Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Tác động của đẩy mạnh phân công lao động trong công nghiệp, trung tâm công nghiệp ở Hà Tây đến xây dựng khu vực phát triển tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.05 KB, 76 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển CN,TTCN nói chung, đẩy mạnh phân công lao động ở lĩnh vực
này nói riêng là đòi hỏi thờng xuyên trong xây dựng và phát triển kinh tế đất n-
ớc. Quá trình đó tác động to lớn đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội,
trong đó có xây dựng KVPT tỉnh (thành phố) vững chắc.
Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, có nhiều tiềm năng
trong phát triển CN,TTCN và có vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh. Xây
dựng, phát triển Hà Tây về kinh tế xã hội, nhất là củng cố quốc phòng an
ninh, có tầm quan trọng đặc biệt. Trong những năm qua, thực hiện chủ trơng
xây dựng tỉnh (thành phố) thành KVPT vững chắc, ở Hà Tây đã thu đợc nhiều
kết quả quan trọng. Để Hà Tây tiếp tục khẳng định vị trí chiến lợc không chỉ về
kinh tế mà còn về quốc phòng, an ninh cần xây dựng và phát triển tỉnh toàn
diện, trong đó có nâng cao hiệu quả xây dựng KVPT tỉnh vững chắc. Nghiên
cứu làm rõ cơ sở khoa học tác động của việc phát triển CN,TTCN ở Hà Tây đến
xây dựng KVPT tỉnh vững mạnh trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là vấn đề có
tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Song trong phạm vi một luận văn tác giả
chỉ chọn vấn đề Tác động của đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN
ở Hà Tây đến xây dựng KVPT tỉnh làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phân công lao động nói chung, phân công lao động trong CN,TTCN nói
riêng là vấn đề không mới, từ lâu đã thu hút đợc sự quan tâm của các nhà khoa
học, nên đã có khá nhiều công trình đợc công bố đề cập đến các khía cạnh khác
nhau của vấn đề nh :
- Phân công lao động xã hội trong cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa và ảnh hởng của nó tới cung cấp nguồn nhân lực cho quốc phòng ở nớc
ta của Nguyễn Xuân Thờng, luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị Quân sự,
1996.
1
- Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Thành phố Hải Phòng và tác động của nó đến tăng cờng sức mạnh KVPT


thành phố của Phạm Tiến Địa, luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị Quân sự,
2000.
- Phân công lao động xã hội triên địa bàn tỉnh Bắc Giang và tác động của nó
đến bảo đảm nguồn nhân lực cho xây dựng KVPT tỉnh trong giai đoạn hiện nay
của Thân Văn Nhau, luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị Quân sự, 2000.
- Công nghiệp nông thôn Việt Nam, thực trạng và giải pháp phát triển
của Nguyễn Văn Phúc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và tác động của
nó đến củng cố quốc phòng ở nớc ta hiện nay luận án Tiến sỹ kinh tế của
Phạm Anh Tuấn, Học viện Chính trị Quân sự, 2004.
Các công trình trên đã có đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế,
củng cố quốc phòng, song cha có công trình nào đề cập tới sự tác động của đẩy
mạnh phân công lao động trong CN,TTCN đến xây dựng KVPT tỉnh, nhất là
tỉnh có tính đặc thù nh Hà Tây.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
*
Mục đích
Nghiên cứu sự tác động của đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN ở Hà Tây đến xây dựng KVPT tỉnh, từ đó đề xuất yêu cầu và giải
pháp để vừa đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN vừa tăng cờng sức
mạnh KVPT tỉnh.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở khoa học của phân công lao động trong CN,TTCN và xây
dựng KVPT tỉnh Hà Tây.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn tác động của đẩy mạnh phân
công lao động trong CN,TTCN đến xây dựng KVPT tỉnh.
- Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản để vừa đẩy mạnh phân công
2
lao động trong CN,TTCN, vừa tăng cờng sức mạnh KVPT tỉnh.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

* Đối tợng nghiên cứu
Tác động của đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN đến xây
dựng KVPT tỉnh là đối tợng nghiên cứu của đề tài.
* Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn không nghiên cứu phân công lao động nói chung mà chỉ
nghiên cứu đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây tác động
đến xây dựng KVPT tỉnh hiện nay.
- Thời gian khảo sát từ khi tái thành lập tỉnh 1991 đến nay
5. Cơ sở lý luận, phơng pháp luận và phơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
- Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác Lê nin, t tởng Hồ Chí
Minh, đờng lối quan điểm của Đảng về phân công lao động nói chung và phân
công lao động trong CN,TTCN nói riêng.
- Luận văn dựa vào lý luận KVPT của Đảng, Quân đội, các văn bản chỉ
thị, nghị quyết của địa phơng về phát triển sản xuất trong CN,TTCN và về xây
dựng KVPT tỉnh.
* Phơng pháp luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phơng pháp luận Mác xít nh chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phơng pháp nghiên cứu
của kinh tế chính trị Mác Lê nin nh phơng pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, lô gíc kết hợp với lịch sử
6. ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thêm sự tác động của
đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây đến xây dựng KVPT
tỉnh.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy kinh
3
tế chính trị, kinh tế quân sự ở các nhà trờng quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn đợc kết cấu thành 2 chơng (4 tiết) nội dung cụ thể nh sau:
4
Chơng 1
Khu vực phòng thủ tỉnh Hà Tây dới tác động
Của đẩy mạnh phân công lao động trong công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở địa phơng

1.1 phân công lao động trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
khu vực phòng thủ tỉnh Hà Tây - một số vấn đề lý luận cơ bản
1.1.1. Mấy vấn đề lý luận về phân công lao động trong công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp ở Hà Tây
* Phân công lao động trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Hà Tây
CN,TTCN là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế.
Phát triển sản xuất và đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN sẽ góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để có quan niêm đúng về phân công lao động
trong CN,TTCN ở Hà Tây cần làm rõ một số quan niệm có liên quan.
Phân công lao động xã hội là quá trình phân bố lực lợng lao động xã hội
vào các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội Trong đó các ngành kinh tế là trọng
tâm. Phân công lao động xã hội chính là sự chuyên môn hoá sản xuất thành
những ngành nghề khác nhau, là sự tách biệt các loại lao động khác nhau trong
xã hội, trong đó ngời sản xuất tiến hành những hoạt động sản xuất khác loại.
Nền kinh tế quốc dân chia ra thành các ngành, cũng nh các ngành đó lại chia ra
thành các loại và thứ khác nhau. Theo C.Mác trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất của một dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân
công lao động xã hội [ 1.tr 30].
Phân công lao động là tất yếu khách quan bắt nguồn từ nhu cầu cuộc
sống xã hội. Quá trình phân công lao động diễn ra từng bớc theo trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất. Ngợc lại phân công lao động lại có tác dụng thúc
đẩy lực lợng sản xuất phát triển. Đặc biệt, phân công lao động có ý nghĩa to lớn
5

là đòn bẩy mạnh mẽ của sản xuất trớc ngày xuất hiện của sản xuất lớn. V.I. Lê
nin viết : trong nền sản xuất dựa trên cơ sở lao động thủ công, kỹ thuật chỉ có
thể tiến bộ đợc dới hình thức của sự phân công thôi [2.tr.535].
Sự phân công lao động trong xã hội thể hiện sự phân công chung theo
loại sản xuất nh công nghiệp, nông nghiệp và sự phân công riêng phân chia
các loại sản xuất thành những ngành và những phân ngành : công nghiệp nặng,
công nghiệp nhẹ, trồng trọt và ngành chăn nuôi . Ngoài ra còn có sự phân
công theo lãnh thổ, theo các vùng kinh tế. Nh vậy, phân công lao động chính là
sự chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi toàn xã hội, phân công lao động xã
hội trong lịch sử diễn ra theo hai kiểu phân công tự phát và phân công tự giác.
Dới chế độ nguyên thuỷ với đặc điểm là có hình thức phân công lao động giản
đơn nhất, tức là sự phân công tự nhiên, tự phát theo nam và nữ, theo tuổi tác.
Đàn ông thì săn bắt, đàn bà thì hái lợm hoa quả, trong nom việc nhà, ngời già
thì chế tạo công cụ lao động. ăng Ghen viết: lúc đầu chỉ là sự phân công lao
động trong hành vi theo giới tình và về sau là phân công lao động tự hình thành
hoặc (hình thành một cách tự nhiên), do những thiên tính bẩm sinh (nh thể lực
chẳng hạn), do những nhu cầu, do những sự ngẫu nhiên [3.tr.30]. Trong chế độ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, lực lợng sản xuất có sự phát triển nhất
định, phân công lao động cũng từng bớc phát triển. Giai đoạn này có sự phân
chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần, sự phân công lao động thể
hiện đúng tính chất của nó. ăng ghen đã chỉ ra : phân công lao động chỉ trở
thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia lao động vật
chất và lao động tinh thần [4.tr.45]. Tuy nhiên thời kỳ này phân công lao động
chủ yếu vẫn diễn ra hoàn toàn tự phát.
Đến giai đoạn phát triển của CNTB do kết quả của nền sản xuất cơ khí
hoá, nên sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, công nghiệp thực
sự đã tách khỏi nông nghiệp. Giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB, sự phân
công lao động xã hội đã có một bớc phát triển rất lớn, nhng sự phân công đó
6
diễn ra cơ bản vẫn là tự phát. Giai đoạn CNTB độc quyền và độc quyền nhà nớc,

do sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế, nhất là khi nó đã mang tính
chất quốc tế cho nên tính chất xã hội hoá cao của lực lợng sản xuất luôn mâu
thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất TBCN. Nhà nớc t sản đã can thiệp và ngày
càng can thiệp sâu hơn vào quá trình kinh tế nói chung và sự phân công lao
động xã hội nói riêng. Trong thời kỳ này phân công lao động một mặt diễn ra tự
phát theo yêu cầu của các quy luật thị trờng, mặt khác đợc tác động tự giác bởi
các kế hoạch của nhà nớc t sản trong phát triển kinh tế và sử dụng nguồn lao
động.
Trong nền kinh tế XHCN sự phân công lao động giữa hai ngành công
nghiệp và nông nghiệp cũng nh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân đợc diễn ra
một cách tự giác, có tổ chức, có kế hoạch, con ngời thực sự làm chủ quá trình
sản xuất. Dới CNXH sự phân công lao động xã hội đợc kết hợp chặt chẽ
vàthống nhất giữa các cơ sở sản xuất, các địa phơng, các ngành và toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sau khi giai cấp vô sản giành đợc chính quyền,
để phát triển kinh tế xây dựng CNXH bắt buộc phải tiến hành phân công lại lao
động xã hội.
Thực tiễn đã chứng minh, điều kiện của sự phân công lao động xã hội là
sự phát triển của lực lợng sản xuất, phân công lao động xã hội phản ánh trình độ
phát triển của lực lợng sản xuất xã hội. Đến lợt nó, sự phân công lao động lại là
nhân tố phát triển của lực lợng sản xuất. Bởi lẽ, phân công lao động dẫn đến sự
tách biệt các loại lao động khác nhau, tạo điều kiện cho ngời lao động tích luỹ
kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức của họ, từ đó tiếp tục
thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
Phân công lao động xã hội phản ánh trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất xã hội đồng thời mỗi bớc tiến của sự phân công lao động xã hội lại có tác
dụng thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển. Phân công lao động xã hội vừa là kết
quả, vừa là tiền đề của sự phát triển lực lợng sản xuất mà trớc hết là sự phát
7
triển của công cụ lao động. Phân công lao động xã hội thờng bắt đầu từ trong
nông nghiệp rồi sau đó mới lan sang các ngành khác. Quá trình mở rộng phân

công lao động xã hội đồng thời là quá trình phát triển của sản xuất hàng hoá,
phá vỡ dần tính chất tự cấp, tự túc, khép kín của nền sản xuất nhỏ, mở rộng
quan hệ trao đổi, hợp tác ra phạm vi quốc tế. Có hai loại phân công lao động
chủ yếu là trong xã hội và trong xí nghiệp. Phân công lao động xã hội và phân
công lao động trong nội bộ xí nghiệp có liên hệ chặt chẽ với việc chuyên môn
hoá nghề nghiệp của từng ngời.
Từ sự khái quát lý luận về phân công lao động xã hội nói chung ta thấy
sự phân công lao động trong nội bộ xí nghiệp đợc gọi là phân công lao động cá
biệt. C. Mác viết : nếu ngời ta chỉ xét riêng bản thân lao động thôi thì ngời ta
có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn công nghiệp,
nông nghiệp là sự phân công chung, gọi sự phân chia những ngành sản xuất
ấy thành loại và thứ là phân công đặc thù và cuối cùng gọi sự phân công trong
xởng thợ là phân công cá biệt [ . tr510]. Vì vậy, phân công lao động trong
CN,TTCN chính là sự chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi ngành CN,TTCN
nằm trong phạm vi của phân công lao động xã hội nói chung. Trong lịch sử, từ
khi CNTB ra đời đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công lao động xã hội nói chung
và phân công lao động trong CN,TTCN nói riêng. Quá trình đó, sản xuất cơ khí
phát triển làm cho công nghiệp hoàn toàn tách khỏi nông nghiệp và quyết định
sự phân công hơn nữa trong nội bộ những ngành ấy.
Cùng với sự phát triển chung của lực lợng sản xuất xã hội, công nghiệp
đợc chia ra thành nhiều ngành khác nhau, số lợng các ngành cũng tăng lên.
V.I.Lênin đã khái quát : sự chuyên môn hoá lao động xã hội do bản chất của
nó là vô cùng tận, cũng giống nh sự phát triển của kỹ thuật vậy. Muốn nâng cao
đợc năng suất lao động của cong ngời, ví dụ nhằm làm ra một bộ phận nào đó
đợc chuyên môn hoá, trở thành một ngành sản xuất riêng biệt, sản xuất đợc
hàng loạt sản phẩm và vì lẽ đó có thể và cần phải sử dụng máy móc. [ .tr.115].
8
Nh vậy, về mặt lý luận đã chỉ ra khá rõ vấn đề phân công lao động trong
CN,TTCN gắn liền với quá trình phát triển của lực lợng sản xuất, tăng thêm tính
chất xã hội hoá của sản xuất. Ngày nay, quá trình phát triển của lực lợng sản

xuất ở nớc ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH, nhằm đa tới sự thay
đổi kỹ thuật, công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế theo hớng hiện đại. Đồng
thời, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng trong
nớc và quốc tế, nhờ đó mà đẩy mạnh phân công lao động xã hội và củng cố, hoàn
thiện quan hệ sản xuất mới giữ vững định hớng XHCN. Việc đẩy mạnh phân công lao
động trong CN,TTCN không chỉ là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội
mà còn là của quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nớc. Đó là hoạt động nỗ lực, chủ
động của nhà nớc và nhân dân lao động để thúc đẩy quá trình CNH,HĐH và phát
triển kinh tế xã hội đất nớc.
Phân công lao động trong CN,TTCN là quá trình phân bố lực lợng lao
động xã hội vào các ngành sản xuất CN,TTCN, trong đó lấy công nghiệp làm
trọng tâm. Trên thực tế các ngành kinh tế nói chung, ngành CN,TTCN nói riêng
luôn phát triển và biến đổi, cơ cấu ngành CN,TTCN cũng biến đổi không
ngừng. Do đó quá trình phân công lao động trong CN,TTCN cũng không kết
thúc mà là quá trình liên tục. Trong điều kiện nớc ta hiện nay, cùng với quá
trình đẩy mạnh phân công lao động xã hội, và quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hớng CNH,HĐH, việc đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN là một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ xuất phát từ yêu cầu
phát triển các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội mà còn để đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh CNH,HĐH đất nớc, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động tham gia
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nhằm xây dựng thành công CNXH và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Là một nớc nông nghiệp với gần 80 % dân số và hơn 70% lực lợng lao
động sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, vấn đề đặt ra cho nớc ta là phải đẩy
nhanh quá trình phân công lao động xã hội trớc hết là trong nông nghiệp, nông
9
thôn theo hớng CNH,HĐH, đồng thời đẩy mạnh việc phân công lao động trong
CN,TTCN. Song, việc đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN cũng nh
phân công lao động trong nông nghiệp, nông thôn đều chịu sự tác động của môi
trờng tự nhiên, xã hội và vị trí địa lý của mỗi vùng, miền trong nớc. ở những vị

trí địa lý khác nhau việc đẩy mạnh phân công lao động nói chung và phân công
lao động trong CN,TTCN theo hớng CNH,HĐH cũng có sự khác nhau. Khi đẩy
mạnh phân công lao động trong CN,TTCN phải chú ý đến tất cả các nhân tố về
nguồn lực bao gồm : đất đai, tài nguyên, lao động, trình độ t liệu lao động ,
trong đó nhân tố con ngời có ý nghĩa quyết định. Bên cạnh đó, các yếu tố phong
tục, tập quán, tâm lý, truyền thống của một dân tộc, một địa phơng cũng gây
ảnh hởng không ít đến quá trình phân công lao động xã hội và trong lĩnh vực
CN,TTCN.
Trong những năm qua, đặc biệt từ khi đổi mới kinh tế đất nớc, nhờ có đ-
ờng lối, chính sách, pháp luật đúng đắn và có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của
Đảng và Nhà nớc, nhân dân ta đã phát huy cao độ các nhân tố chủ quan, tận
dụng mọi điều kiện khách quan thuận lợi, đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát
triển kinh tế xã hội và đã thu đợc những thành tựu rất to lớn và toàn diện. Cùng
với việc đẩy mạnh phân công lao động xã hội, sự phát triển mạnh mẽ của các
ngành kinh tế nhất là sự phát triển vợt bậc của sản xuất CN,TTCN, cơ cấu lao
động công nghiệp và lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp nớc ta cũng có những biến
đổi lớn. Việc phát triển các ngành công nghiệp dệt may, da, giày, các khu công
nghiệp, khu chế xuất, các công trình xây dựng công nghiệp và giao thông, thuỷ
lợi đã thu hút một l ợng lớn lao động, cả lao động mới và lao động đang làm
việc trong nông nghiệp, nông thôn vào làm việc trong những cơ sở CN,TTCN,
đặc biệt và phổ biến là ở các làng nghề thủ công truyền thống, các cụm, điểm,
khu công nghiệp xây dựng mới. Bên cạnh đó, những năm qua đã diễn ra một
hoạt động có tác động rất lớn đến cơ cấu tổ chức ngành công nghiệp và lao
động ngành công nghiệp đó là việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà n-
10
ớc. Qua đó, làm cho lực lợng, cơ cấu và trình độ lao động trong công nghiệp
cũng có sự biến đổi và Hà Tây không nằm ngoài xu hớng đó. Một nhân tố có
tác động lớn đến cơ cấu và chất lợng lao động CN,TTCN là công tác đào tạo
cán bộ và công nhân kỹ thuật. Những năm qua quy mô đào tạo lao động của
nhà nớc ta ngày càng tăng, cung cấp ngày càng nhiều những cán bộ, công nhân

có trình độ cho các ngành kinh tế xã hội và ngành CN,TTCN. Nhngg do cơ cấu
đào tạo cha hợp lý, đào tạo đại học, cao đẳng tăng quá nhanh (từ năm 1998
2003 số cơ sở đào tạo tăng 14,8%, số học sinh tăng 139%), so với đào tạo trung
học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, nên số công nhân, lao động kỹ thuật
bổ sung cho các ngành CN,TTCN không nhiều. Tuy vậy, từ năm 2000 công tác
đào tạo công nhân kỹ thuật đã đợc chú ý hơn, nên số công nhân kỹ thuật đợc
đào tạo năm 2003 đã bằng 163,5% so với năm 2000 và số học sinh tốt nghiệp
vào làm trong các ngành CN,TTCN cũng tăng nên. Đặc biệt là ở các địa phơng
xây dựng các khu, cụm, điểm công nghiệp và phát triển kinh tế làng nghề đã thu
hút một lực lợng lao động lớn ở địa bàn nông nghiệp nông thôn.
Qua 20 năm đổi mới, cơ cấu lao động xã hội và cơ cấu kinh tế nớc ta đã
có những thay đổi bớc đầu theo hớng tích cực. Tuy nhiên, trớc yêu cầu của sự
nghiệp CNH,HĐH đất nớc trong giai đoạn mới, quá trình đẩy mạnh phân công
lao động trong CN,TTCN đang đứng trớc những khó khăn thử thách lớn đó là:
dân số, lao động phân bố không đều giữa các vùng, lãnh thổ, tỷ lệ tăng dân số
cao nhất là ở các vùng nông thôn đã và đang ảnh hởng lớn, lâu dài đến đẩy
mạnh phân công lao động trong CN,TTCN. Trình độ dân trí của nớc ta nhìn
chung còn thấp, đặc biệt là ở vùng trung du và miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của ngời lao động cũng còn hạn chế,
lao động phổ thông cha qua đào tạo chuyên môn còn chiếm tỷ lệ rất cao, cha
đáp ứng đợc yêu cầu đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN. Trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nớc, tình trạng di dân tự do, chuyển dịch lao động
tự phát từ nông thôn ra thành thị, từ vùng này sang vùng khác trong những năm
11
gần đây đã gây ảnh hởng lớn đến việc phân công lao động xã hội cũng nh phân
công lao động trong lĩnh vực CN,TTCN và làm đảo lộn quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội của địa phơng và vùng kinh tế. Hơn nữa, quá trình toàn
cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, yêu cầu chủ động hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới những năm tới đang đặt ra đòi hỏi lớn đối với việc
phân công lao động xã hội và đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở

nớc ta.
Cùng với những khó khăn, thử thách trên. đẩy mạnh phân công lao động
trong CN,TTCN ở nớc ta đang diễn ra trong điều kiện nền kinh tế có nhiều mâu
thuẫn gay gắt : mâu thuẫn giữa yêu cầu cấp bách phải cải thiện đời sống nhân
dân với yêu cầu tăng tích luỹ để đẩy mạnh CNH,HĐH đất nớc; giữa yêu cầu mở
rộng sản xuất, tạo việc làm, thu hút lao động mới tăng lên với khả năng tích luỹ
đầu t trong nớc còn hạn chế; giữa yêu cầu đẩy mạnh cơ giới hoá, tự động hoá
sản xuất, hiện đại hoá ngành công nghiệp với yêu cầu giải quyết việc làm,
chống thất nghiệp cho đội ngũ lao động đông đảo mà phần lớn cha qua đào tạo
chuyên môn kỹ thuật; giữa trình độ, năng lực có hạn của đội ngũ cán bộ làm
công tác lao động xã hội với tính chất, yêu cầu công tác quản lý lao động trong
điều kiện kinh tế thị trờng, mở cửa và hội nhập với thế giới đó là đòi hỏi có
tính cấp thiết và là một tất yếu kinh tế của quá trình đẩy mạnh phân công lao
động trong CN,TTCN nói riêng và đẩy mạnh phân công lao động xã hội nói
chung.
Phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây không nằm ngoài xu hớng
phân công lao động trong CN,TTCN của cả nớc nh đề cập ở trên đó là quá trình
phân bố lại lực lợng lao động xã hội trên địa bàn tỉnh vào các ngành sản xuất
CN,TTCN, về cơ bản lâu dài lấy phân công lao động trong lĩnh vực công nghiệp
làm trọng tâm. Việc đẩy mạnh phân công lao động xã hội trên địa bàn tỉnh nói
chung và đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN nói riêng theo hớng
CNH,HĐH để khai thác tối đa nguồn lực lao động cho sự phát triển kinh tế.
12
Thực hiện đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN trên cơ sở đẩy mạnh
phân công lao động xã hội trên địa bàn tỉnh và phát triển mạnh mẽ ngành công
nghiệp, các khu, cụm, điểm tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề thủ công
truyền thống phù hợp với điều kiện tự nhiên, vùng lãnh thổ trên địa bàn tỉnh Hà
Tây sẽ góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, tỉnh mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh. Để đạt đợc mục tiêu đó Hà Tây cùng với cả nớc phải thực hiện
từng bớc việc đổi mới nâng cao kỹ thuật, công nghệ cho nền kinh tế, đồng thời

thực hiện phân công lại lao động xã hội, tập trung đẩy mạnh phân công lao
động trong CN,TTCN. Quá trình đó phụ thuộc vào các điều kiện về tự nhiên,
kinh tế và xã hội.
Về đặc điểm kinh tế, Hà Tây là một tỉnh có địa hình đa dạng, vừa có đồi
núi vừa có đồng bằng với diện tích tự nhiên là 2192,96 km
2
; phía Đông giáp Hà
Nội, Hng Yên; phía Tây giáp Hoà Binh; Phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, Vĩnh
Phúc; Phía Nam giáp Hà Nam và nằm cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội Hải
Phòng Quảng Ninh, hạt nhân kinh tế của miền Bắc. Hà Tây là một tỉnh thuộc
đồng bằng sông Hồng, nằm trên khu vực chuyển tiếp từ Tây Bắc và Trung du
miền Bắc với đồng bằng sông Hồng qua một mạng lới giao thông về đờng thuỷ,
đờng bộ, đờng sắt và các bến cảng tơng đối phát triển [ .tr15]. Với đặc điểm địa
hình và vị trí địa lý nh trên, Hà Tây có nhiều điều kiện thuận lợi để hình thành
cơ cấu kinh tế đa dạng, phát triển mạnh kinh tế công nghiệp và các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp nói chung, đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN
nói riêng. Đồng thời có điều kiện mở rộng trao đổi hàng hoá với các tỉnh đồng
bằng sông Hồng, các tỉnh trung du miền núi phía Bắc và các tỉnh phía Nam.
Về tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất của Hà Tây tơng đối đa dạng với nhiều loại đất có độ phì
cao, khí hậu ở đây mang sắc thái nhiệt đới gió mùa; có mùa hè nóng, ma nhiều
và mùa đông lạnh ma ít. Với điều kiện đất đai và khí hậu nêu trên Hà Tây có
điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng, với nhiều loại cây
13
trồng ngắn ngày, dài ngày, cây lơng thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi,
cây rừng đa tác dụng với hệ thống canh tác cây công nghiệp và cây nông
nghiệp. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển CN,TTCN phục vụ cho nông
nghiệp.
Về tài nguyên khoáng sản :
Hà Tây có một số khoáng sản chính nh đá vôi, đá Granit, sét cao lanh,

vàng gốc và sa khoáng, đồng than bùn, nớc khoáng . với chất l ợng và trữ lợng
cho phép khai thác và chế biến ở quy mô công nghiệp vừa [ Phụ lục 1]. Tuy
nhiên, nguồn tài nguyên khoáng sản có trữ lợng lớn của Hà Tây không nhiều,
chủ yếu là loại khóng sản phục vụ cho công nghiệp khai thác và sản xuất vật
liệu xây dựng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển CN,TTCN, trong đó có
đẩy mạnh phân công lao động trong hai ngành này.
Về dân số và lao động :
Dân số của Hà Tây tại thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2004 là 2,5 triệu
ngời, với tốc độ tăng bình quân 1,8%/ năm, mật độ dân số trung bình khoảng
1141 ngời/km
2
. Hà Tây là tỉnh đông dân thứ 5 trong 64 tỉnh, thành phố của cả
nớc. Nhng chỉ có gần 10% dân số sống ở thành thị và có hơn 90% dân số sống ở
nông thôn. Có 9 xã đồng bào dân tốc ít ngời trong đó có 7 xã ở vùng núi Ba Vì
với số dân trên 29000 ngời chủ yếu là dân tộc Mờng.
Số dân trong độ tuổi lao động của Hà Tây trên 1,2 triệu ngời (1268000),
trong đó lao động ở khu vực nông thông chiếm gần 90% , riêng lao động nông
nghiệp gần 70 %. Hàng năm có thêm 3,3 vạn đến 3,7 vạn ngời vào độ tuổi lao
động, trừ số ngời vào độ tuổi lao động tiếp tục đi học phổ thông trung học thì
còn khoảng trên 2 vạn ngời cần đợc giải quyết việc làm mới hoặc cần có thêm
việc làm [ tr 38]. Có thể thấy ràng nguồn nhân lực của Hà Tây tơng đối dồi
dào, lại chụi ảnh hởng lan toả của văn minh đô thị và tốc độ phát triển các khu,
cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống, do đó có khả
năng nhanh nhạy tiếp thu phát triển sản xuất hàng hoá đây là một thế mạnh.
14
Tuy nhiên, Hà Tây là tỉnh đất hẹp, ngời đông, tốc độ tăng dân số và theo đó là
tốc độ tăng lao động nhanh đang là sức ép lớn về việc làm, thu nhập và các vấn
đề xã hội. Lao động ở nông thôn hiện nay đang thiếu việc làm và phổ biến là
thuần nông. Lao động ở thành thị cha có việc làm chiếm tới trên 5% số ngời
hoạt động kinh tế. Nhìn chung, tiềm năng về lao động của Hà Tây là rất lớn,

nếu đẩy mạnh phân công lao động xã hội và phân công lao động trong
CN,TTCN hợp lý sẽ cho phép giải quyết đợc vấn đề việc làm cho ngời lao động.
Song việc đẩy mạnh phân công lao động ở Hà Tây đặc biệt là trong lĩnh vực
CN,TTCN còn hạn chế nên phần nào cha phát huy có hiệu quả tiềm năng đó.
Về CN,TTCN:
Nhìn chung công nghiệp của Hà Tây vẫn còn nhỏ bé, chiếm tỷ trọng thấp
trong GDP và đang đứng trớc nhiều khó khăn. Giá trị sản xuất công nghiệp năm
2004 đạt 7225,7 tỷ đồng, đứng thứ 12/64 tỉnh thành ph, tỷ trọng công nghiệp
xây dựng đạt 37,1% GDP của tỉnh. Hiện nay gần 80 doanh nghiệp có công nghệ
trung bình và lạc hậu, phần lớn thiết bị đã sử dụng trên 10 năm. Năng suất lao
động xã hội và hiệu quả kinh tế còn thấp. Tiểu thủ công nghiệp với nhiều nghề
truyền thống, tiềm năng lớn nhng cha đợc phát triển mạnh, kỹ thuật còn lạc hậu,
vốn ít, còn mang tính tự phát, cha đợc định hớng phát triển gắn với nông
nghiệp, nông thôn một cách mạnh mẽ. Công nghiệp chế biến nông lâm sản,
thực phẩm, công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng là một thế
mạnh của tỉnh nhng cũng cha đợc phát triển mạnh do cha tìm đợc thị trờng tiêu
thụ ổn định với khối lợng lớn, giá trị xuất khẩu còn thấp [tr 19]
Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế xã hội nói chung, đặc điểm
CN,TTCN ở Hà Tây nh đã nêu ở trên cho thấy đẩy mạnh phân công lao động
trong CN,TTCN trên địa bàn tỉnh là vấn đề rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng
trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết việc làm, đẩy nhanh quá trình
CNH,HĐH của địa phơng.
Phân công lại lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây hiểu theo nghĩa chung
15
nhất đợc hình thành bở mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành lực lợng
lao động trong lĩnh vực CN,TTCN nằm trong tổng thể lực lợng lao động xã hội
của địa bàn tỉnh. Nó phản ánh mối quan hệ, tỷ lệ số lợng và chất lợng giữa các
bộ phận cấu thành bên trong của lực lợng lao động CN,TTCN, các làng nghề
thủ công truyền thống và có quan hệ chặt chẽ với lực lợng lao động xã hội trên
địa bàn cũng nh cơ cấu lao động trong tỉnh. Sự thay đổi cấu trúc và mối quan hệ

tỷ lệ giữa các bộ phận lao động trong quá trình phân công lao động nhằm tạo ra
sự cân đối mới, chất lợng mới gọi là quá trình phân công lại lao động trong
CN,TTCN ở địa bàn Hà Tây. Phân công lại lao động trong CN,TTCN trớc hết
phải do quá trình phân công lao động lao động trên địa bàn tỉnh quyết định.
Hiệu quả của phân công lại lao động trong CN,TTCN, cách thức tiến hành nh
thế nào phụ thuộc rất nhiều ở hoạt động nỗ lực chủ quan. đẩy mạnh phân công
lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây chính là hoạt động có chủ đích của con ng-
ời, nhằm tạo ra cơ cấu lao động mới chất lợng mới của quá trình phân công lại
lao động của hai ngành này, nhằm tạo ra năng suất lao động cao hơn trong sản
xuất và thúc đẩy CN,TTCN phát triển nhanh, bền vững.Đẩy mạnh phân công
lao động trong CN,TTCN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó nó vừa là
nguyên nhân và vừa là kết quả của tốc độ phát triển của chính CN,TTCN. Để
đẩy nhanh tốc độ phát triển CN,TTCN, giải quyết việc làm cần phải kết hợp đợc
những yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan nhằm hình thành, phân bô lực l-
ợng lao động trong ngành CN,TTCN và các ngành kinh tế khác trên địa bàn
tỉnh. Mọi sự tách rời, tuyệt đối hoá nhân tố khách quan hoặc nhân tố chủ quan
đều đa đến sự trì trệ cho quá trình phát triển CN,TTCN ở địa phơng.
Thực tiễn nghiên cứu quá trình phân công lại lao động trong CN,TTCN ở
Hà Tây với những góc độ tiếp cận khác nhau đã đa đến những quan niệm khác
nhau. Có quan niệm cho rằng phân công lại lao động trong CN,TTCN là quá
trình phân bố lực lợng lao động xã hội trong lĩnh vực CN,TTCN, làm thay đổi
cấu trúc của kết cấu lực lợng lao động CN,TTCN theo yêu cầu của phân công
16
lao động xã hội và phân bố lực lợng lao động ở các ngành kinh tế trên địa bàn
tỉnh [ tr 9]. Đó là một quan niệm đúng, vì nó chỉ ra đặc trng cốt lõi của quá
trình phân công lại lao động trong CN,TTCN, là quá trình tác động mạnh mẽ
vào sự phân bố lực lợng lao động trên địa bàn tỉnh trong lĩnh vực CN,TTCN,
làm thay đổi cấu trúc và mối liên hệ của kết cấu lao động trong CN,TTCN ở Hà
Tây. Đồng thời thấy đợc mối quan hệ giứa phân công lại lao động trong
CN,TTCN với phân công lao động xã hội. Song quan niệm trên còn cha đầy đủ

vì nó cha bao quát toàn diện nội hàm của quá trình phân công lại lao động trong
CN,TTCN ở một địa phơng có nhiều nét đặc thù nh Hà Tây. Với quan niệm trên
sẽ đa đến cách hiểu cho rằng phân công lại lao động trong CN,TTCN là nội
dung của chuyển dịch cơ cấu lao động trong CN,TTCN. Vì vậy nó phụ thuộc
vào chuyển dịch cơ cấu lao động và sự phân công lao động xã hội, cha thấy đợc
tính độc lập tơng đối và sự tác động trở lại của quá trình đó đối với chuyển dịch
cơ cấu lao động và phân công lao động lao động xã hội. Vì quá trình phân công
lao động xã hội là sự phân bố lực lợng lao động xã hội vào các ngành kinh tế,
văn hoá, xã hội trong đó các ngành kinh tế là trọng tâm, bởi vậy trong thực tế
có khi phân công lao động xã hội nói chung trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh
mẽ, nhng cha có sự thay đổi đáng kể về sự phân bố và di chuyển lao động sang
lĩnh vực CN,TTCN ở các địa phơng trong tỉnh. Do đó, quá trình phân công lại
lao động trong CN,TTCN diễn ra không rõ nét. Mặt khác, quan niệm trên cha
nêu rõ nội dung, yêu cầu của việc phân công lại lao động trong CN,TTCN ở Hà
Tây trong điều kiện đẩy mạnh phân công lao động xã hội và quá trình
CNH,HĐH trên địa bàn tỉnh. Bởi lẽ, quá trình phân công lao động xã hội trong
điều kiện CNH,HĐH với phân công lại lao động xã hội trong lĩnh vực
CN,TTCN không chỉ có quan hệ chặt chẽ với phân công lao động xã hội trên
địa bàn mà còn có quan hệ chặt chẽ với quá trình đổi mới kỹ thuật công nghệ ở
các ngành kinh tế của địa phơng nhất là trong CN,TTCN. Bởi vậy, quan niệm
trên mới chỉ thấy đợc sự phân bố, thay đổi cấu trúc về mặt lợng lao động, mà
17
cha thấy rõ sự thay đổi về chất lợng, trình độ của lao động trong CN,TTCN.
Cũng cần thấy rằng đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN bao giờ
cũng nhằm một mục đích nhất định và thông qua hoạt động có ý thức, tự giác
của con ngời. Do đó, để quá trình đó đạt hiệu quả đòi hỏi phải có sự kết hợp nỗ
lực chủ quan của con ngời trên cơ sở nhận thức đợc quy luật khách quan.
Với cách tiếp cận đó, nội hàm của quá trình đẩy mạnh phân công lao
động trong CN,TTCN ở Hà Tây phải là quá trình thúc đẩy sự phân công lại,
phân bố lại lao động trong lĩnh vực CN,TTCN, đó là quá trình phân công lại lao

động trong nội bộ ngành CN,TTCN. Cho nên, nó vừa thay đổi cấu trúc, sắp xếp
lại lao động trong nội bộ ngành CN,TTCN, vừa thu hút thêm lao động xã hội
vào phát triển CN,TTCN. Quá trình đó nhằm chuyển dịch, bố trí lao động từ
trạng thái lạc hậu, mất cân đối, chủ yếu dựa vào lao động thủ công giản đơn, ít
sáng tạo, năng suật hiệu quả thấp, sang lao động có tay nghề cao, đợc đào tạo,
có năng lực trí tuệ, sức sáng tạo ngày càng tăng. Nhờ đó đem lại năng suất, hiệu
quả lao động ngày càng cao trong lĩnh vực CN,TTCN. Từ đó có thể thấy rằng:
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây là quá trình hoạt
động nỗ lực, tự giác, có tổ chức, có kế hoạch của bộ máy chính quyền địa ph-
ơng, của ngành CN,TTCN và nhân dân lao động nhằm toàn dụng các điều
kiện thuận lợi về phát triển CN,TTCN và vị trí địa lý của tỉnh để phân bố lại
lực lợng lao động trong lĩnh vực CN,TTCN làm thay đổi cấu trúc kết cấu lực
lợng lao động và mối quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phần cấu thành cơ cấu lao
động CN,TTCN theo hớng tăng tỷ trong lao động CN,TTCN, trên cơ sở ứng
dụng công nghệ, phơng tiện, phơng pháp tiên tiến hiện đại, tạo năng suất lao
động cao, bảo đảm cho ngành CN,TTCN trong tỉnh phát triển nhanh, bền
vững.
Với quan niệm trên thì việc đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN ở địa bàn Hà Tây không phải là quá trình tự phát, vô tổ chức, mà là
quá trình tự giác, có tổ chức, có kế hoạch của các cấp uỷ đảng, chính quyền,
18
ngành công nghiệp và nhân dân lao động. Điều này khác với quá trình phân
công lao động theo kiểu tự phát, tự do di chuyển lao động từ nông thôn ra thành
thị, hoặc từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp. Đó cũng là quá
trình kết hợp giữa nhân tố khách quan với nhân tố chủ quan, trong đó nhân tố
khách quan quyết định nội dung, nhân tốt chủ quan quyết định kết quả thực
hiện.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở địa bàn Hà Tây thực
chất là tạo sự cân đối mới về số lợng, chất lợng lao động, giữa các bộ phận cấu
thành cơ cấu lao động trong lĩnh vực CN,TTCN. Do đó, nội dung, đặc điểm của

quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN trên địa bàn cũng
mang đậm nét tính đặc thù về kinh tế nói chung, về lĩnh vực CN,TTCN của Hà
Tây nói riêng.
Hà Tây là tỉnh liền kề với thủ đô Hà Nội nên có nhiều thế mạnh về vị trí
địa lý, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và tài nguyên để phát triển CN,TTCN.
Tuy nhiên, với tính đặc thù của một tỉnh có gần 80% lực lợng lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp thì quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN có một số thuận lợi nhất định đó là: trong thời kỳ đổi mới các chính
sách của Đảng và Nhà nớc thực sự tạo điều kiện cho CN,TTCN phát triển tốt
cùng với đó quá trình này đợc sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh. Sở công nghiệp Hà Tây đã tham mu
cho tỉnh uỷ,uỷ ban nhân dân kịp thời đề ra phơng hớng, nhiệm vụ phát triển
cho ngành. Năm 1999 Tỉnh uỷ đã hoàn thành quy hoạch phát triển công nghiệp
trên địa bàn đến năm 2010. Giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm tăng khá và
bằng mức tăng trởng bình quân của cả nớc. Các ngành sản phẩm chiếm tỷ trọng
khá là công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm, đồ uống, khai thác, sản
xuất vật liệu xây dựng và đang có xu thế phát triển nhanh. Sản xuất CN,TTCN
phát triển nhanh cả về số lợng, quy mô, trình độ công nghệ và hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Bớc đầu phát huy đợc thế mạnh đất trăm nghề, củng cố, phát
19
triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống, làm tăng lao động có việc làm ở
nông thôn. Công tác quy hoạch đã đi dần vào nề nếp, bớc đầu triển khai thực
hiện và thu hút đầu t vào các khu công nghiệp nh Phú Cát, Khu công nghệ cao
Hoà Lạc và trên 20 cụm, điểm công nghiệp đã và đang đợc quy hoạch, tiếp
nhận dự án đầu t. Công tác quản lý nhà nớc về CN,TTCN đợc tăng cờng, việc tổ
chức chỉ đạo, sử dụng quỹ khuyến công và phát triển làng nghề đạt hiệu quả.
Bên cạnh đó, quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở
địa phơng cũng còn những đặc điểm hạn chế đó là Hà Tây là địa bàn nằm trong
vùng phân lũ, chặn lũ sông Hồng. Ngoài ra, do nằm sát Hà Nội nên Hà Tây
cũng chịu nhiều ảnh hởng bất lợi nh : giá thị trờng đất cao, bị thu hút chất xám

ra bên ngoài. Giá trị sản xuất CN,TTCN đạt khá nhng không đều ở các địa ph-
ơng, số lợng doanh nghiệp tăng nhanh nhng quy mô chủ yếu là nhỏ (chiếm
84%). Gần 50 % số doanh nghiệp vẫn đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản và
sản xuất thử. Việc tiếp thu thông tin, áp dụng công nghệ mới, phát triển thị tr-
ờng, chuẩn bị hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế còn hạn chế. Tiến hành cổ
phần hoá, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nớc còn chậm, các lĩnh vực có tiềm
năng cha thu hút đợc các doanh nghiệp có vốn lớn và công nghệ cao. Việc triển
khai cụ thể hoá chơng trình hợp tác công nghiệp với Hà Nội chòn chậm, nhất là
công tác thu hút khuyến khích đầu t vào các vùng xa, các khu, cụm điểm công
nghiệp còn hạn chế, đặc biệt là khâu giải phóng mặt bằng. Kết cấu hạ tầng ở
các làng nghề còn yếu, lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao trong
nội bộ ngành CN,TTCN còn thiếu. Lực lợng lao động xã hội mới có gần 20 %
đợc đào tạo nghề. Tỷ lệ cha có việc làm ở khu vực thành thị trên 5% và tỷ lệ sử
dụng thời gian lao động ở nông thôn dới 80%. Nhận thức của các cấp các ngành
về đầu t còn hạn chế nên việc đền bù, giải phóng mặt bằng nhìn chung còn khó
khăn, thời gian kéo dài. Vì vậy, trong thời gian gần đây tỉnh luôn xếp cuối trong
số 64 tỉnh thành cả nớc về khả năng cạnh tranh và môi trờng thu hút đầu t. Điều
đó có ảnh hởng xấu đến việc đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN của
20
Hà Tây.
Từ những đặc điểm nêu trên cho thấy quá trình đẩy mạnh phân công lao
động trong CN,TTCN phải trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế của tỉnh
nhằm thúc đẩy cơ cấu lao động trong lĩnh vực CN,TTCN, tăng tỷ trong lao động
công nghiệp, dịch vụ. Từ đó thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, làm cho lĩnh vực kinh tế CN,TTCN phát triển bền vững và
năng động hơn.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây phải tạo ra sự
cân đối lao động giữa các ngành, các thành phần kinh tế nâng cao mức sống ng-
ời lao động. Đồng thời một mặt phát triển các ngành nghề CN,TTCN làm cơ
cấu ngành nghề thêm đa dạng, mặt khác lại thúc đẩy việc áp dụng rộng rãi tiến

bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Theo đó ngời lao động có điều kiện
tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để
nâng cao năng suất, cải thiện đời sống nhân dân, trên cơ sở đó thúc đẩy
CN,TTCN phát triển vững chắc.
Quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN phải gắn với
sản xuất hàng hoá. Một mặt thúc đẩy việc ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại
vào sản xuất, mặt khác làm thay đổi bộ mặt ngời lao động từ cách sống, lối suy
nghĩ, cách tổ chức và quản lý sản xuất theo hớng tiến bộ hơn, nâng cao tính
năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây phải bảo đảm
việc toàn dụng lao động, nâng cao chất lợng, hiệu quả lao động, làm tăng lao
động có việc làm, tăng thời gian sử dụng lao động, giảm tỉnh hình thất nghiệp
trên địa bàn. Đồng thời kết hợp chặt chẽ việc sử dụng lao động với công tác đào
tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, tăng số lợng lao động đã qua đào tạo, trong lĩnh
vực tiểu thủ công nghiệp cần thực hiện thờng xuyên công tác truyền nghề, nhân
cấy nghề nhằm giải quyết việc làm cho nhiều ngời, nhiều hộ gia đình tham gia
vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp để có thêm nhiều làng nghề, làm chuyền dịch
21
cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây không chỉ đơn
thuần là làm tăng tỷ trọng, số lợng lao động trong lĩnh vực CN,TTCN, mà điều
quan trọng là còn thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân bố lại lao động xã hội trên
địa bàn theo hớng CNH,HĐH. Điều đó góp phần xây dựng một cơ cấu lao động
đa dạng, nhiều tầng, năng động theo hớng mở, phù hợp với mô hình phát triển
CN,TTCN địa phơng trên địa bàn tỉnh, làm tăng lao động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ, giảm lao động nông nghiệp. Đồng thời tạo sự thay đổi về chất
trong cơ cấu và trình độ lao động công nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình
thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, kỹ thuật công nghệ
hiện đại. Thực hiện vừa tuần tự, vừa nhảy vọt các bớc cơ giới hoã, tự động hoá
ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Hơn nữa, quá trình đẩy mạnh

phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây còn có vai trò quan trọng, tạo
việc làm, giảm thất nghiệp, tham gia thực hiện xoá đói giảm nghèo, đẩy lùi tệ
nạn xã hội, tăng cờng tiềm lực quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở các địa phơng trên địa bàn Hà Tây.
Phát triển CN,TTCN nói chung, đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN ở Hà Tây nói riêng bị ràng buộc bởi một số điều kiện nhất định
* Một số nhân tố chi phối đến đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN ở Hà Tây
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây bị chi phối bởi
nhiều nhân tố, nổi lên một số nhân tố cơ bản sau:
Định hớng phát triển kinh tế xã hội của Hà Tây đến năm 2010
Từ điểm xuất phát thấp, từ lợi thế so sánh về phát triển kinh tế, xã hội của
tỉnh. Trong giai đoạn tới đảng bộ và nhân dân Hà Tây xác định là:
Phát huy tinh thần tự chủ, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế, xã hội so với
các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng. Từ cơ sở kinh tế hiện có chuyển hớng
nhanh theo những lợi thế và khai thác tài nguyên của từng vùng đi liền với đổi
22
mới công nghệ, thiết bị theo hớng CNH,HĐH, tranh thủ thu hút đầu t từ bên
ngoài (gồm trong nớc và ngoài nớc) để tạo ra tốc độ tăng trởng kinh tế nhanh,
hiệu quả kinh tế xã hội cao, sớm có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh nhằm
biến đổi một bớc rõ rệt về cơ cấu kinh tế và căn bản hình thành cơ cấu kinh tế
mới vào năm 2010 theo hớng du lịch công nghiệp dịch vụ.
Lựa chọn quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu để phù hợp với điều kiện về tài
nguyên, điều kiện vốn, phù hợp với chính sách khuyến khích nhiều thành phần
kinh tế và nhu cầu sớm cần bằng đợc ngân sách, có tích luỹ. Song thiết bị, công
nghệ phải hiện đại.
Nền kinh tế phát triển hớng về xuất khẩu, trớc hết là xuất khẩu tại chỗ và
xuất khẩu ra nớc ngoài, kết hợp thay thế nhập khẩu đối với những sản phẩm có
nhu cầu nhập khẩu lớn và thị trờng trong nớc có nhu cầu tiêu dùng lâu dài, đồng
thời gắn với sự phát triển của các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, tam giác

tăng trởng kinh tế Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh, đặc biệt là gắn với
thành phố Hà Nội để đón thị trờng, phát triển mạng lới gia công và nhận những
cơ sở công nghiệp mà Hà Nội có nhu cầu dãn ra vì không gian xây dựng.
Phát triển kinh tế phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội và môi trờng sinh thái
làm thớc đo. Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội, phát triển môi tr-
ờng và cân bằng sinh thái. Phải nắm lấy thời cơ và tranh thủ thời cơ nhằm biến
đổi một cách quan trọng cục diện kinh tế xã hội của tỉnh, trớc hết là chuyền
dịch cơ cấu kinh tế theo hớng CNH,HĐH, tạo ra thế và lực mới phát triển trong
thời kỳ 2006 đến 2010.
Từ những vấn đề chung đó, đối với CN,TTCN đợc tỉnh xác định là: tiếp
tục đầu t mở rộng đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị công nghệ các xí nghiệp
hiện có nhất là công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, vật liệu xây dựng,
may mặc, mỹ nghệ các điểm và cơ sở phục vụ du lịch, các cơ sở hạ tầng
công nghiệp để đáp ứng nhu cầu trớc mắt để ổn định lâu dài. Phát triển các
ngành công nghiệp mũi nhọn với thiết bị công nghệ hiện đại, trớc mắt là vật liệu
23
xây dựng, chế biến thực phẩm, mở khu công nghiệp tập trung gọi vốn nớc ngoài
có hàm lợng công nghệ cao nh lắp ráp hàng điện tử, ô tô, sản phẩm cơ khí chính
xác, hàng tiêu dùng cao cấp nhằm tăng tốc độ tăng trởng công nghiệp và tăng tỷ
trọng công nghiệp trong GDP, phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu,
phấn đấu đạt tốc độ tăng trởng công nghiệp 21% trở lên thời kỳ 2006 đến 2010.
Phấn đấu đến năm 2010 có 80% số làng trong tỉnh có nghề, trong đó khoảng
250 làng đạt tiêu chí làng nghề. Đa tỉnh Hà Tây thành tỉnh công nghiệp trớc
năm 2015.
Giai đoạn 2010 cơ bản xây dựng và hình thành 4 khu công nghiệp chính
đó là: thị xã Sơn Tây phát triển công nghiệp chế biến nông sản, sửa chữa ô tô,
linh kiện thông tin và điện cơ, phân vi sinh; vùng Xuân Mai Mỹ Đức phát
triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, trong đó vùng Hoà Lạc sẽ xây
dựng khu công nghệ cao, xây dựng các nhà máy lắp ráp ô tô, công nghiệp điện
tử, giày da xuất khẩu; thị xã Hà Đông phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng,

công nghiệp du lịch; dọc quốc lộ 1A thuộc địa phận Thờng Tín, Phú Xuyên
phát triển công nghiệp chế biến và đồ uống.
Khả năng và điều kiện phát triển kinh tế của CN,TTCN ở Hà Tây
Xuất phát từ định hớng phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2010 của tỉnh
với lợi thế về địa lý, tài nguyên và lao động, khả năng và điều kiện phát triển
kinh tế của CN,TTCN trên địa bàn tỉnh Hà Tây là rất to lớn. Là một tỉnh có
nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng (nh đã đề cập ở trên) là điều kiện thuận
lợi cho phép Hà Tây khai thác chế biến ở quy mô công nghiệp lớn và vừa. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu t vào sản xuất
CN,TTCN tăng nhanh và đợc sắp xếp chuyển đổi theo chiều hớng tích cực, hiệu
quả. Tính đến nay, theo báo cáo tổng kết của ngành công nghiệp (tháng 4 năm
2005) toàn ngành công nghiệp có trên 1000 đơn vị sản xuất kinh doanh với hơn
200.000 lao động. Khối doanh nghiệp trong nớc đã đầu t vào Hà Tây 360 tỷ
đồng, các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã đầu t 240 tỷ đồng. Đây là
24
nguồn vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Một số dự án lớn nh giai đoạn
1 nhà máy xi măng Mỹ Đức 1,4 triệu tấn/ năm có số vốn đầu t trên 2000 tỷ
đồng, nhà máy thuốc lá Thăng Long đợc bố trí 14 ha đất trong cụm công nghiệp
thị trấn Quốc Oai có số vốn trên 700 tỷ. Nhà máy xà phòng Hà Nội di chuyển
bố trí tại Yên Nghĩa (Chơng Mỹ) vốn đầu t gần 1000 tỷ đồng. Đây là những khả
năng và điều kiện lớn để nâng tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhanh.
Về khả năng lao động và nguồn nhân lực, lực lợng lao động thờng xuyên
toàn ngành hiện đang có trên 200 ngàn ngời, trong đó khối doanh nghiệp trung -
ơng 7000 ngời, công nghiệp quốc doanh địa phơng khoảng hơn 5000 ngời, khối
doanh nghiệp có vốn dầu t nớc ngoài gần 7000 ngời và khối đơn vị ngoài quốc
doanh trên 180 ngàn ngời. Ngoài ra còn một lực lợng lớn lao động CN,TTCN có
tay nghề làm việc trong các làng nghề thủ công truyền thống ở khu vực nông
nghiệp nông thôn.
Từ những vấn đề trên cho thấy Hà Tây là tỉnh có khả năng rất lớn và điều
kiện thuận lợi để phát triển mạnh kinh tế CN,TTCN điều đó cho phép địa phơng

duy trì nhịp độ tăng trởng công nghiệp bình quân giai đoạn 2006 đến 2010
khoảng 21% trở lên; đa tỉ trong công nghiệp xây dựng trong GDP lên trên
40% vào năm 2010 và đa tỉnh Hà Tây cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp trớc
năm 2015 nh định hớng phát triển CN,TTCN của tỉnh đã xác định.
Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, củng cố quốc
phòng, an ninh của địa phơng, các doanh nghiệp và của toàn tỉnh
Nh trên trình bày, Hà Tây phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp trớc năm
2015, về đích trớc cả nớc 5 năm, cùng với tiềm năng phát triển CN,TTCN của
tỉnh rất lớn. Đó là điều kiện thuận lợi về chủ quan và khách quan để đa ngành
CN,TTCN của tỉnh phát triển nhanh, mạnh trong những năm tới. CN,TTCN phát
triển tất yếu đẩy mạnh phân công lao động ở hai lĩnh vực này. Sự phát triển của
phân công lao động nói riêng, phát triển CN,TTCN nói chung trớc hết là do nhu
cầu phát triển nội tại của ngành trong xu thế phát triển chung của đất nớc ở thời
25

×