dẫn tới tình trạng bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập
từ lao động và việc làm sau khi người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội trong
một thời gian nhất định.
Cứu trợ xã hội: là một chính sách đang được áp dụng ở các địa phương và
các nước phát triển nhằm phòng ngừa và bảo vệ những khó khăn có thể xảy ra
đối với các cá nhân trong xã hội. Hoạt động này bao gồm: cứu trợ tại gia, bảo vệ
trẻ em bị ngược đãi, trẻ em không nơi nương tựa do Nhà nước giám hộ…
III. Quan hệ giữa công tác xã hội với một số ngành khoa học xã hội khác.
III.1 Quan hệ Giữa Công tác xã hội với Xã hội học
Khi xem xét mối quan hệ giữa Xã hội học với Công tác xã hội, thì việc
tìm hiểu đối tượng nghiên cứu của mỗi ngành khoa học là cần thiết, để từ đó

tìm hiểu sự giống, khác nhau giữa hai ngành khoa học này và những quan hệ
giữa chúng.
Xã hội học là một khoa học nghiên cứu về các quy luật và tính quy luật xã
hội chung, đặc thù của sự phát triển, sự vận hành của các hệ thống xã hội xác
định về mặt lịch sử. Nó là khoa học về các cơ chế tác động, các hình thức
8
biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, nhóm xã hội,
giai cấp và các dân tộc. Nói cách khác, Xã hội học là một bộ môn nghiên cứu
các mối quan hệ của các sự kiện, các quá trình, cơ cấu và thiết chế xã hội
nhằm tìm ra logic của thực tại xã hội và sự vận động của tồn tại đó. Đối
tượng của Xã hội học được chia ra làm 2 cấp độ: cấp độ vi mô và cấp độ vĩ
mô. Cấp độ vi mô nghiên cứu mối quan hệ của các cá nhân trong các nhóm
xã hội, các giai cấp, các tầng lớp xã hội, cũng như mối quan hệ giữa các
nhóm, các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng. Còn cấp độ vĩ mô nghiên cứu các
quy luật chung và sự đặc thù vận hành của hệ thống xã hội.
Công tác xã hội cũng là một khoa học, một nghề, một hoạt động xã hội
đặc thù giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng nhằm ngăn chặn, khôi phục
các chức năng bị suy thoái và giúp họ tự vươn lên giải quyết các vấn đề đã và
đang đặt ra của mình, từ đó hoà nhập với cộng đồng xã hội.
Như vậy, xã hội học và công tác xã hội đều giống nhau ở chỗ: cùng quan
tâm và giúp đỡ con người, nhóm, cộng đồng xã hôi, nhưng khác nhau ở chỗ:
trong khi xã hội học nghiên cứu lĩnh vực xã hội của xã hội, nghiên cứu các
hiện tượng xã hội, các mối quan hệ giữa các cộng đồng, giai cấp, tầng lớp xã
hội và giữa các cá nhân, hay nói cách khác nó nghiên cứu mối quan hệ giữa
con người và xã hội( sự ảnh hưởng của con người tới xã hội và ngược lại), sự
tương tác giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm, với các cộng đồng
trong các tổ chức xã hội và thông qua các tương tác, quan hệ xã hội đó tìm ra
những nguyên nhân, hậu quả từ những quan hệ, tương tác trên, dự báo xu
hướng những vấn đề này sẽ xảy ra trong tương lai ra sao và đưa ra các giải
pháp ngăn chặn… thì công tác xã hội lại chú ý tìm hiểu những mối quan hệ

tương tác của con người với nhau trong các tổ chức xã hội như thế nào?
Trong những mối quan hệ tương tác đó con người bị mất mát những chức
năng nào? từ đó cùng đối tượng đưa ra hướng giải quyết và khắc phục. Ở
đây, những cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng mà công tác xã hội quan tâm
không rộng như trong xã hội học, nó chủ yếu nhằm vào những người dễ bị
tổn thương trong xã hội như: người mắc vào những tệ nạn xã hội, người làm
9
trái pháp luật, người nghèo, người hồi hương, di cư, những người bị tổn
thương về mặt xã hội, người già, phụ nữ, trẻ em, người tàn tật…
Rõ ràng tính chất tổng hợp, đa diện của công tác xã hội đã làm cho nó rất
gần với xã hội học về đối tượng và nội dung cùng quan tâm. Tuy nhiên ở
mức độ phương pháp luận cùng với hệ thống lý luận của nó như: lý thuyết vị
trí, vai trò xã hội, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết biến đổi xã hội, lý
thuyết giá trị - chuẩn mực… thì xã hội học được coi như nền tảng lý luận, là
cơ sở cho những thực hành công tác xã hội. Về vấn đề này Giáo sư, Viện sĩ,
Tiến sĩ Triết học Nga P.U. Pavlenok và A.A.Akamalova cũng đã khẳng định:
“ Xã hội học trên lý thuyết là phương pháp luận đối với công tác xã hội”. ở
đây, xã hội học giúp cho những người làm công tác xã hội nắm được những
khái niệm trọn vẹn về xã hội con người như nó vốn có, về những đặc tính của
xã hội trong giai đoạn phát triển và chức năng hoá cụ thể của nó, về các quá
trình xã hội riêng lẻ, cá biệt, các hình thức hoạt động xã hội riêng lẻ, các cộng
đồng xã hội, các nhóm dân cư… Nó còn giúp những người làm công tác xã
hội nắm được những kĩ năng thực tế về tổ chức, nghiên cứu, lập chương
trình, các phương pháp như: phỏng vấn, tham vấn… khi thực hành nghề và
giúp định hướng sự hoạt động xã hội diễn ra trong một môi trường xã hội với
những thể chế, cấu trúc xã hội và những nhóm xã hội cần được bảo vệ về mặt
xã hội. Ngược lại, những kiến thức và kết quả trong hoạt động công tác xã
hội cũng là những minh chứng cụ thể hoá và làm sáng tỏ hơn những khái
niệm hệ thống những lý thuyết trong xã hội học, những phát hiện mới mà các
nhà xã hội học nghiên cứu.

III.2 Quan hệ giữa Công tác xã hội với Tâm lý học
Công tác xã hội là một nghề, một dịch vụ xã hội cung ứng cho cá nhân,
gia đình cá nhân ấy, cho một nhóm người, một cộng đồng khi gặp khó khăn
mà họ không tìm ra lối giải quyết. Trọng tâm của nó là làm giảm bớt các vấn
đề trong quan hệ của con người, là làm phong phú thêm cho cuộc sống thông
qua mối quan hệ tương tác đã được cải thiện. Nó tìm cách làm tăng chức
10
năng xã hội của các cá nhân đơn lẻ hoặc trong các nhóm thông qua các hoạt
động hướng vào mối quan hệ hình thành sự tương tác giữa các cá nhân với
môi trường.
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về các cá nhân, về hành vi xã hội của
các cá nhân, về các quy luật hình thành tâm lý( xúc cảm, tình cảm…) của con
người. Trong tâm lý học, người ta xem các cá thể học những kĩ năng như thế
nào, nghiên cứu sự phát triển của các tâm thế ra sao?
Trong quan hệ với công tác xã hội, tâm lý học giúp những nhà làm công
tác xã hội có những kiến thức trong mô tả, chuẩn đoán và dự báo tâm lý cá
nhân, nhóm người, những lý thuyết như lý thuyết tâm lý học nhóm, tâm lý
học giao tiếp, lý thuyết cá nhân hoá và phân hoá, lý thuyết xung đột xã hội về
cá nhân - cá nhân, cá nhân – nhóm, nhóm với nhóm và một số phương pháp
trong tâm lý học như: phương pháp chuẩn đoán, tâm lý học hướng nghiệp,
phương pháp hiệu chỉnh hành vi, mô típ giao tiếp, tự đánh giá…
ở đây chức năng chuẩn đoán của tâm lý học giúp những người làm công
tác xã hội chuẩn đoán cá tính và phẩm chất của nó về mặt xã hội, chuẩn đoán
các nhóm người va sự phát triển của họ.
Trong chức năng mô tả, tâm lý học giúp những nhà làm công tác xã hội
cách thức mô tả những tình tiết tâm lý – xã hội, từ đó phát hiện những vấn đề về
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức của công tác xã hội cũng có liên
quan đến những tình tiết đã được mô tả.
Trong chức năng mô tả, tâm lý học giúp những nhà làm công tác xã hội
xác định được các yếu tố hình thành cá tính tương lai cũng từ các yếu tố này có

thể giải quyết được nhiệm vụ phát triển cá tính về mặt xã hội, nâng con người
lên mức tự bảo vệ về mặt xã hội.
Trong lý thuyết tâm lý học nhóm, tâm lý học giúp những nhà làm công tác
xã hội nắm được cấu trúc của nhóm người thông qua địa vị lãnh đạo, trách
nhiệm, triển vọng, hoạt động nghề nghiệp, kinh nghiệm xã hội. Việc xác định
cấu trúc nhóm về tâm lý học sẽ giúp những nhà làm công tác xã hội tổ chức tốt
các chương trình công tác xã hội. Còn ở lý thuyết tâm lý học giao tiếp, tâm lý
11
học giúp những nhà làm công tác xã hội nắm được kĩ năng giao tiếp để giáo dục
và phát triển cá tính. Việc này tạo nên các mối quan hệ sư phạm xã hội thuận lợi
cho công tác xã hội.
Đóng vai trò quan trọng với công tác xã hội còn là lý thuyết xung đột xã
hội về cá nhân – cá nhân, cá nhân – nhóm , nhóm với nhóm. Việc phân tích tâm
lý xã hội với xung đột ( tình tiết xung đột, thái độ thái quá gây mất ổn định xã
hội), việc giải quyết xung đột ( bảo đảm được tính hiệu lực trong công tác xã
hội. ở lý thuyết cá nhân hoá và phân hoá, những lý thuyết này giúp những nhà
làm công tác xã hội nghiên cứu cá nhân với những hiện tượng tâm lý như: khí
chất, tính tình, tư duy, lời nói, những phẩm chất đạo đức… và trong lý thuyết
nghiên cứu về sự phân hoá có nghĩa nghiên cứu sự phân chia các nhóm xã hội
khác nhau theo tiêu chí độ tuổi, học vấn, tính chất công việc( lao động nặng hay
giản đơn, chân tay hay trí óc), sức khoẻ hoặc nghề nghiệp…
Trong phương pháp, tâm lý học giúp những nhà làm công tác xã hội
phương pháp tâm lý hướng nghiệp ( giúp các cá nhân trong việc tự quyết lấy
nghề nghiệp và phục vụ cho việc xác định lĩnh vực đào tạo lại cán bộ bổ xung
vào các nhóm xã hội…), phương pháp thúch ứng tâm lý( giúp các đối tượng
được bảo trợ hoà đồng vào hoạt động xã hội từ đó giúp họ hiểu rõ hơn xã hội, tự
đánh giá được mình, tự thích ứng được với hoàn cảnh luôn luôn thay đổi…),
phương pháp tư vấn tâm lý( giúp các kĩ năng tư vấn theo từng nhóm xã hội theo
ngành nghề), phương pháp hiệu chỉnh hành vi, mô típ giao tiếp, tự đánh
giá( giúp đối tượng cần được bảo trợ hiểu rõ được những thiếu sót trong cấu trúc

cá tính của bản thân, đề ra được những mâu thuẫn hành vi mới, luyện tập ứng
dụng chúng rồi tổng hợp chuyển thành những thành quả tâm lý xã hội vào điều
kiện sinh hoạt mới của mình…)
IV. Chức năng của công tác xã hội
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về chức năng của công tác xã hội.
12
Theo Giáo sư, Tiến sĩ P.U.Pavlenok và các nhà khoa học Nga công tác xã
hội có 13 chức năng, đó là: chức năng chuẩn đoán, dự báo, cảnh báo, phòng
ngừa, bảo vệ pháp quyền, sư phạm xã hội, tâm lý, y tế xã hội, sinh hoạt xã
hội, giao tiếp, tuyên truyền quảng cáo, nhân văn, tổ chức.
Theo các nhà khoa học Trung Quốc, công tác xã hội có 3 chức năng cơ
bản, đó là: chức năng phục hồi, chức năng điều hoà và chức năng ổn định.
Theo chúng tôi, công tác xã hội có 3 chức năng cơ bản sau: chức năng
phòng ngừa, chức năng phục hồi xã hội, chức năng trị liệu và chức năng phát
triển.
IV.1. Chức năng phòng ngừa
Là chức năng mang tính hướng dẫn giúp đỡ mọi cá nhân, nhóm, cộng
đồng xã hội, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương có những chuẩn bị
trước nhằm đề phòng những hậu quả, rủi ro và bất hạnh có thể xảy ra cho
chính họ, gia đình họ và cộng đồng của họ.
Những hình thức phòng ngừa rất đa dạng. Nhân viên xã hội có thể vận
dụng những cơ cấu về mặt pháp chế xã hội, cơ sỏ pháp lý, tâm lý, sư phạm, y
tế và những cơ sở khác để phòng ngừa như: trong y tế là hoạt động tiêm
phòng, khám sức khoẻ định kì; trong sư phạm là các hoạt động tập huấn trang
bị kiến thức về sức khoẻ, về sức khoẻ sinh sản, về pháp luật, về trồng trọt,
chăn nuôi, về các kỹ năng trong giao tiếp ứng xử…
IV.2. Chức năng chữa trị( trị liệu)
Với chức năng này, các nhân viên xã hội bằng những kiến thức, kĩ năng
và kinh nghiệm của mình giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng đã bị tổn
thương tự vươn lên giải quyết những vấn đề của chính họ. Chức năng này

không chỉ đơn thuần là việc giúp họ tự vươn lên giải quyết các vấn đề của
chính họ. Chức năng này không chỉ đơn thuần là việc giúp họ tự vươn lên
trong cuộc sống, mà còn ở khía cạnh khác tích cực hơn đó là tìm kiếm và
khuyến khích nhằm giúp đối tượng phát huy hết khả năng vốn có của mình
như: sức khoẻ, ý chí, tay nghề, phẩm chất,…- những điều mà họ không nhận
thấy để phát triển.
13
IV.3. Chức năng phục hồi
Đây cũng là một trong những chức năng không kém phần quan trọng của
công tác xã hội trong hoạt động giúp đỡ đối tượng. ở đây, những người làm
công tác xã hội không chỉ giúp các đối tượng phục hồi những chức năng về
thể chất, mà còn phục hồi cả những chức năng về tâm lý và xã hội. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc đánh tan mặc cảm, tự ti của chính họ và giúp họ
nhanh chóng hoà nhập vào với cuộc sống sôi động của cộng đồng.
IV.4. Chức năng phát triển
Là chức năng triển khai những tiềm năng của các cá nhân, nhóm, cộng
đồng nhằm nâng cao đời sống, tăng thêm năng lực cho chính họ. Trong các
xã hội phát triển, chức năng này luôn luôn được coi trọng thông qua các
chương trình dạy nghề, tập huấn những kiến thức cơ bản về tâm lý học như:
giao tiếp, nghe tích cực, hợp tác, quản lý… bởi đây là cách nhanh nhất để
giúp các cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc
hậu.
V. Vài nét về sự ra đời của công tác xã hội
Công tác xã hội chuyên nghiệp( mang tính tổ chức quốc tế) ra đời tới nay
chưa đầy 100 năm, song nó đã bắt nguồn từ trong lòng các xã hội cổ xưa
do trong cuộc sống con người luôn phải sống trong sự đe doạ của thiên
nhiên, của chiến tranh, của nghèo đói và của bệnh tật… Với tinh thần “ lá
lành đùm lá rách” con người luôn sẵn lòng giúp đỡ nhau bất kể đó là đất
nước hay châu lục nào.
ở Nga, Hiệp ước năm 911 do Công tước Ôlếc - đại diện nước Nga

lúc bấy giờ ký kết với người Hy Lạp có nêu lên việc nuôi dưỡng người
già, cứu giúp người nghèo, chăm sóc người thương tật… “ chính là văn
kiện sớm nhất trên thế giới nói chung và của nước Nga nói riêng, là bằng
chứng chính thức đầu tiên về sự quan tâm của Nhà nước với những công
dân cần được sự trợ giúp của mình. Cùng với sự tan rã của chế độ phong
kiến là sự phát triển mạnh mẽ của chế độ Tư bản và Xã hội học, chính
14
sách xã hội, công tác xã hội cũng chính là con đẻ cỉa quá trình vận động
về vật chất, tinh thần trong các xã hội Tây Âu và Mỹ này ở thế ký 19.
ở những nước này ( Anh, Pháp, Mỹ, Đức) di ảnh hưởng của các
cuộc Cách mạng Công nghiệp nên đã phải đối đầu với những vấn đề xã
hội trầm trọng. Sự thất nghiệp của hàng vạn công nhân khi các xí nghiệp,
công xưởng, hầm mỏ bị phá sản, người lao động tại các đô thị bị thiếu ăn,
nghèo đói, bệnh tật, nhà ở tồi tàn, các tệ nạn cac hội, bóc lột lao động ở trẻ
em và phụ nữ dã man, trong khi đó ở các vùng nông thôn, tình trạng này
cũng không khấm khá hơn. Nhiều gia đình thiếu đất canh tác do chính
sách phát triển công nghiệp đã bỏ làng mạc lên những khi đô thị lớn để
kiếm sống vớu đó lượng ngày càng tăng dẫn tới tình trạng quá tải ở những
nơi này về cơ sở hạ tầng lẫn mức sống. Tệ nạn xã hội đã nhiều lại càng gia
tăng một cách nhanh chóng, mâu thuẫn giai cấp ( tư sản và vô sản) tăng
lên, các cuộc xung đột vũ trang xảy ra một tất yếu của xã hội Tư bản.
Trước tình trạng như vậy, nhiều chính phủ đã có cách giải quyết khác
nhau thông qua các chính sách, luật lệ và đạo luật Elidabét của Anh quốc
năm 1601 ra đời ( tạo công ăn việc làm cho người nghèo, người còn sức
lao động, mở nhà dưỡng lão cho người già, người tàn tật, bảo trợ trẻ em
mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi bằng cách đào tạo nghề, quy định nguônf tài
chính, trách nhiệm của người quản lý và đối tượng được cứu giúp…)
chính là một dấu hiệu quan trọng trong lịch sử hình thành công tác xã hội
như một nghề do lần đầu tiên nó là hành động cứu giúp có tính tổ chức
mang tính Nhà nước bên cạnh những cải cách tôn giáo (đạo Tin lành)

trong việc thúc đẩy sự quan tâm về tình trạng bần cùng hoá, về việc tiếp
tục viện trợ, cứu giúp và ngăn chặn sự phụ thuộc lâu dài của người
nghèo.
Năm 1788, một chế độ cứu tế xã hội mới – “ chế độ Hăm- Buốc” đã
được thực hiện rộng rãi ở thành phố Hăm - Buốc (Đức). Theo chế độ này,
cấp thành phố có cơ cấu quản lý trung tâm, phân loại các vùng tiến hành
cứu tế, chữa bệnh và giới thiệu việc làm cho người nghèo.
15
Đầu thế kỉ 19 ở Mỹ, dạng công tác xã hội sơ khai được thực hiện
bởi các nhà truyền giáo và tình nguyện viên - những người được gọi là “
những vị khách thân thiện – Visitors). Họ thường xuyên tuyển chọn và
phân công giúp đỡ những người nghèo đói, ốm yếu, bệnh tật, trẻ mồ côi,
người già không nơi nương tựa. Thông qua các “ Uỷ ban cải thiện hình
thức vệ sinh” và “ Vụ giải phóng nô lệ”, các tình nguyện viên còn giúp
đỡ, chăm sóc những nô lệ vừa được giải phóng nhanh chóng hoà nhập vào
cộng đồng xã hội.
Những năm 1850-1865, thông qua các uỷ ban như : “ Uỷ ban từ
thiện quốc gia”, “ Uỷ ban từ thiện cộng đồng”, “ Uỷ ban quốc gia”…
những hoạt động khởi nguồn của công tác xã hội đã được triển khai.
Chẳng hạn tại Thụy Điển, công tác xã hội đã được hình thành như một
nghề nghiệp từ năm 1851 khi một loạt các trại cải tạo, nhà tù, viện tâm
thần, trại tế bần, trại mồ côi được xây dựng và các uỷ ban đều hoạt động
nhằm hướng tới mục đích xây dựng những thiết chế duy trì trật tự, ổn định
xã hội.
Những năm 1869, “ Hiệp hội các tổ chức cứu tế từ thiện và ngăn
chặn ăn xin ở Luân Đôn ( Anh)” được thành lập thường gọi là “ Hiệp hội
tổ chức từ thiện Luân Đôn”. ở đây, các nhà lãnh đạo đã vận dụng các triết
lý khoa học để hình thành một dạng quản lý từ thiện mới: khoa học từ
thiện. Có thể coi đây là bước chuyển quan trọng về nhận thức và hành
động của những người tham gia công tác xã hội. Về vấn đề này, James

Leiby có nhận xét như sau: “ Trần tục, duy lý, thực nghiệm, đối lập với
tính tôn giáo, duy cảm và giáo điều”. Như vậy, hướng tiếp cận công tác xã
hội đã dần dần mang tính hệ thống và duy lý, tách các hoạt động của nó
khỏi quan hệ mang màu sắc tôn giáo, xây dựng mô hình công tác từ thiện
thành một hoạt động độc lập.
Những năm 1870, khủng hoảng kinh tế Tư bản chủ nghĩa koé dài
trong nhiều thập kỷ đẩy con người vào cảnh sống nghèo khổ, bần cùng, xã
hội rối ren. Các nhà băng kiệt quệ, hàng triệu người lâm vào cảnh thất
16
nghiệp, phong trào bãi công, biểu tình diễn ra tại nhiều đô thị lớn ở châu
Âu và Mỹ, thậm chí nhiều cuộc bãi công còn mang tính bạo lực. Các hoạt
động từ thiện dường như không hoàn thành mục đích mang tính “ cách
mạng” ban đầu. Nhiều người nhận ra rằng các chương trình cứu trợ thực
chất là hoang phí, thậm chí dẫn tới sự sa sút về tinh thần cho người nghèo
do nó chỉ làm tăng sự phụ thuộc, ỷ lại của họ. Về vấn đề này Herbert
Spencer – nhà xã hội học người Anh cho rằng: “ Cứu trợ là phá hoại xã
hội, làm hỏng người nghèo vì nó gây ra những phụ thuộc và làm mất
động cơ hành động”. Điều này cho thấy các hoạt động cứu giúp muốn có
hiệu quả đòi hỏi phải có nhiều yếu tố mà một trong những yếu tố đóng vai
trò then chốt đó là: phải có một đội ngũ được đào tạo và trả lương một
cách chuyên nghiệp bên cạnh một trái tim nhân từ.
Năm 1877, “ Tổ chức từ thiện xã hội” được thành lập ở Mỹ ra đời
đã quan tâm tới vấn đề đào tạo một đội ngũ làm công tác xã hội. Cũng từ
đây, các “tình nguyện viên” ( Visitors) của những năm 1880-1890 đã trở
thành các nhân viên xã hội. Giờ đây họ không chỉ coi đối tượng như
những người bạn để cảm thông, chia xẻ, mà còn là những người cần được
giúp đỡ để vươn lên - một hoạt động mang tính chuyên nghiệp hơn và
năm 1884 tại Anh, lần đầu tiên đã xuất hiện “ Trung tâm phúc lợi cộng
đồng”. Vào cuối nhứng năm 1890, “Phong trào định cư” với những “ ngôi
nhà định cư” ở Luân Đôn ( Anh) được thành lập đã thành công trong việc

xây dựng cầu nối giữa người giàu và người nghèo, nhất là những người
mới nhập cư.
Năm 1898 “ Hiệp hội các tổ chức từ thiện” ( Charity Organization
Society – COS) ở Mỹ đầu tiên được thành lập đã nâng hoạt động này lên
một bước. Bởi đây là sự tiếp nối hoạt động của Uỷ ban quốc gia nhằm
phat triển khoa học từ thiện ( vay mượn mô hình từ thiện của Anh) với
mục đích: tái tổ chức các hoạt động từ thiện cũng như cá nhân ( vốn phát
triển nhanh chóng trong giai đoạn 1870), tiếp tục ứng dụng các nguyên tắc
của khoa học từ thiện, nhưng đã khắc phục được hệ qủa phổ biến trước
17
đó: sự phụ thuộc và duy trì sự bần cùng. Hoạt động của hiệp hội đã vượt
ra khỏi mục tiêu quản lý, tổ chức và mang những đặc trưng sau:
- Hoạt động từ thiện tránh sự phân phối và cứu trợ trực tiếp.
- Cố gắng lặp lại trật tự cho tình trạng hỗn loạn trong các hoạt
động từ thiện tại các địa phương.
- Áp dụng công nghệ mới vào các hoạt động của Hiệp hội bao
gồm sự can thiệp hoặc phương pháp trị liệu có kế hoạch với sự
tham gia của “ những vị khách thân thiện” ( The Friendly
Visitor).
- Ngăn chặn việc từ bỏ tín ngưỡng hoặc việc phân biệt đối xử do
những khác biệt về chính trị, tôn giáo hoặc dân tộc.
Có thể nói đây chính là thời điểm đánh dấu bước chuyển từ những
việc làm từ thiện, tình nguyện, bắt nguồn từ những niềm tin và đạo đức,
tôn giáo sang một lĩnh vực mới đó là: Công tác xã hội - một hoạt động
mang tính khoa học, một nghề nghiệp.
Sau khi hiệp hội ra đời, cũng trong năm này ( 1898) lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ đầu tiên đã được tổ chức tại Trường Summer, New York ( Mỹ).
Lớp học kéo dài tronmg 6 tuần với 27 sinh viên. Năm 1901, cũng tại
Summer, Trường công tác xã hội đầu tiên ( nay là trường Đại học công tác
xã hội Colombia) đã ra đời. Tại đây, sinh viên được đào tạo trong 8 tháng.

Đến năm 1919 cả Châu Âu và Mỹ đã có 15 trường và năm 1939 các
trường này đã thống nhất chương trình đào tạo chung ở trình độ thạc sỹ.
Đây cũng chính là những bằng chứng xác định tính chuyên nghiệp của
công tác xã hội. Năm 1925, Chi Lê là nước đầu tiên ở Châu Mỹ La Tinh
xuất hiện công tác xã hội, năm 1936, ở Châu Á, trường công tác xã hội
được thành lập ở Ấn Độ. Ở Philippin, nhiều phong trào xã hội, đặc biệt là
các tổ chức xã hội như: “ Hội đồng điều phối phúc lợi thanh niên”, “Hội
đồng chăm sóc sức khoẻ tinh thần nhằm giáo dục, ngăn ngừa tội phạm
18
trong thanh thiếu niên”… sự lần lượt ra đời vào những năm 1950-1960.
Đến năm 1955, “Hiệp hội quốc gia những người làm công tác xã hội”
( NASW) đã thành lập từ 7 tổ chức xã hội chuyên nghiệp sâu sát nhập lại.
Năm 1956, “ Liên đoàn quốc tế những người làm công tác xã hội” ra đời.
Năm 1988, ngành công tác xã hội mở khoa đầu tiên tại khoa xã hội học
trường Đại học Bắc Kinh ( Trung Quốc). Sau này, với sự phát triển của
ngành, công tác xã hội đã xuất hiện thêm ở nhiều nước khác ở Châu Á
như: Thái Lan, Inđônêxia, Việt Nam…
Ở Việt Nam, bộ Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) do vua Lê
Thánh Tông ban hành cũng chứa đựng những tư tưởng nhân đạo, nhân
quyền sâu sắc như: quy định ràng buộc trách nhiệm của các quan lại địa
phương trong việc giúp những người có hoàn cảnh khó khăn, éo le trong
đó có trẻ em tàn tật, nghèo khổ, mồ côi không nơi nương tựa, trách nhiệm
của dân chúng trong bảo vệ, chăm sóc trẻ lạc, đưa ra những quy định
nhằm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giảm hoặc hoãn thi hành án đối với phụ nữ
đang mang thai nuôi con nhỏ, quy định quyền kế thừa tài sản của con
nuôi… Chẳng hạn ở chương Hộ môn, điều 11,12 có ghi: “ Những kẻ
không ai nuôi dưỡng, quan sở tại có nhiệm vụ dựng lều, nuôi dưỡng. Nếu
ai không làm hoặc không làm tròn thì bị trừng trị bằng roi”. Triều Gia
Long vào thế kỷ 18,19 đã thành lập các “ Dương tế sở”. Tại đây, người
già, trẻ em không nơi nương tựa được nuôi dưỡng thông qua những sản

phẩm thu được từ một số ruộng công và những lãi tức thu được cũng từ
những ruộng công này giao cho người sở tại cày cấy. Về sau những nơi
này được gọi là “ Cô nhi viện”. Trong thời gian từ năm 1862-1945, một cô
nhi viện tại gò thị Bình Định theo hình mẫu của Pháp do các sơ đồ dạy dỗ,
trường mù Nguyễn Đình Chiểu và trường câm điếc Lái Thiêu được thành
lập, ở đây trong khi người Pháp phát triển mô hình công tác xã hội tập
trung thì những người Việt Nam yêu nước lại nhằm vào những dịch vụ
cứu trợ xã hội để giúp đỡ những người nghèo.
19
Năm 1949 do ảnh hưởng của Pháp nên Trường Công tác xã hội đầu
tiên có tên là Caritas ở miền Nam được thành lập dưới sự hỗ trợ của Hồng
thập tự Pháp, gần 20 năm sau ( năm 1968) có thêm trường công tác xã hội
do Bộ xã hội cũ lập ra dưới sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc (UNDP). Cho
tới ngày giải phóng miền Nam, trường đã đào tạo được 300 cán sự xã hội
(đến nay số cán sự xã hội này chỉ còn khoảng 40 người hiện đang công tác
tại các đoàn thể, quỹ bảo trợ, các tổ chức phi chính phủ trong nước và
quốc tế). Cũng trong khoảng thời gian đó và cho tới nay, ở miền Bắc,
công tác xã hội được quan niệm là công tác phong trào của các đoàn thể
và cán bộ là những học viên của các trường: Trường Đoàn, Trường Đội,
Trường cán bộ phụ nữ TW, Trường Công đoàn, Trường lao động xã hội…
Tuy nhiên hoạt động đào tạo dưới góc độ công tác xã hội vẫn còn nhiều
hạn chế. Năm 1992, lớp cử nhân về cán sự xã hội đầu tiên ( sau ngày giải
phóng) được mở tại khoa Phụ nữ học của trường Đại học Mở Bán công
TO Hồ Chí Minh, năm 1995, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ( nay là
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội)
đã phối hợp với Uỷ ban bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam
( nay là Uỷ ban Dân số - gia đình và trẻ em Việt Nam) mở lớp cử nhân
chuyên ngành đầu tiên về công tác xã hội với trẻ em. Từ năm 1996 đến
nay, khoa xã hội học của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ( nay là trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG Hà Nội) đã đưa công tác xã

hội vào chương trình đào tạo của khoa và giảng dạy cho sinh viên trong
trường.
Có thể nói, công tác xã hội đã được hình thành như một khoa học
bắt đầu từ thế kỷ XX tại nước Mỹ và ở một số nước châu Âu, đến nay nó
đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự ra đời
của công tác xã hội đã kịp thời góp phần giải quyết những vấn đề xã hội
đã và đang đặt ra và dần có tiếng nói chung trên phạm vi quốc tế.
20
Chương II
NỀN TẢNG KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
I. Nền tảng lý thuyết của công tác xã hội
Cơ sở lý thuyết dùng trong các hoạt động của ngành công tác xã hội
chủ yếu dựa trên sự tổng hợp của nhiều lý thuyết khác nhau, không theo
một phương thức nhất định nào. Các nước khác nhau thì phương thúc thực
hiện trong ngành công tác xã hội cũng khác nhau.
Ở Mỹ, cũng như nhiều ngành khoa học khác, công tác xã hội sử
dụng một số lý thuyết khoa học về xã hội, về sự phát triển con người, về
các hành vi, về giao tiếp ứng xử giữa con người với nhau. Chẳng hạn:
trong các lý thuyết về con người , các nhà công tác xã hội thường sử dụng
những lý thuyết trong tâm lý học như: thuyết hiện sinh, thuyết phát triển
con người, thuyết giao tiếp xã hội, thuyết hệ thống…
Trong quá trình phát triển công tác xã hội, mỗi lý thuyết đều có
những mảng được những nhà làm công tác xã hội quan tâm và nghiên cứu
tạo thành các phương thức thực hành của công tác xã hội. Tuy nhiên trong
số những lý thuyết đó, có một số lý thuyết không thể không nói tới đó là:
Lý thuyết sinh thái học (Ecologycal Theory), lý thuyết hành động xã hội,
lý thuyết vị trí, vai trò xã hội và một số kiến thức cơ bản về sự phát triển
con người như các nhu cầu cơ baen về sự phát triển cin người như các nhu
cầu căn bản của con người, quá trình phát triển con người, rối nhiễu tâm
trí.

I.1. Lý thuyết phân tâm học về cấu trúc của nhân cách
21
Lí thuyết phân tâm học do S.Freud (1856-1939) sáng lập. Lý thuyết này
nhấn mạnh đến hành vi xuất phát từ những động thái (suy nghĩ, tình cảm),
những tương tác trong ý thức và sau này là những cách thức mà ý trí thúc
đẩy hành vi của con người. Ở đây, ý thức, hành vi đều ảnh hưởng và bị ảnh
hưởng bởi môi trường xã hội. Đây là một cách nhìn nhiều chiều và mang
tính biện chứng. Yếu tố “dynamic” (động năng) được bổ sung vào psycho-
analyis. Vì thế, thuyết phân tâm học phát triển và trở thành thuyết động năng
tâm lý (psycho dynamic).Nó được coi là lí thuyết nền tảng, then chốt trong
Công tác xã hội nhằm giúp nhân viên xã hội vận dụng để lí giải những hiện
tượng thường gặp khi làm việc với thân chủ.
Lí thuyết phân tâm học có 3 phần- lí thuyết về sự phát triển con người,
lí thuyết về nhân cách và tâm lí học nhân cách khác thường và lí thuyết về
cách điều trị với 2 tư tưởng cơ bản quan trọng làm cơ sở cho lí thuyết trên:
Quyết định luận siêu linh (hành động, hành vi xuất phát từ các quá trình tư
duy của con người) và Cái vô thức (hành động tư duy, tinh thần còn ẩn giấu)
Lí thuyết về sự phát triển con người cho rằng trẻ em trải qua các giai
đoạn phát triển. Ở mỗi giai đoạn sẽ có những hành vi đặc thù phù hợp với
tâm sinh lí của con người trong từng giai đoạn ấy. Trong từng giai đoạn
hành vi của con người sẽ có sự kế thừa những trải nghiệm về mặt hành vi và
nhận thức mà mỗi người có được trong giai đoạn trước.Trong từng giai đoạn
khác nhau, sự chú ý của con người sẽ hướng đến những nhu cầu khác nhau.
Theo lí thuyết nhân cách, con người là phức hợp của các xung năng
hình thành cái ấy (“cái đó”) thúc đẩy con người hoạt động thoả mãn nhu cầu.
Sự phát triển của bản ngã là bước tiếp theo sau hoạt động của cái ấy. Cái tôi
điều khiển cái ấy. Cái siêu tôi phát triển những nguyên tắc đạo đức để chỉ
dẫn cái tôi. Lí thuyết cũng chỉ ra rằng những đặc điểm quan trọng của nhân
cách là cách thức cái tôi điều khiển những xung đột, cách thức nhu cầu về
cái tôi, cái siêu tôi tìm cách điều khiển cái ấy trong những vấn đề xã hội đã

tạo ra xung đột nhiều hơn như thế nào.Sự lo lắng chính là kết quả từ những
22
xung đột đó. Cái tôi giải toả sự lo lắng bằng cách áp dụng cơ chế phòng vệ
đa dạng như: sự dồn nén, trấn áp, phóng chiếu, thăng hoa, duy lí hoá
Ưu điểm: + Là cơ sở để ra đời của nhiều lý thuyết khác như thuyết nhận thức
+ Quan tâm nhiều đến vấn đề xúc cảm- cơ sở để xuất phát hành vi. Từ
đó ta óc thể nhận biết hành vi của thân chủ.
Hạn chế: + Chưa nhận rõ các nguyên nhân từ môi trường, hoàn cảnh tác động
đến hành vi của cá nhân.
+ Nhấn mạnh đến trật tự xã hội, nhằm giải quyết những hậu quả xã
hội, những vấn đề của cá nhân mà không hướng đến sự thay đổi
làm biến đổi nó (transfomation).
Phương pháp tiếp cận các vấn đề trong phân tâm học của Freud và sau
này là Anna Freud, Hartmanddax là nền tảng cho việc thực hành công tác xã
hội hoàn thiện và phát triển. Phân tâm học có những ảnh hưởng khá phức tạp
và gián tiếp đến công tác xã hội qua một số khía cạnh sau:
• Nhiều tư tưởng của Freud thể hiện qua văn hoá, từ đó áp dụng trực
tiếp vào CTXH.
• Tư tưởng tâm lí động học trong phân tâm học là lí thuyết kiến giải
mạnh đầu tiên trong CTXH.
• Ảnh hưởng liệu pháp phân tâm học làm nảy sinh cách trị liệu thoáng,
cởi mở, lắng nghe nhằm kiếm tìm cách lí giải và hiểu thấu nhân cách.
• Nhiều thuật ngữ như: cái vô thức, sự thấu cảm, sự hung hăng, xung
đột, sự lo âu, những quan hệ mẫu tử, sự chuyển dịch tình cảm xuôi :
được nhân viên trị liệu sử dụng nhiều và thường xuyên trong CTXH.
• Nhiều quan điểm của Freud được sử dụng để trị liệu: bệnh tâm thần,
hành vi có vấn đề, mối quan hệ thời thơ ấu và thời trẻ cũng như tình
trạng bị tước bỏ tình mẫu tử trong Công tác xã hội
Đại diện cho những người sử dụng lý thuyết phân tâm học về cấu trúc
nhân cách vào can thiệp trong CTXH là Bowlby (1951), Rutter (1981) với

nghiên cứu về quan hệ mẹ - con (việc tước bỏ tình mẫu tử); Salzberger-
23
Wittenberg (1970), Parkes (1972), C.Smith ( 1982) với nghiên cứu về việc
mất người thân bằng những phương pháp khác nhau như: “những màn
hình trống”, “dịch chuyển”.
I. 2. Thuyết hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một phong trào tiến bộ phát xuất từ Pháp và Công
tác xã hội cũng chịu ảnh hưởng từ thuyết này. Những ý tưởng chính yếu:
• Con người không chỉ là một thực thể tồn tại mà còn có khả năng ý
thức ý thức về sự tồn tại của mình và ý nghĩa về sự tồn tại ấy.
• Nhấn mạnh đến khả năng của các cá nhân nhằm đạt được quyền lực
kiểm soát về cuộc sống của mình.
• Cá nhân được chấp nhận như “chủ thể”, “khách thể” ( họ hành động
theo, bị ảnh hưởng bởi môi trường).
• Nhấn mạnh đến việc con người sẽ thay đổi như thế nào để hướng tới
xã hội tốt đẹp hơn.
• Hướng đến tìm kiếm việc tái tạo toàn bộ tổ chức xã hội, tái tạo “xã hội
hoá”. Vì thế, con người tự do dựa vào nhu cầu và mong muốn của
mình để tham gia vào một tiến trình tái tạo liên tục của xã hội.
• Nhấn mạnh đến giá trị về “chính thể luận”. Xem xét các cá nhân và
các hệ thống xã hội như một tổng thể.
• Tồn tại trong mỗi con người là một quá trình 2 mặt: mặt động và mặt
tĩnh. Để hiểu được phải có một quá trình tìm hiểu, quan sát, tưởng
tượng và tư duy về những khía cạnh tĩnh tại và năng động của người
khác trong bối cảnh sống hiện tại của người ấy. (phải đặt một người
khác vào cuộc sống của họ để tư duy).
Nội dung của thuyết hiện sinh gồm 2 nội dung chính: Sự tồn tại của con
người và bản chất xã hội của con người.
Sự tồn tại của con người:
+ Thuyết hiện sinh phản đối mọi sự kỳ vọng, ưu tiên về việc con người

hoặc xã hội sống ra sao.
24
+ Thuyết hiện sinh hướng sự chú ý của mình đến hiện tại, những gì đang
diễn ra có ảnh hưởng như thế nào đến hành vi của con người hiện tại.
+ Đề cao tính chủ động của cá nhân: Cá nhân tự do hành động theo mục
tiêu mà tự bản thân họ đặt ra và mong muốn.
+ Cá nhân có thể thông qua tự do của minh nhằm kiến tạo, xác định
chính minh -> hình thành nhân cách, cấu trúc xã hội. Ở đây sự tự do
không phải là mình được phép làm bất kỳ điều gì mình muốn mà là
quyền được sử dụng có ý thức và trách nhiệm. Điều này có liên quan
đến việc thực hiện chức năng xã hội của chính cá nhân đó.
Bản chất xã hội của con người:.
+ Mỗi con người trong xã hội đều chịu những áp lực khác nhau, có
những mục đích khác nhau, vì thế có những hành động khac nhau để
đạt được mục đích
+ Cá nhân thông qua sự tự do của mình để kiến tạo và xác định về chính
bản thân và nhân cách riêng cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội, hoàn
cảnh sống trong môi trường riêng của mình.
+ Trong xã hội, mỗi cá nhân chịu sự chi phối, tác động của những yếu tố
như:. sự kỳ vọng của xã hội ( những cái nhãn mà xã hội gán cho). Cái
nhãn này có thể phù hợp hoặc không phù hợp với từng người. Vì thế
nó có tác động tới hành động tích cực hoặc tiêu cực của cá nhân trong
việc thực hiện mục tiêu. Ở đây các cá nhân tự do hành động nhưng
không tự do từ trách nhiệm của mình Đó là thực tế của “sự tồn tại”
Một khia cạnh quan trọng khác về các quy điều đạo đức hiện sinh là một
giá trị về sự cam kết đối với sự đoàn kết với những cá nhân khác. Ở đây, tư
tưởng hiện sinh nhấn mạnh đến giá trị về “chính thể luận”, xem xét các cá
nhân và các hệ thống xã hội là một tổng thể. Quan điểm tổng thể nhấn mạnh
đến việc cố gắng tạo dựng được một hình thức tổng hợp về cách hiểu của
chúng ta về các tình huống xã hội và những câu chuyện lịch sử của họ.

Đại diện cho những người sử dụng thuyết hiện sinh vào các biện pháp
can thiệp trong CTXH là : Thompson, Rollo Mayo
25

×