Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.45 KB, 17 trang )

Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
.ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
GIỚI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Giảng viên: Nguyễn Thị Minh Hiền
Đề tài:
"Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn"
Phần I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong ¼ thế kỷ qua, các quốc gia trên toàn thế giới đã không ngừng cải
thiện vấn đề bất bình đẳng giới. Phụ nữ đã được hưởng những lợi ích về quyền,
về học hành, sức khỏe, việc làm và đời sống, thậm chí nhiều quốc gia còn bảo
đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ theo luật pháp trong những lĩnh vực như sở
hữu tài sản, thừa kế, hôn nhân. Tổng cộng có 136 nước hiện nay đã quy định
công khai bảo vệ quyền bình đẳng giữa mọi công dân và chống phân biệt đối
xử nam nữ trong hiến pháp.
Tuy nhiên, những tiến bộ trên không phải dễ dàng mà có. Các thành quả
cũng không đến một cách đồng đều ở mọi nước hay đối với mọi phụ nữ, cũng
như trên mọi bình diện của vấn đề bình đẳng giới. Trên thực tế, bất bình đẳng
vẫn tồn tại dai dẳng đối với phụ nữ trong nhiều lĩnh vực như những thiệt thòi
về y tế, bất bình đẳng trong sở hữu tài sản, bất bình đẳng trong hoạt động kinh
tế, bất bình đẳng trong thu nhập, bất bình đẳng trong trách nhiệm công việc
nhà, chăm sóc gia đình, bất bình đẳng trong quyết định các công việc gia
đình… Ở khắp mọi nơi trên thế giới, phụ nữ vẫn phải dành nhiều thời gian mỗi
ngày để chăm sóc gia đình và làm việc nhà hơn người chồng: chênh lệch thời
gian làm việc nhà dao động từ 1 đến 3 tiếng, thời gian chăm sóc gia đình (con
cái, cha mẹ già, người bệnh) dao động từ 2 đến 10 lần, và thời gian tham gia
các hoạt động thị trường thấp hơn nam giới từ 1 đến 4 tiếng. Thậm chí ngay cả
khi phụ nữ có nhiều thời gian làm việc thị trường hơn người chồng, họ vẫn phải
chịu trách nhiệm chính cho việc chăm sóc gia đình, làm việc nhà. Và ở nhiều
nơi, phụ nữ ít được tham gia vào quá trình ra quyết định trong gia đình, trong
cộng đồng và trong xã hội hơn nam giới. Việc nữ giới có được tham gia vào


Page
1
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
quá trình đưa ra quyết định hay không là yếu tố quan trọng thể hiện vai trò của
người phụ nữ.
Tại Việt Nam, sự phát triển của xã hội đã làm vai trò và vị trí của người
phụ nữ được nâng lên đáng kể. Phụ nữ đã có quyền bình đẳng so với nam giới.
Họ được tự do học hành, được tham gia vào các hoạt động của xã hội theo khả
năng của mình, có được quyền bỏ phiếu, ứng cử… Tuy nhiên, các yếu tố
truyền thống, đặc biệt là tư tưởng nho giáo vẫn còn là một nhân tố đáng kể tác
động trực tiếp đến quan niệm và hành vi ứng xử của người dân trong xã hội.
Các chuẩn mực xã hội và những lễ giáo phong kiến khiến cho người phụ nữ
luôn bị ràng buộc trong gia đình, rơi vào địa vị phụ thuộc, luôn sống bó hẹp
trong “tam tòng tứ đức”. Họ được xem là có nghĩa vụ lao động cực nhọc, thức
khuya dậy sớm, không có tiếng nói trong gia đình, không được tham gia vào
các công việc xã hội. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” và tư tưởng coi thường
người phụ nữ vẫn còn đang tồn tại dưới nhiều biến thái khác nhau. Chế độ gia
trưởng và sự bất bình đẳng thường là những nguyên nhân dẫn đến sự phụ thuộc
trong cuộc sống gia đình của người phụ nữ. Định kiến hẹp hòi của xã hội đang
bao trùm lên người phụ nữ, gán cho người phụ nữ vai trò nội trợ như là một
biểu trưng chung của người phụ nữ, khiến họ không thể tách rời khỏi gia đình,
khỏi vai trò nội trợ của mình để tham gia hoạt động xã hội trong khi họ còn
tham gia vào công việc và quan hệ xã hội rộng lớn hơn.
Chính vì vậy, trong khi xem xét các khía cạnh liên quan đến bình đẳng
giới, chúng ta không thể không nghiên cứu sự khác biệt giới trong phân công
lao động gia đình, cụ thể là sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong các
hoạt động công việc khác nhau của gia đình như công việc nội trợ, chăm sóc và
giáo dục con cái, quyền quyết định chính các công việc gia đình… xem trong
gia đình phụ nữ và nam giới ai làm gì? Ai có gì? Ai được gì? Có sự bất bình
đẳng trong phân công lao động không?

Để góp phần làm rõ những vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài “Tương
quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn” (Nghiên cứu trường
hợp tại xã Tân Kỳ, Huyện Tứ Kỳ, Tỉnh Hải Dương) .Từ đó đề ra những khuyến
Page
2
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
nghị và giải pháp để nâng cao hơn nữa vai trò của người phụ nữ, phát huy hết
tiềm năng của họ, góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phát triển công
bằng và văn minh.
Sở dĩ chúng tôi chọn xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương để nghiên
cứu vì xã Tân Kỳ là một xã thuần nông với hơn 70% số hộ dân sinh sống bằng
nghề nông. Tuy nhiên hiện nay, thay vì làm ruộng, người nông dân đi làm công
nhân cho các công ty gần nhà, đi xuất khẩu lao động… Mặc dù quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đã làm thay đổi ít nhiều đến vùng nông thôn này,
nhưng sự phân công lao động trong gia đình vẫn bị ảnh hưởng bởi những quan
niệm truyền thống.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng tương quan giới trong phân công lao động gia đình ở
nông thôn.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Mô tả thực trạng phân công lao động trong gia đình ở nông thôn, vai trò
quyết định của mỗi giới trên địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt tìm hiểu mức độ
tham gia của người chồng vào công việc nội trợ của gia đình.
- Tìm hiểu nguyên nhân của sự phân công lao động gia đình trong mối
quan hệ giữa vợ và chồng.
- Đánh giá, kết luận và đưa ra một số khuyến nghị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tương quan giới trong phân công lao động gia đình ở nông thôn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài chủ yếu nghiên cứu về thực trạng phân công
lao động theo giới trong gia đình nông thôn, mà cụ thể là trong các công việc
gia đình, tại xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, qua đó tìm hiểu nguyên nhân của sự
phân công lao động trong mối quan hệ giữa vợ và chồng, sự phân công lao
động trong các gia đình nông thôn có ảnh hưởng như thế nào đến việc bình
đẳng giới…trên cơ sở đó đánh giá và đưa ra khuyến nghị.
- Phạm vi không gian: Xã Tân Kỳ - Huyện Tứ Kỳ - tỉnh Hải Dương.
4. Khung phân tích
Page
3
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
5. Ý nghĩa của đề tài:
- Làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội trong việc vận dụng vào nghiên cứu
các vấn đề về sự phân công lao động trong gia đình nảy sinh trong thực
tiễn xã hội. Đóng góp vào cơ sở lý luận của các chuyên ngành xã hội
liên quan đến gia đình, giới… đặc biệt là trong việc nhấn mạnh mối
tương quan giữa vị trí, vai trò của nam giới và nữ giới trong sự phân
công lao động, từ đó giúp phân tích, nhìn nhận, lý giải các vấn đề về
giới, nhất là sự khác biệt giới trong việc phân công lao động trong gia
đình.
- Cung cấp thêm những kết quả nghiên cứu cần thiết để từ đó nhìn nhận
vấn đề Phân công lao động trong gia đình một cách khách quan nhất và
từ đó đề ra được các biện pháp nhằm đảm bảo vai trò giới, bình đẳng
giới trong phân công lao động trong gia đình ở xã Tân Kỳ - huyện Tứ
Kỳ - tỉnh Hải Dương.
Tương quan giới trong phân
công lao động gia đình
Phân công công việc
trong gia đình

Quyền quyết định
trong gia đình
Chăm sóc các thành
viên
Giáo dục con cái
Công việc nội trợ
Các công việc quan
trọng
Đối nội, đối ngoại
Các công việc của
con cái
Page
4
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
Phần II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái niệm gia đình :
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về gia đình:
Theo Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng trong xã hội học – NXB Đại
học quốc gia Hà Nội thì “Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã
hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt,
trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của các thành viên
cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người”
Theo G.P Mendo nhà xã hội học người Mỹ trong tác phẩm “cấu trúc xã
hội” năm 1949 thì cho rằng: “Gia đình là một nhóm xã hội đặc trưng, là cùng
cư trú, hợp tác và tái sản xuất kinh tế, nhóm xã hội này bao gồm : người lớn
của cả hai giới và ít nhất trong đó có quan hệ tính dục với nhau được xã hội tán
thành, có một con hoặc nhiều con cái, có thể có con nuôi”.
Theo G.P. Murdork – nhà xã hội học người Mỹ: “Gia đình là một nhóm

xã hội gồm hai hay nhiều người gắn bó với nhau được xã hội tán thành, có một
hay nhiều con cái do họ đẻ ra hoặc nhận con nuôi” – Trích Lê Thái Thị Băng
Tâm – tập bài giảng XHH gia đình.
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về gia đình, nhưng có thể hiểu
theo cách chung nhất thì “Gia đình là một dạng đặc biệt của thiết chế xã hội,
hình thành trên cơ sở các mối quan hệ con người, quan hệ huyết thống và trong
trường hợp đặc biệt có thể không có quan hệ máu mủ nhưng lại có quan hệ về
mặt tình cảm hoặc nghĩa vụ, vừa đáp ứng nhu cầu riêng tư của họ, vừa nhằm
làm thoả mãn những nhu cầu của xã hội và tái sản xuất dân cư theo cả nghĩa
thể xác và tinh thần”.
1.2. Khái niệm giới và vai trò giới:
Theo Báo cáo của Ngân Hàng Thế giới, thì Giới là một thuật ngữ để chỉ
vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng liên quan đến nam và
Page
5
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
nữ. Phụ nữ và nam giới khác nhau về mặt sinh học – nhưng mọi văn hoá đều lý
giải và qui định chi tiết những khác biệt sinh học vốn có đó thành một hệ thống
những kỳ vọng xã hội về những hành vi và hoạt động được coi là thích hợp.
Tuy những kỳ vọng trong các xã hội khác nhau thì không giống nhau nhưng
vẫn có điểm tương đồng nổi bật.
Khái niệm giới chỉ mối quan hệ và tương tác giữa địa vị xã hội của phụ
nữ và nam giới trong bối cảnh xã hội cụ thể. Khi nói đến giới là nói đến các
điều kiện và yếu tố xã hội quy định vị trí và hành vi xã hội của mỗi giới trong
một hoàn cảnh xã hội cụ thể. Khác với giới tính, giới là sản phẩm của xã hội,
do học hỏi mà có. Giới thay đổi theo thời gian qua các giai đoạn, thang giá trị
thay đổi, mô hình ứng xử giới khác nhau. Sự khác biệt về giới nam và nữ là
khác nhau tùy thuộc vào mỗi quốc gia dân tộc và các điều kiện kinh tế - chính
trị - xã hội - văn hoá cụ thể. Vì hệ giá trị ở mỗi quốc gia là khác nhau nên nó
tác động đến sự học hỏi giữa con gái và con trai.

Hiện nay, thuật ngữ giới đã vượt qua cả ý nghĩa ban đầu của nó. Ngày
nay nó không dùng để phân biệt giới tính đàn ông, đàn bà mà nó hàm chứa
những quan niệm xã hội về vai trò, vị thế và các giá trị của mỗi giới tính mà
cộng đồng hay xã hội coi là phù hợp với giới tính này hoặc giới tính khác. Ý
nghĩa này trước đây được biểu hiện bằng tập hợp từ các mối quan hệ xã hội của
giới, sau đó từ “Giới” được dùng để gọi tắt. Các mối quan hệ của giới tìm cách
giải thích sự bất bình đẳng trong mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới về vai
trò của mỗi giới tính trong việc phân chia quyền lực, ra quyết định và phân
công lao động cả trong phạm vi hộ gia đình cũng như trong quy mô xã hội nói
chung. Định nghĩa này hướng chúng ta chú ý đến các đặc điểm cần thiết của
quá trình xã hội hoá; cảm nhận của chúng ta về vai trò, giá trị và hành vi trên
tất cả là mối quan hệ tương tác thích hợp giữa nam giới và phụ nữ.
“Vai trò giới” là một khái niệm được sử dụng như là cách thức tổ chức
hành vi của con người trong một ý nghĩa tổng thể. Nó ứng xử như một cơ chế
để hiểu được những cách thức mà ở đó những trông đợi của xã hội, những hành
động được phản ánh, những khuôn mẫu chung về những hành vi được trông
Page
6
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
đợi. Trong bối cảnh về sự hiểu biết các quan hệ giới sẽ dẫn tới sự xác định các
vai trò của nữ giới và nam giới. Những vai trò này hướng dẫn các hành vi của
hai giới được xem như là phù hợp với những mong đợi của xã hội. Khi nói đến
giới là nói đến các điều kiện và yếu tố xã hội quy định vị trí và hành vi xã hội
của mỗi giới trong một hoàn cảnh cụ thể. Chính vì bị quy định bởi các yếu tố
xã hội cho nên vị trí, vai trò và hành vi của giới không phải là bất biến mà luôn
thay đổi khi các điều kiên quy định thay đổi.
1.3. Khái niệm lao động:
Lao động là một thiết chế xã hội trong đó hoạt động con người được
định hướng, được tổ chức, sắp xếp nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu
cầu cá nhân, của nhóm và của xã hội. (Lê Ngọc Hùng – tập bài giảng XHH Lao

Động). Trong đề tài này “lao động” được nhìn nhận trong sự liên quan với
quan hệ giới trong gia đình. Nó là hoạt động tạo nên sự phụ thuộc và rằng buộc
lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
1.4. Khái niệm phân công lao động và phân công lao động theo giới:
Theo quan niệm xã hội học do August Comte khởi xướng “Phân công
lao động là sự chuyên môn hoá nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng
ổn định và phát triển xã hội, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và
trật tự xã hội. Phân công lao động không đơn thuần là sự chuyên môn hoá lao
động mà thực chất là quá trình gắn liền với sự phân hoá xã hội, phân tầng xã
hội và bất bình đẳng xã hội”.
Trong tác phẩm “Sự phân công lao động trong xã hội”(1893)
E.Durkheim đã chỉ ra rằng phân công lao động không chỉ có ý nghĩa thuần tuý
kinh tế, để làm giàu và nâng cao năng suất, hiệu quả lao động mà phân công
lao động còn tạo ra sự đoàn kết xã hội, sự hội nhập xã hội kiểu mới trong xã
hội hiện đại. Sự phụ thuộc lẫn nhau cùng với các trách nhiệm, nghĩa vụ được
chia sẻ do sự phân công lao động đã tạo ra gắn kết các cá nhân và các nhóm xã
hội lại với nhau.
Sự khác biệt giữa nam và nữ dẫn đến sự phân công lao động giữa nam
và nữ trong gia đình và xã hội. “Phân công lao động theo giới” như Mác-
Page
7
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
Ăngghen đã nhận xét trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu
và nhà nước”, “sự phân công lao động” là hoàn toàn có tính chất tự nhiên, chỉ
tồn tại giữa nam và nữ. Lúc đầu đó chỉ là sự phân công lao động trong hành vi
tình dục, về sau sự phân công lao động chuyển thành sự phân chia phạm vi
hoạt động theo giới một cách tự nhiên và đã dẫn đến sự sở hữu có tính đặc
trưng theo giới, mỗi giới làm chủ trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình.
“Phân công lao động trong gia đình” là sự đảm nhiệm các công việc gia đình
của vợ và chồng, và các thành viên khác trong gia đình nhằm thực hiện những

chức năng của gia đình trong chăm sóc sức khoẻ, giáo dục…đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển ổn định của gia đình. Phân công lao động nam - nữ là yếu
tố hình thành vai trò giới trong gia đình và xã hội. Phụ nữ có vai trò biểu đạt
tình cảm, nam giới có vai trò – nhiệm vụ (còn gọi là vai trò – công cụ) tạo ra
thu nhập. Theo thuyết chức năng, lao động của phụ nữ có chức năng tình cảm
và lao động của nam giới có chức năng tư duy và hành động giải quyết nhiệm
vụ. Điều đáng chú ý là sự phân công lao động theo giới không đơn thuần dựa
vào sự khác biệt về các đặc điểm sinh học giữa nam và nữ mà luôn gắn liền với
thói quen, suy nghĩ và quan điểm về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã
hội. Nhằm biện hộ cho sự bất bình đẳng nam nữ và bào chữa cho tư tưởng
“trọng nam khinh nữ”, một số người gán cho phụ nữ những “thiên chức” mà
nam giới hoàn toàn có thể làm tốt không kém gì họ, chẳng hạn công việc nội
trợ, chăm sóc, nuôi dưỡng con cái trong gia đình.
Hiện nay, phân công lao động giới là trong đó có sự khác nhau trong
việc hưởng thụ những thành quả của hai giới. Sự phân biệt đối xử với phụ nữ ở
đây có nghĩa là phụ nữ phải gánh chịu hầu hết những gánh nặng lao động, gánh
chịu những lao động không được trả công, nhưng nam giới lại được hưởng hầu
hết thu nhập và phần thưởng từ lao động. Ở nhiều nước mô hình rõ ràng nhất
trong phân chia lao động theo giới bất bình đẳng là phụ nữ bị giao cho làm
phần lớn các công việc gia đình mà không được trả tiền và sản xuất các loại
hoa mầu không được tính thành tiền, trong khi đó nam giới là chủ lực trong
Page
8
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
việc sản xuất các loại vụ mùa được tính thành tiền và các công việc được trả
lương.
2. Cơ sở thực tiễn
Cho đến nay không ít đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước đã nghiên
cứu về các vấn đề gia đình, và trong đó cũng có không ít những nghiên cứu
nhắc đến vấn đề phân công lao động trong gia đình cũng như vai trò khác nhau

của phụ nữ và nam giới trong gia đình. Việc phân công lao động trong gia đình
từ xưa tới nay đã ít nhiều có sự thay đổi tuy nhiên phần thiệt thòi vẫn thuộc về
những người phụ nữ, đây cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự
phát triển trong xã hội nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng.
Các nghiên cứu đã nêu các nguyên nhân nhiều chiều, quan niệm về sự
phân công lao động trong gia đình cũng có nhiều sự khác biệt. Phân công lao
động trong gia đình là một trong những vấn đề rất rộng, cả về phạm vi nghiên
cứu cũng như nội dung và đối tượng nghiên cứu. Để tìm hiểu rõ hơn về lịch sử
các nghiên cứu về phân công lao động trong gia đình nông thôn thì nhóm
nghiên cứu của chúng tôi đã tìm hiểu một số đề tài có liên quan như sau:
GS Đặng Cảnh Khanh – Lê Thị Quý – “Gia đình học” (NXB Lý Luận
Chính Trị, Hà Nội 2007) đã nghiên cứu một số khía cạnh về gia đình: vị trí vai
trò, chức năng của gia đình hiện nay. Những đặc trưng của gia đình Việt Nam
truyền thống, hương ước, cộng đồng làng xã và vấn đề gia đình trong xã hội
truyền thống… Giới và gia đình, sự phân công lao động trong gia đình.
GS Lê Thi - “Phân công lao động và quyền quyết định công việc gia
đình nghiên cứu tại Hưng Yên và Hà Nội” (Tạp chí gia đình và giới, số 5,2009)
đã chỉ ra rằng sự phân công lao động trong gia đình chủ yếu không có một định
khung rõ ràng mà chủ yếu là do hai vợ chồng tự thỏa thuận ngay từ khi mới kết
hôn và được duy trì cho tới tận về sau và chủ yếu người vợ đều nghe theo mọi
sự sắp đặt của người chồng để thể hiện sự tôn trọng và duy trì sự yên ổn trong
gia đình và cũng như GS. Lê Thi thì quyền quyết định công việc lớn trong gia
đình thì đều do hai vợ chồng cùng bàn bạc và đưa ra quyết định cho kịp thời
Page
9
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
tuy nhiên quyền quyết định chính vẫn thuộc về người chồng – người được xem
là có phẩm chất làm trụ cột trong một gia đình.
Tác giả Trần Thị Cẩm Nhung - “Quyền lực của vợ và chồng trong việc
quyết định các công việc của gia đình” (Tạp chí gia đình và giới, số 4, 2009)

đã khai thác khía cạnh về quyền quyết định các cộng việc của gia đình và cán
cân quyền lực giữa vợ và chồng trong gia đình có mối quan hệ chặt chẽ với với
sự phân bổ nguồn lực kinh tế xã hội giữa họ. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra lí do
có sự chênh lệch về quyền quyết định trong gia đình là một số chỉ báo về độ
tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, uy tín đối với con cái và thu nhập của
người vợ và người chồng.
Tác giả Phùng Thị Kim Anh - “ Biển đổi mô hình phân công lao động
nội trợ trong gia đình nông thôn” (Tạp chí Gia đình và giới, số 2,2010) chỉ ra
rằng sự chia sẻ công việc nội trợ, thời gian kết hôn càng tăng thì khối lượng
công việc của người phụ nữ sẽ ngày càng giảm xuống. Tuy nhiên tác giả vẫn
khẳng định những công việc nội trợ ấy chủ yếu vẫn do người vợ, chị em gái
trong gia đình, những người con trai và người chồng chỉ có vai trò hỗ trợ.
Lê Thái Thị Băng Tâm - Luận án thạc sĩ “Sự phân công lao động trong
gia đình nông thôn Việt Nam”đã chỉ ra vai trò chủ yếu của nam giới và nữ giới
trong công việc, trong sự giáo dục con cái…ở các gia đình nông thôn.
Tác giả Vũ Thị Thanh - “Bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng trong gia
đình nông thôn hiện nay” (nghiên cứu gia đình và giới số 1, 2009) đã xem xét
sự bất bình đẳng giữa hai góc độ là phân công lao động giữa vợ và chồng và
quyền ra quyết định trong gia đình. Tác giả cho rằng khoảng cách về mức độ
thực hiện các công việc trong gia đình là rất lớn cũng như mức độ bất bình
đẳng giữa vợ và chồng trong việc đưa ra quyết định những công việc lớn, quan
trọng trong gia đình. Bài viết khẳng định ảnh hưởng của mô hình sống, số con
trong gia đình và nghề nghiệp của vợ/chồng tới tình trạng bất bình đẳng giới ở
nông thôn Việt Nam.
Cũng như những nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu của chúng tôi muốn
tìm hiểu một cách rõ hơn về sự phân công lao động cũng như quyền quyết định
Page
10
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
trong gia đình nông thôn tại xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Tuy

nhiên, chúng tôi đi sâu hơn để tìm ra những lý giải của người dân nơi đây về
vấn đề này và nhận thức của họ về vấn đề bình đẳng giới. Từ đó, đưa ra những
khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữ nông thôn.
Page
11
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
Phần III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
1.1. Đặc điểm tự nhiên
- Xã Tân Kỳ, Huyện Tứ Kỳ, Hải Dương là khu vực đồng bằng, cách thị trấn Tứ
Kỳ 7km về phía Đông Nam. Phía Đông Nam giáp ranh với xã Quang Phục.
Phía Tây giáp với Ngọc Kỳ. Phía Nam giáp Đại Hợp. Phía Bắc giáp xã Dân
Chủ.
- Xã có 2 thôn là thôn Nghi khê và Ngọc Lâm.
1.2. Điều kiện dân số:
- Dân số bình quân trên toàn xã năm (2011) là 8734 người với 2697 hộ gia đình
- Tốc độ tăng dân số của xã trong năm qua là 1,54% khá ổn định.
- Dân cư ở đây có đến 70% là làm nông nghiệp, và số còn lại chủ yếu là làm
công nhân tại các khu công nghiệp lân cận và đi xuất khẩu lao động
Từ đặc điểm tự nhiên và điều kiện dân số như vậy, có thể thấy xã Tân
Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương là địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi và có
nguồn lao động dồi dào, thêm vào đó nghề nghiệp của người dân nơi đây khá
phong phú. Và từ những đặc điểm này, nhóm muốn nghiên cứu xem ở tại Tân
Kỳ, trong hộ gia đình làm thuần nông, hay hộ gia đình có người làm công nhân,
hay có người đi xuất khẩu… thì việc phân công lao động trong gia đình diễn ra
như thế nào?
2. Phương pháp nghiên cứu:
2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Chúng tôi chọn xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương để nghiên cứu vì
xã Tân Kỳ là một xã thuần nông với hơn 70% số hộ dân sinh sống bằng nghề

nông. Tuy nhiên hiện nay, thay vì làm ruộng, người nông dân đi làm công nhân
cho các công ty gần nhà, đi xuất khẩu lao động… Mặc dù quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đã làm thay đổi ít nhiều đến vùng nông thôn này,
nhưng sự phân công lao động trong gia đình vẫn bị ảnh hưởng bởi những quan
Page
12
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
niệm truyền thống. Như vậy, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu nhóm chúng tôi
chọn địa bàn nghiên cứu tại xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương.
2.2. Phương pháp thu thập số liệu
* Số liệu thứ cấp: Báo cáo có sử dụng một số tài liệu có liên quan tới vấn đề
phân công lao động: tạp chí xã hội học, tạp chí gia đình và giới, các bài báo
cáo,… nhằm bổ sung cho việc thu thập thông tin phục vụ mục tiêu nghiên cứu
của đề tài.
* Số liệu sơ cấp:
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp qua 60 người dân tại các hộ gia
đình ở xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ nhằm mục đích đo đạc các khía cạnh định
lượng về đối tượng nghiên cứu để thu được những thông tin đặc trưng nhất qua
hệ thống những chỉ báo, các số liệu định lượng để nhìn nhận và đánh giá tổng
thể vấn đề nghiên cứu. Số liệu thu được từ 60 bảng hỏi sẽ được xử lí bằng
chương trình SPSS. Mẫu chúng tôi chọn là mẫu ngẫu nhiên đại diện với cơ cấu
mẫu là 50% nam và 50% nữ.
Mã số phiếu:…
PHIẾU PHỎNG VẤN
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình ở nông thôn
Họ và tên:
Giới tính: Nam □ Nữ □ Tuổi: ……
Trình độ học vấn:
Trình độ học vấn (vợ/chồng):…………

I. Phân công công việc trong gia đình:
1. Các công việc trong gia đình sau thường do ai thực hiện?
Stt Công việc Người thực hiện chính
Chồng Vợ Cả 2 Khác
Lao động sản xuất
Dọn dẹp nhà cửa
Giặt giũ
Page
13
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
Đi chợ
Nấu ăn
Mua sắm đồ đạc
Chăm sóc
các thành
Con cái
Người ốm
Giáo dục
con cái
Họp phụ huynh
Giúp con học
Dạy bảo
2. Anh/chị có hài lòng với sự phân công công việc như trên không?
a. Có □
b. Không □
Nếu không, tại sao?

II. Quyền quyết định trong gia đình
1. Anh/chị hãy cho biết, trong gia đình, ai là người quyết định các công
việc sau:

Stt Công việc Vợ Chồng Cả 2
Người
khác
1 Mua đất, làm nhà
2 Làm ăn kinh tế
3 Các khoản chi tiêu lớn
4 Đối nội đối ngoại
5 Con cái
Chọn nghề
Cưới gả
Giải thích:



Người phỏng vấn:
Page
14
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Tham gia trực tiếp khảo sát cùng nhóm nghiên cứu, bên cạnh việc phỏng
vấn bằng bảng hỏi, chúng tôi đồng thời tiến hành phỏng vấn sâu 4 trường hợp
(2 nữ, 2 nam) (2 trẻ, 2 già) nhằm đi sâu vào vấn đề nghiên cứu, đặc biệt muốn
tìm hiểu xem có sự giống/ khác nhau như thế nào giữa giới nam và nữ, giữa
người trẻ và người già trong quan niệm về sự phân công lao động trong gia
đình, cũng như về sự bất bình đẳng giới.
- Phương pháp thảo luận nhóm(6 người) nhằm:
Nhóm nghiên cứu tiến hành phương pháp thảo luận nhóm để thu thập
thông tin, xin ý kiến những người tham gia về những vấn đề mà nhóm nghiên
cứu quan tâm, nghe họ tranh luận và tiến hành ghi chép lại. Mục tiêu của thảo
luận nhóm là: tìm hiểu thực trạng tương quan giới trong phân công lao động

gia đình ở xã Tân Kỳ, tìm ra nguyên nhân, những thuận lợi, khó khăn mà sự
phân công lao động gây nên. Thảo luận nhóm được tiến hành với 2 nội dung
lớn đó là tìm hiểu về sự phân công lao động trong gia đình và quyền quyết định
trong gia đình. Với 2 nội dung này, nhóm dự kiến tiến hành với các hoạt động,
cụ thể như sau:
+ Phân công lao động trong gia đình:
Hoạt động 1:Những công việc trong gia đình thường do ai thực hiện?
Hoạt động 2: Giải thích tại sao những công việc trong gia đình thường do nữ
giới/ nam giới làm nhiều hơn? ( Căn cứ vào kết quả của Hoạt động 1)
Hoạt động 3: Những thuận lợi, khó khăn gặp phải khi người vợ/chồng thực
hiện những công việc trong gia đình
Hoạt động 4: Với thực tế phân công lao động trong gia đình như vậy, có phải
là bất bình đẳng hay không?
Hoạt động 5: Mong muốn thay đổi sự phân công lao động gia đình.
+ Quyền quyết định trong gia đình: Trong gia đình ai là người ra quyết định và
quyết định những công việc gì?
- Phương pháp phân tích tài liệu:
Page
15
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
Đề tài có sử dụng một số tài liệu có liên quan tới vấn đề phân công lao
động: tạp chí gia đình và giới, các bài báo cáo, số liệu thu được từ 60 bảng hỏi
đã được xử lí và một số tài liệu khác có liên quan nhằm bổ sung cho việc thu
thập thông tin phục vụ mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Phần IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Tương quan giới trong phân công công việc gia đình
1.1. Trong công việc nội trợ
1.2. Trong chăm sóc các thành viên
1.3. Trong giáo dục con cái
2. Tương quan giới trong quyền quyết định các công việc gia đình

2.1. Quyền quyết định các công việc quan trọng trong gia đình
2.2 Vấn đề đối nội, đối ngoại
2.3. Quyền ra quyết định chính trong việc định hướng nghề nghiệp và
định hướng hôn nhân cho con cái
Phần V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Page
16
Tương quan giới trong phân công lao động gia đình nông thôn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo phát triển thế giới 2012 – World Bank
2. Trần Thị Cẩm Nhung (2009) , Quyền lực của vợ và chồng trong việc
quyết định các công việc của gia đình, Tạp chí Gia đình và giới (số 4),
31 – 43
3. GS Lê Thi (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội.
4. Phùng Thị Kim Anh (2010), Biến đổi mô hình phân công lao động nội
trợ trong gia đình nông thôn, Tạp chí Gia đình và Giới (số 2), 32 – 45
5. Lê Thị Quý (2011), Xã hội học gia đình, NXB Chính trị - hành chính.
6. Nguyễn Hữu Minh (2008), Khía cạnh giới trong phân công lao động
gia đình, Tạp chí xã hội học (số 4), 44 – 56.
7. Vũ Thị Thanh (2009), Bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng trong gia
đình nông thôn hiện nay, Tạp chí Gia đình và Giới (số 1), 35 – 46
8. GS Đặng Cảnh Khanh & Lê Thị Quý (2009), Gia đình học, NXB Chính
trị - hành chính.
9. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, NXB Đại Học
Quốc Gia Hà Nội.
10.Mai Huy Bích (2009), Giáo trình Xã hội học gia đình, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
Page
17

×