Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Thông tin trên trang nghề báo của báo nhà báo và công luận thực trạng và giải pháp phát triển ( khảo sát năm 2011 2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 121 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ VÂN






THÔNG TIN TRÊN TRANG NGHỀ BÁO
CỦA BÁO NHÀ BÁO VÀ CÔNG LUẬN:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
(Khảo sát năm 2011 - 2012)








LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC










Hà Nội – 2015
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ VÂN






THÔNG TIN TRÊN TRANG NGHỀ BÁO
CỦA BÁO NHÀ BÁO VÀ CÔNG LUẬN:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
(Khảo sát năm 2011 - 2012)



Chuyên ngành: báo chí học
Mã số: 60 32 01 01






LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ MỲ





Hà Nội – 2015
1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn “Thông tin trên trang Nghề báo của báo
Nhà báo và Công luận: Thực trạng và giải pháp phát triển (khảo sát năm 2011
– 2012)" là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện trên cơ sở
nghiên cứu lý thuyết và khảo sát tình hình thực tiễn dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Phạm Thị Mỵ.
Tôi cũng xin cam đoan: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là

trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Luận văn có sử dụng, phát
triển và kế thừa những tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo
trình, tài liệu liên quan đến nội dung đề tài, và các thông tin trích dẫn trong
luận văn đều được ghi rõ nguồn.

Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Vân
2

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong và ngoài khoa
Báo chí – Truyền thông trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tận
tình giảng dạy và trang bị kiến thức cho tôi trong gần 3 năm học tại trường,
niên khóa 2011 - 2013.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Thị Mỵ đã dành thời
gian tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đối với những người thân, các bạn học
viên trong lớp, các bạn đồng nghiệp đã tư vấn, giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Vân

3

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BBT

Ban Biên tập
BTV

Biên tập viên
CTV

Cộng tác viên
HNBVN

Hội Nhà báo Việt Nam
NB&CL

Nhà báo và Công luận
PV

Phóng viên
TBT

Tổng biên tập
TKTS

Thư ký tòa soạn





1

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Thống kê chủ đề trên chuyên trang nghề báo năm 2011 38
Và được thể hiện qua biểu đồ: 38
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ nhóm chủ đề trên chuyên trang Nghề báo năm 2011 38
Bảng 2.2: Bảng thống kê chủ đề trên chuyên trang Nghề báo năm 2012 39
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nhóm chủ đề trên trang Nghề báo năm 2012 39
Bảng 2.3: Thống kê thể loại trên trang Nghề báo năm 2011 54
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ thể loại trên chuyên trang nghề báo năm 2011 55
Bảng 2.4: Thống kê thể loại trên trang nghề báo năm 2012 55
Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ thể loại trên trang nghề báo năm 2012 56
Bảng 2.3: Mức độ quan tâm của công chúng tới trang nghề báo 64
Biểu đồ 2.5: Mức độ quan tâm của công chúng tới trang Nghề báo 64
Mô hình 3.1: Maket chuyên trang Nghề báo trên diện tích 1 trang 79
Mô hình 3.2: Maket chuyên trang Nghề báo với diện tích 2 trang 81

1

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN VÀ
THÔNG TIN TRÊN BÁO CHÍ 9
1.1 Khái niệm thông tin và thông tin báo chí 9
1.2. Nâng cao chất lượng thông tin báo chí 17
1.3. Xu thế phát triển thông tin trên báo in trong tương lai 21

1.4. Báo in phải thay đổi theo nhu cầu tiếp nhận của công chúng 25
1.5. Chuyên trang trên báo in và đặc trưng thông tin theo chuyên trang 27
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ CHUYÊN TRANG NGHỀ BÁO
CỦA BÁO NHÀ BÁO VÀ CÔNG LUẬN TRONG 2 NĂM 2011 - 2012 . 34
2.1. Sơ lược về báo Nhà báo và Công luận 34
2.2. Kết quả khảo sát về nội dung và hình thức trên trang Nghề báo 37
2.3. Khảo sát mức độ quan tâm của độc giả tới trang Nghề báo 64
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHUYÊN TRANG
NGHỀ BÁO CỦA BÁO NHÀ BÁO VÀ CÔNG LUẬN 67
3.1. Giải pháp vĩ mô 67
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nội dung thông tin trên chuyên trang Nghề báo 69
3.3. Giải pháp nâng cao hình thức 72
3.4. Một số mô hình đổi mới chuyên trang 77
3.5. Giải pháp phát triển công tác phát hành báo 82
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thời gian gần đây, báo chí Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh
mẽ cả về hình thức, nội dung, đội ngũ những người làm báo và số lượng cơ quan
báo chí, ấn phẩm báo chí. Tính đến tháng 5 - 2011, trong lĩnh vực báo in, cả
nước có 745 cơ quan báo chí với 1.003 ấn phẩm. Phát thanh, truyền hình có 3 đài
Trung ương và các đài phát thanh - truyền hình địa phương với 200 kênh chương
trình trong nước và 67 kênh nước ngoài. Cả nước có 46 báo mạng điện tử và tạp
chí điện tử, 287 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí và hàng ngàn trang tin

điện tử của các cơ quan của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, các đoàn thể, hội,
hiệp hội Bên cạnh những loại hình báo chí truyền thống và hiện đại như báo in,
báo phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử; sự phát triển, tích hợp và hội tụ
về công nghệ thông tin và truyền thông đang thúc đẩy sự ra đời của một số loại
hình và sản phẩm truyền thông mới…Cũng tính đến tháng 5-2011, cả nước có
gần 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề.
Theo thông tin mới nhất từ hội nghị tổng kết công tác báo chí năm
2014 và triển khai nhiệm vụ 2015 diễn ra vào ngày 31/12/2014, hiện cả nước
có 845 cơ quan báo chí, trong đó có 199 cơ quan báo chí in, 646 tạp chí, 1
hãng thông tấn quốc gia, 98 báo - tạp chí điện tử, 67 đài phát thanh truyền
hình và 1.525 trang thông tin điện tử tổng hợp; 420 mạng xã hội được phép
hoạt động với lượng truy cập rất cao, ảnh hưởng ngày càng lớn về thông
tin. Đến thời điểm này, cả nước có gần 18 nghìn nhà báo được cấp thẻ nhà
báo, và khoảng 5 nghìn phóng viên hoạt động báo chí, nhưng chưa đủ điều
kiện cấp thẻ.
Có thể khẳng định rằng, sự phát triển mạnh mẽ, thần kỳ ấy đã mang
đến một diện mạo thông tin, một kỷ nguyên thông tin mới, được tạo dựng từ
nền tảng, cơ sở của truyền thông truyền thống, nhưng có những khác biệt rõ
2

ràng. Truyền thông đại chúng nói chung và báo chí nói riêng đã chịu sự ảnh
hưởng, tác động vô cùng mạnh mẽ. Với sự trợ giúp của những thành tựu khoa
học kỹ thuật, truyền thông đại chúng dần chiếm lĩnh, chi phối được quá trình
tiếp nhận thông tin của cộng đồng. Trong mỗi bước đi của cả nền báo chí
cũng như mỗi cơ quan báo chí, đều có sự ứng phó sao cho linh hoạt, phù hợp
với thực tiễn xã hội, với từng đối tượng công chúng tiếp nhận khác nhau, ở
những thời điểm khác nhau. Thông tin không còn là một chiều đơn lẻ nữa, và
người tiếp nhận có thừa quyền lực để lựa chọn hay gạt bỏ những luồng thông
tin mà họ cảm thấy vô bổ, không thiết thực, không chính xác
Báo Nhà báo và Công luận (NB&CL) là cơ quan ngôn luận của Hội

Nhà báo Việt Nam. Đây là tờ báo chuyên sâu về lĩnh vực nghề nghiệp, phản
ánh về đời sống báo chí của Việt Nam.
Trang Nghề báo nằm ở vị trí số 12 trong tổng số 20 trang của báo Nhà
báo và Công luận, được coi là một trong những trang quan trọng nhất của tờ
báo. Nhiệm vụ của trang là phản ánh mọi mặt của đời sống báo chí, sự sôi
động của hoạt động báo chí thông qua các bài phỏng vấn, hậu trường, chân
dung nhà báo, góc nhìn nghề nghiệp của những người làm báo Đó có thể là
những bài gặp gỡ phỏng vấn các lãnh đạo quản lý báo chí, lãnh đạo cơ quan
báo chí, các nhà báo, phóng viên đang hoạt động nghề nghiệp, cũng có thể là
những kinh nghiệm nghề nghiệp được các nhà báo đúc kết, chia sẻ thông qua
những kỉ niệm, những bài học, trải nghiệm trong chặng đường tác nghiệp. Cơ
cấu của chuyên trang thông thường bao gồm một bài dài khoảng 1.500 chữ và
1 đến 2 bức ảnh, hoặc cũng có những số báo thêm một số tin tức hoạt động,
văn bản, quy định đạo đức nghề nghiệp…
Thông qua các cuộc trò chuyện, các bài hậu trường, bếp núc xoay
quanh các vấn đề nóng đã, đang diễn ra trong làng báo, những gương chân
dung điển hình hoạt động trong lĩnh vực báo chí, những tờ báo hoạt động hiệu
3

quả, những khó khăn của nghề nghiệp trong cơn bão thị trường… trang Nghề
báo đã phần nào mang đến cho công chúng những thông tin cập nhật, có tính
phản biện nghề nghiệp, khẳng định tính chuyên nghiệp của tờ báo, đáp ứng
phần nào nhu cầu của đời sống xã hội, nhu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả
của tờ báo.
Tuy nhiên, ngoài những giá trị đã được khẳng định thì vẫn còn một số
hạn chế về góc nhìn, đề tài, hình thức thể hiện, phong cách viết… Những đòi
hỏi ngày càng cao của thông tin dẫn đến việc cần có những đổi mới cấp thiết
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả. Từ đó, những giải pháp phát triển
chuyên trang được đặt ra như một yêu cầu của việc nâng cao vị thế và tầm
vóc cho cả tờ báo trong tương lai.

Là phóng viên trực tiếp phụ trách chuyên trang, tôi có điều kiện để đi
sâu nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu về thực trạng cũng như giải pháp phát triển
cho chuyên trang để ứng dụng vào thực tiễn nghề nghiệp một cách hiệu quả.
Từ đó góp phần nâng cao chất lượng tờ báo Nhà báo và Công luận trong làng
báo chí cách mạng Việt Nam.
Với những lí do trên đây, tôi lựa chọn đề tài luận văn: Thông tin trên
trang Nghề báo của báo Nhà báo và Công luận: Thực trạng và giải pháp phát
triển (Khảo sát năm 2011 - 2012).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều tác phẩm, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ, các đề tài
nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề thông tin trên báo chí nói chung
nhưng chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về thông
tin trên chuyên trang Nghề báo của báo Nhà báo và Công luận, về thực trạng
và giải pháp phát triển của chuyên trang. Tuy vậy, vẫn có nhiều tài liệu hữu
ích, quý giá có thể tham khảo như bài giảng của các giảng viên trong trường
về thông tin nói chung, thông tin trên báo chí, trên chuyên trang, chuyên mục
4

nói riêng; tham luận của một số đại biểu tại các hội thảo khoa học về nghề
báo, ý kiến, đánh giá của một số nhà báo về nghiệp vụ Qua khảo sát, tôi thấy
có một số tác phẩm đáng chú ý như sau:
* Về sách:
+ Cơ sở lí luận báo chí truyền thông của tác giả Dương Xuân Sơn,
Đinh Văn Hường, Trần Quang. Đây là cuốn sách mang tính chất nền tảng cho
toàn bộ chương trình đào tạo về lí luận báo chí. Nội dung cuốn giáo trình đề
cập đến những vấn đề có tính phương pháp luận, các khái niệm, phạm trù, đặc
trưng, chức năng, nguyên tắc, hiệu quả, tính sáng tạo của lao động báo chí,
làm cơ sở cho việc tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề cụ thể trong lĩnh vực báo
chí - truyền thông như: vấn đề thông tin trên báo chí và tiêu chí đánh giá chất
lượng thông tin, nâng cao chất lượng thông tin…

+ Cuốn sách “tổ chức tòa soạn đa phương tiện” do giảng viên
Carmilla Floyd của Viện Đào tạo báo chí Fojo viết là một trong những ấn
phẩm sử dụng trong khóa đào tạo tập huấn Việt Nam – Thụy Điển. Chương
trình đào tạo báo chí Việt Nam – Thụy Điển chú trọng đào tạo kỹ năng đưa
tin đa chiều, viết phóng sự chuyên nghiệp, các kỹ năng phỏng vấn, thiết kế
trình bày báo, đưa tin trên báo mạng, quản lý báo chí và tổ chức phòng tin.
+ Cuốn sách Ngôn ngữ báo chí – PGS.TS Vũ Quang Hào, giảng viên
khoa báo chí Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đây là tập giáo
trình giảng dạy cho sinh viên báo chí rất bổ ích với những nội dung chính:
Ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí; ngôn ngữ các phong cách báo chí; ngôn
ngữ tít báo, ngôn ngữ quảng cáo báo chí, quảng bá báo chí…
+ Cuốn sách Nghề làm báo của tác giả người Pháp Philippe Gaillard.
Trong cuốn sách trình bày những nội dung cơ bản của nghề làm báo. Đó là,
vai trò của báo chí; cơ cấu tổ chức và hoạt động tác nghiệp của một doanh
nghiệp báo chí (tòa soạn); chức năng, nhiệm vụ của các hãng thông tấn;
5

phương pháp thu thập, xử lý, truyền tải thông tin; cách làm phóng sự, viết tin,
biên tập báo chí; trình bày maket và kỹ thuật in ấn…
+ Viết cho độc giả - Loic Hervouet, Tổng Giám đốc Trường Đại học
báo chí Lille. Cuốn sách do Lê Hồng Quang dịch, Hội Nhà báo Việt Nam
xuất bản. Cuốn sách giúp các nhà báo nắm được kỹ năng và cả thói quen
viết đơn giản và hiệu quả, nhằm chuyển tải thông tin đến độc giả một cách
tốt nhất.
+ Cuốn sách “Nhà báo viết về nghề báo” của 10 nhà báo thuộc nhóm
phóng viên lâu năm của Thời báo Kinh tế Sài Gòn (Trần Ngọc Châu, Đoàn
Khắc Xuyên, Nguyễn Vạn Phú, Trần Hữu Quang, Huỳnh Kim, Sơn Tùng,
Minh Hùng, Phạm Hữu Chương, Thục Đoan, Công Thắng). Nội dung cuốn
sách xoay quanh 2 chủ đề chính: các vấn đề báo chí nói chung, báo chí Việt
Nam nói riêng, vai trò của báo chí trong xã hội hiện đại; những kinh nghiệm

làm báo ở các thể loại như viết tin, tìm hiểu thể loại ký; công tác tòa soạn,
cách sử dụng số liệu, sử dụng ngôn ngữ; kinh nghiệm tác nghiệp trong các hội
nghị ở nước ngoài… Đặc biệt, cuốn sách ngoài việc đề cập đến các vấn đề lý
luận về báo chí và nghề báo nhưng chủ yếu thông qua những điều tâm đắc
hoặc những trải nghiệm của từng tác giả qua nhiều năm hoạt động trong nghề.
Phần lớn các bài viết đều đưa ra nhiều dẫn chứng, câu chuyện sinh động, lý
thú từ thực tế…
+ Cuốn sách Báo chí thế giới và xu hướng phát triển, giới thiệu những
lý luận, khái niệm, phạm trù và hoạt động báo chí thế giới đang được phổ biến
tại các trường đại học trên thế giới và trong giới nghiên cứu báo chí. Đây là
một vấn đề cần thiết trong xu thế hội nhập quốc thế hiện nay đối với các cơ sở
nghiên cứu lý luận báo chí ở Việt Nam. Trong cuốn sách, khái niệm báo chí
được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các loại hình báo chí như báo in,
phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử. Phạm trù thế giới trong khuôn
khổ cuốn sách này được đề cập mang tính điển hiền ở một số các ví dụ cụ thể
về hoạt động báo chí ở một số nước khu vực.
6

* Ngoài ra có một số công trình nghiên cứu về báo in với những góc độ
tiếp cận khác nhau như:
+ Luận văn “Thông tin chuyên đề trên chuyên san Hồ sơ sự kiện” –
tác giả Nguyễn Tri Thức, năm 2011
+ Luận văn "Tổ chức nội dung báo in VOV trong Đài Tiếng nói
Việt Nam" – tác giả Lê Như, năm 2013…
+ Luận văn Nâng cao chất lượng chuyên mục Nghiên cứu - trao đổi
trên tạp chí Giáo dục lí luận, tác giả Trần Hoài Thu, năm 2012
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Đề tài Thông tin trên trang Nghề báo của báo Nhà báo và Công luận:
thực trạng và giải pháp phát triển ( khảo sát năm 2011 - 2012) nhằm phân tích

những thành công và hạn chế về mặt nội dung thông tin, từ đó, đề xuất các
giải pháp nhằm tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thông tin, năng lực người
làm báo để nâng cao chất lượng của chuyên trang nói riêng và tờ báo Nhà báo
và Công luận trong tương lai nói chung.
3.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu hệ thống lý thuyết về báo in, về chuyên trang chuyên mục
trên tờ báo trong xu hướng phát triển của báo chí hiện đại.
- Đánh giá thực trạng việc tổ chức nội dung của chuyên trang. Mối liên
quan, sự kết nối với các trang khác trong tờ báo cũng như hiệu quả thông tin
của chuyên trang.
- Khảo sát độc giả của tờ báo để đánh giá chất lượng thông tin
- Phỏng vấn các chuyên gia báo chí - cũng đồng thời là độc giả của tờ
báo về thông tin trên chuyên trang, lãnh đạo của tờ báo, đồng nghiệp trong cơ
quan… để thu thập ý kiến đánh giá và góp ý về nội dung và hình thức chuyên
trang hiện nay.
7

- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp cải tiến, nâng cao chất lượng nội
dung, hình thức chuyên trang… nhằm phát triển chuyên trang phù hợp với xu
thế mới của báo chí hiện đại.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Chuyên trang Nghề báo của báo Nhà báo và Công luận
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát trong thời gian 2 năm 2011 - 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp gồm các văn bản, tài liệu đã công bố.
- Khảo sát, tổng hợp, phân tích nội dung và hình thức chuyển tải thông
tin trên chuyên trang trong 2 năm 2011 - 2012.
Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu (phương pháp định tính) đối với 20

lãnh đạo, chuyên gia của một số cơ quan báo chí là độc giả của tờ báo; lãnh
đạo Hội Nhà báo Việt Nam, lãnh đạo báo Nhà báo và Công luận, các nhà báo,
các đồng nghiệp để nâng cao hiệu quả thông tin và định hướng phát triển
chuyên trang nói riêng và tờ báo Nhà báo và Công luận.
Đồng thời sẽ khảo sát điều tra trên 300 đối tượng độc giả để có được
cái nhìn khái quát nhất về mức độ quan tâm của độc giả tới chuyên trang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Về lý luận:
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đo
́
ng go
́
p, bô
̉
sung thêm vào hê
̣

thống ly
́
thuyết về chuyên trang chuyên m ục trên báo in, xu hướng phát triển
báo in trong xu thế truyền thông hội tụ ở Việt Nam hiện nay.
- Là tài liệu hữu ích để sinh viên báo chí tham khảo phục vụ học tập.
6.2. Về thực tiễn:
- Khẳng định sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả thông tin trên
chuyên trang, chuyên mục trên báo in trong xu thế mới nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của độc giả.
8

- Luận văn có những đóng góp đối với việc tổ chức nội dung cho tờ báo và
các vấn đề liên quan như: đẩy mạnh mạng lưới cộng tác viên cho chuyên trang,

chuyên mục; xây dựng và cải tiến chuyên trang đa dạng
- Đề xuất các giải pháp có tính định hướng chiến lược nhằm nâng cao
hiệu quả thông tin của tờ báo và hoạt động của tòa soạn để thu hút độc giả,
tăng lượng phát hành, quảng cáo - nhất là trong bối cảnh bão hòa thông tin và
những khó khăn thách thức mà báo in đang gặp phải hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung được
chia làm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết về thông tin và thông tin trên báo chí.
Chương 2: Thực trạng thông tin trên chuyên trang Nghề báo của báo
Nhà báo và Công luận năm 2011 - 2012.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển chuyên trang Nghề báo của báo
Nhà báo và Công luận.
Kết luận


9

Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN
VÀ THÔNG TIN TRÊN BÁO CHÍ
1.1 Khái niệm thông tin và thông tin báo chí
1.1.1 Khái niệm thông tin
Khái niệm thông tin được bắt nguồn từ chữ Latinh informetino, gốc
của từ tiếng Anh information. Hai tác giả Philippe Breton, Serge Proulx, trong
cuốn“Bùng nổ truyền thông: Sự ra đời một ý thức hệ mới giải thích rằng: Từ
Latin informatio, gốc của từ hiện đại “information” (thông tin), có hai hướng
nghĩa. Một, nó chỉ hành động rất cụ thể là tạo ra một hình dạng (forme). Hai,
tùy theo trạng huống, nó có nghĩa sự truyền đạt hoặc một ý tưởng, khái niệm
hay biểu tượng. Sự cùng chung sống của hai hướng nghĩa ấy, một nhằm vào

sự tạo lập cụ thể, một vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt, có vẻ tiêu biểu
cho sự phát minh của tiếng Latin [33, tr.38-39].
Có thể hiểu theo cách khác thì thông tin là sự phản ánh sự vật, sự việc,
hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt động của con người trong đời
sống xã hội. Điều cơ bản là con người thông qua việc cảm nhận thông tin làm
tăng hiểu biết cho mình và tiến hành những hoạt động có ích cho cộng đồng.
Thông tin được lưu trữ trên nhiều dạng vật liệu khác nhau như được khắc trên
đá, được ghi lại trên giấy, trên bìa, trên băng từ, đĩa từ Ngày nay, thuật ngữ
"thông tin" (information) được sử dụng khá phổ biến. Thông tin chính là tất
cả những gì mang lại hiểu biết cho con người. Con người luôn có nhu cầu thu
thập thông tin bằng nhiều cách khác nhau: đọc báo, nghe đài, xem truyền
hình, giao tiếp với người khác Thông tin làm tăng hiểu biết của con người, là
nguồn gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định.
Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tượng vốn có của
vật chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông
10

tin chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện
tượng được bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự
vật khác. Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh. Những dấu ấn để lại
chính là những thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất
khác. Phản ánh của vật chất là phản ánh thông tin, không có thông tin chung
chung mà thông tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Theo Từ điển tiếng Việt thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin
cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi cho biết, tin
truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin cao). Như vậy, thông tin được hiểu
theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội dung thông tin; Thứ hai, đó là
phương tiện thông báo, báo tin.
Còn trong khái niệm thông tin nêu trong phần mở đầu “Chiến lược phát
triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết định số

219/2005/QĐ – TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ: “Thông tin
được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để điều
hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng
giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi
mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội”. Đặc biệt,
Chiến lược phát triển thông tin đã nêu lên một luận điểm quan trọng về vai
trò của thông tin trong đời sống xã hội: Sự chênh lệch về trình độ phát triển
thông tin giữa các nước là một đặc điểm về quy mô và trình độ phát triển
trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ. Nước nào không vượt qua
được những thách thức về thông tin, nước đó mất cơ hội phát triển và có nguy
cơ mất khả năng tự chủ. Thiếu thông tin, sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra
các quyết định hoặc các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa học, không
thực tiễn và trở nên kém hiệu quả.
11

Theo cuốn “Cơ sở lí luận báo chí truyền thông” của tác Dương Xuân
Sơn, Đinh Văn Hương, Trần Quang thì, hiện nay khoa học đã phát triển đến
trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa học, thuật ngữ thông tin cũng có những
cách hiểu khác nhau khi sử dụng đến nó. Có thể phân biệt sự khác nhau giữa
ba lĩnh vực lớn có mối quan hệ hỗ trợ nhau trong truyền thông là truyền thông
đại chúng, viễn thông và tin học. Trong lĩnh vực truyền thông, hoạt động chủ
yếu dựa trên nội dung của các thông điệp, nhất là khi tiếp xúc với công chúng.
Người ta gọi là thông tin chất lượng. Trong lĩnh vực viễn thông, hoạt động
nhằm mục đích vận chuyển và bảo đảm tính chính xác của các thông điệp, đó
là tính tương tác của thông tin nhờ việc đưa vào mạng. Từ các yêu cầu về điều
kiện sản xuất trí tuệ dựa trên hình thái chính thức của các thông tin đã ra đời
bộ môn thông tin học. Có thể coi lĩnh vực này là cách xử lý thông tin phần
mềm, nghĩa là thông tin dưới hình thức số. Tóm lại, cùng sử dụng thuật ngữ
thông tin nhưng khái niệm thông tin của các nhà báo sử dụng lại hoàn toàn
khác với những khái niệm thông tin mà các nhà kĩ thuật viễn thông xử lí hoặc

thông tin mà các nhà tin học chế tạo.
Như vậy, có thể khái quát về khái niệm thông tin như sau: Thông tin là
khối lượng tri thức được sử dụng để tuyên truyền, phổ biến qua các phương
tiện kỹ thuật, các loại hình chuyển tải nhằm tác động đến những hành vi của
công chúng trong xã hội, định hướng dư luận xã hội, thực hiện chức năng
giám sát, quản lý để góp phần hoàn thiện, phát triển xã hội.
1.1.2. Thông tin báo chí
1.1.2.1. Khái niệm
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin, báo chí có cách
riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng
lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính
điều đó đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng
12

rộng rãi và năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có
được. Theo đó, thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ
hiện thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội được báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu,
khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới
công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là mục đích chủ yếu. Thông tin trở
thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo
phương thức thể hiện, người ta chia thông tin báo chí thành các loại hình:
Thông tin chủ yếu bằng chữ viết (báo in); thông tin chủ yếu bằng tiếng nói
(phát thanh); thông tin chủ yếu bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên
mạng internet (đa phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác
nhau: có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn;

có khi là một chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí
của tác phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay
cách xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin. Thuật ngữ “Thông
tin” trong hoạt động báo chí còn có cách hiểu rộng hơn, chúng còn được hiểu
như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống
những tin tức là thông tin.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức
của con người. Thông tin là một hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Theo
các nhà nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin được con người chú ý về mặt ý
nghĩa xã hội của nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những
năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Và từ đây, “Thông tin chính là những cái mới
khác với những điều đã biết”.
13

Hiện nay, đặc biệt trong thời đại “bùng nổ thông tin” Đảng và Nhà
nước ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của thông tin. Đây không chỉ
là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức, là một trong những công
cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nước mà còn là nơi để phản hồi
những thông tin từ nhân dân đối với đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hoá
trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công cụ cung cấp tri thức, dự báo
sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển. Đời sống nhân
dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao nên nhu cầu
thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn. Có thể nói, thông tin là
chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phương tiện kỹ thuật để
phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện chức năng thông
tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời
sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội. Và
do vậy, có một cách định nghĩa khác về thông tin như sau: Thông tin không

chỉ đơn giản là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo chí khi đã được
công chúng tiếp nhận.
Hoặc có thể đồng tình với định nghĩa: Thông tin là phần tri thức được
sử dụng để định hướng, tác động đến những hành động tích cực và quản lý xã
hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm, phẩm chất, sự hoàn thiện và
sự phát triển hệ thống” (Afanaxiep- Thông tin xã hội và định hướng xã hội,
Mátxcơva, 1975, tr.33).
1.1.2.2. Đặc điểm cơ bản của thông tin báo chí
Thông tin báo chí được thể hiện ở một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Thông tin thời sự
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Thời sự” được hiểu là toàn bộ sự việc ít nhiều
quan trọng vừa mới xảy ra, được nhiều người quan tâm. Theo đó, thông tin
thời sự có thể cắt nghĩa thành ba nét chính, một là, toàn bộ sự việc vừa mới
14

xảy ra; hai là, sự việc ít nhiều quan trọng, ba là, được nhiều người quan tâm.
Như vậy, thời sự có thể hiểu là những sự việc, sự kiện vừa mới xảy ra, nóng
hổi, liên quan đến nhiều người và có ý nghĩa ngày hôm nay, ngay bây giờ.
Tuy nhiên, cũng có những sự kiện xảy ra lâu rồi, nay mới biết và mới được
nhận thức lại, được nhiều người quan tâm.
Thông tin thời sự - thông tin sự kiện và vấn đề thời sự của báo chí là
nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức, nguyên tắc, kĩ năng, hành nghề của
nhà báo, cũng như nhận diện giá trị của tác phẩm báo chí. Chừng nào công
chúng tiếp cận sản phẩm báo chí với những thông tin sự kiện và vấn đề thời
sự nóng hổi, vừa thổi vừa ăn, được chắt lọc từ thực tiễn đời sống hàng ngày
góp phần tăng thêm nhận thức cho công chúng.
Có thể lấy hàng loạt các ví dụ gần đây nhất. Đó là sự kiện Chương trình
Chuyển động 24 – VTV đã tốn khá nhiều công sức mổ xẻ, bới móc một vụ
việc rất nhỏ, đó là đi tìm tuổi thật của cầu thủ Công Phượng ( tháng 10/2014).
Sự việc đang được dư luận quan tâm và thời gian qua tốn khá nhiều giấy mực

của giới truyền thông. Liên tục những bài viết, bình luận xung quanh việc nhà
Đài quốc gia thông tin vụ việc này, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền
riêng tư và đời sống của gia đình cầu thủ. Rất nhiều những bài viết đặt ra vấn
đề đạo đức người làm báo và những điều quá đà của VTV.
+ Tính công khai của thông tin báo chí
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, các phương tiện truyền
thông hiện đại đang là công cụ tốt nhất giúp cho báo chí truyền tải một lượng
thông tin khổng lồ đến với công chúng. Báo chí hướng tác động đến quảng
đại nhân dân, tác động vào số đông. Đó chính là tính công khai của thông tin
báo chí. Theo từ điển Tiếng Việt thì Công khai chính là “không giữ kín, mà để
cho mọi người có thể biết”.
15

Công khai trên báo chí chính là báo chí thông tin sự kiện, xã hội hóa sự
kiện. Sự kiện đó sẽ tác động vào nhận thức, thái độ và hành vi của hàng triệu
người, lay động, chi phối, thậm chí lũng đoạn hàng triệu người. Đó chính là
nguồn gốc quan trọng nhất tạo nên sức mạnh xã hội của báo chí. Do vậy, có
thể nói rằng, tính công khai tiềm ẩn sức mạnh của báo chí, bởi tính công khai
là căn nguyên tạo nên dư luận xã hội cũng như khả năng huy động nguồn lực
xã hội. Và nhờ sức mạnh từ tính công khai, báo chí vừa là công cụ vừa là lực
lượng xã hội trong sự gắn bó chặt chẽ với dư luận xã hội có thể tham gia hiệu
quả vào quá trình tổ chức, quản lý, giám sát và phản biện xã hội.
Tuy nhiên, sức mạnh của tính công khai trên báo chí phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Thứ nhất là, thông tin sự kiện có xác thực, đúng bản chất hay
không? Thông tin xác thực, đúng bản chất giúp công chúng hiểu được bản
chất sự việc và vấn đề thông tin. Thứ hai là thông tin có công khai nhiều chiều
không? Công khai thông tin nhiều chiều giúp công chúng nhìn nhận rõ bản
chất sự kiện và vấn đề thông tin, từ đó tỏ hành vi ủng hộ hay phản đối rõ ràng.
Thông tin một chiều, bản chất sự việc dễ bị vo tròn, bóp méo. Thứ ba là thông
tin sự kiện, phân tích vấn đề cần được tập hợp và phân tích dưới nhiều góc độ

khác nhau.
Tóm lại, vấn đề liên quan đến tính công khai của thông tin báo chí có ý
nghĩa rất quan trọng đối với nhà báo trong việc lựa chọn sự kiện và vấn đề
thông tin. Khai thác thông tin, phân tích sự kiện và vấn đề thời sự, thời điểm
thông tin của báo chí và phong cách văn hóa giao tiếp đại chúng trong quá
trình khơi nguồn phản ánh, định hướng và điều hòa dư luận xã hội; và trên hết
là kiến thức vốn sống thực tế của nhà báo, năng lực phân tích sự kiện pháp lý
– đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Vụ án oan gây chấn động dư luận thời gian vừa qua chính là sai phạm
tư pháp lớn nhất từ trước tới nay đang được “xới lại” – vụ án Nguyễn Thanh
16

Chấn (tháng 10/2014). Bị kết án tù chung thân, nhưng ông Nguyễn Thanh
Chấn vừa được trả tự do sau 10 năm ngồi tù oan vì có người khác ra đầu thú.
Ông cùng gia đình đang tiếp tục đòi bồi thường và nhiều thông tin được hé lộ
đằng sau câu chuyện xét xử, bức cung và những bản án oan sai…Việc báo chí
công khai, minh bạch những thông tin này đã giúp công chúng đánh giá sự
việc, sự kiện một cách chính xác nhất, trả lại uy tín, danh dự cho nhân vật.
+ Tính tương tác:
Trong truyền thông, tương tác có nghĩa là sự tác động, giao tiếp hai
chiều qua lại giữa chủ thể với khách thể truyền thông, giữa nhà truyền thông
với công chúng trong những điều kiện và vấn đề cụ thể nào đó. Một trong
những nguyên lý quan trọng của truyền thông là tương tác càng nhiều – tần
suất cao, tương tác bình đẳng bao nhiêu thì hiệu quả truyền thông càng cao.
Trong một khảo sát của một số nhà nghiên cứu, với 1.800 công chúng
trên cả nước năm 2013 cho thấy, nhu cầu tương tác đối với báo chí của công
chúng Việt Nam rất cao. Trong đó, khả năng tương tác tốt với công chúng của
truyền hình là cao nhất chiếm 62.8%, ngay sau đó là báo mạng với 48.7%,
báo in xếp vị trí thứ ba với 29.1% và cuối cùng là đài phát thanh chỉ chiếm
15.8%.


17

+ Tính đa chiều:
Thông tin nhiều chiều, nhiều góc độ tiếp cận của thông tin báo chí giúp
cho công chúng nhận thức sâu sắc hơn bản chất sự kiện bà vấn đề thực tiễn
đặt ra. Tất nhiên, thông tin nhiều chiều của báo chí còn phụ thuộc vào tư duy
và văn hóa chính trị, môi trường, văn hóa giao tiếp, mức độ dân chủ hóa đời
sống xã hội, cũng như năng lực và bản lĩnh nghề nghiệp của nhà báo.
1.2. Nâng cao chất lượng thông tin báo chí
1.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng thông tin báo chí
Nghiên cứu khái niệm thông tin báo chí được đặt trong mối quan hệ
trực tiếp với vấn đề hiệu quả báo chí, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin
đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức để họ có hành động đúng đắn.
Nâng cao chất lượng báo chí trong đời sống xã hội, mục tiêu cuối cùng là
quan tâm tới tính hiệu quả của thông tin. Hiệu quả của thông tin báo chí khi
được phát huy sẽ trở thành một sức mạnh to lớn, góp phần hình thành dư luận
xã hội, xây dựng hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội, biến nhận thức thành hành
động theo chiều hướng tích cực để góp phần cải tạo và xây dựng một xã hội
tốt đẹp.
Thực trạng thông tin báo chí ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh
những tác dụng tích cực về tính chất, nội dung, hình thức và loại hình, thì tình
trạng thiếu cân đối, vừa có sự chồng chéo về nội dung và phân bố lại vừa có
sự thiếu hụt ở một số lĩnh vực và địa bàn. Nhu cầu thông tin của một bộ phận
nhân dân chưa được đáp ứng đầy đủ, mức độ thụ hưởng thông tin của các
tầng lớp nhân dân không đồng đều. Ở một số lĩnh vực thông tin còn nặng yếu
tố phổ biến, truyền đạt, tính hai chiều và tính diễn đàn chưa được phát huy.
Mặt trái của cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu cực, làm nảy sinh
hiện tượng giật gân, câu khách, không phù hợp với định hướng tư tưởng,
chính trị và truyền thống văn hoá dân tộc.

18

Ngày 31/01/2008, tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có buổi
gặp gỡ báo chí đầu Xuân Mậu Tý 2008, do Văn phòng Chính phủ tổ chức. Thủ
tướng yêu cầu báo chí trong điều kiện cạnh tranh thông tin quyết liệt phải cố
gắng vươn lên, cung cấp thông tin mau lẹ, kịp thời, chính xác, sắc sảo, đáp ứng
nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự điều hành của Chính phủ. Thủ tướng
mong muốn, thời gian tới, báo chí nước nhà có nhiều tin, bài phong phú về thể
loại, nội dung có giá trị cao hơn, đi vào lòng người, góp phần định hướng, điều
chỉnh hành vi xã hội của người dân cũng như định hướng dư luận xã hội. Báo chí
phát triển nhanh về số lượng song cũng phải đáp ứng tốt yêu cầu về chất lượng,
đủ sức cạnh tranh và có uy tín trong và ngoài nước. Báo chí không được tự mãn
với kết quả đạt được mà phải không ngừng nâng cao chất lượng thông tin hơn
nữa, có tác dụng chính trị, xã hội tốt hơn.
Việc nâng cao chất lượng thông tin báo chí trước hết xuất phát từ yêu
cầu tự thân của hoạt động báo chí. Đặc biệt yêu cầu này càng thêm bức thiết,
nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin và bối cảnh quốc tế và trong nước tạo
ra thời cơ lớn, đồng thời cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt cho
lĩnh vực thông tin nước ta hiện nay. Trước yêu cầu mới của sự phát triển, tất
cả các loại hình thông tin báo chí đều hướng tới một mục tiêu chất lượng cao,
coi trọng chất lượng chính trị, chất lượng văn hoá, chất lượng khoa học và
chất lượng nghiệp vụ của thông tin. Thông tin phải đảm bảo tính chân thật,
tính giáo dục, tính nhân dân, tính chiến đấu, phù hợp với lợi ích của đất nước
và của nhân dân; phải góp phần quan trọng trong việc cung cấp tri thức, nâng
cao dân trí, hình thành và định hướng dư luận xã hội lành mạnh; tăng cường
sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng chính trị và tinh thần trong nhân dân; biểu
dương các nhân tố mới điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh phê phán các
quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng và các tệ
nạn xã hội; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hoá

×