Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

HIỆN TRẠNG TAI BIẾN TRƯỢT LỞ ĐẤT ĐÁ TRÊN MỘT SỐ TUYẾN ĐƯỜNG GIAO THÔNG Ở TỈNH CAO BẰNG VÀ VÙNG PHỤ CẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.67 KB, 14 trang )

HIỆN TRẠNG TAI BIẾN TRƯỢT LỞ ĐẤT ĐÁ
TRÊN MỘT SỐ TUYẾN ĐƯỜNG GIAO THÔNG
Ở TỈNH CAO BẰNG VÀ VÙNG PHỤ CẬN
UÔNG ĐÌNH KHANH, LÊ ĐỨC AN, LẠI HUY ANH,
VÕ THỊNH, TỐNG PHÚC TUẤN, NGUYỄN NGỌC THÀNH
Viện Địa lý, Viện KH&CN VN, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Tóm tắt: Trượt lở đất đá là một dạng tai biến tự nhiên xảy ra tương đối phổ biến ở vùng
đồi núi Việt Nam, đặc biệt dọc theo các tuyến đường mới được xây dựng, các tuyến đường
đang được mở rộng hoặc nắn thẳng. Hậu quả của trượt lở đất đá dẫn đến vùi lấp đường
giao thông, đe dọa cuộc sống của các khu dân cư dọc theo tuyến đường và dưới chân các
sườn dốc.
Trên cơ sở các kết quả khảo sát thực địa, phân tích bản đồ địa hình, ảnh vệ tinh và các tài
liệu liên quan, bài báo đã phân tích hiện trạng trượt lở của 8 tuyến đường, trong đó đáng
quan tâm là đoạn đường Nam Đèo Gió, nơi có nguy cơ vùi lấp 50 hộ dân. Bài báo cũng đã
phân tích các nguyên nhân về địa chất, địa mạo, tân kiến tạo và nhân sinh tác động đến
trượt lở đất đá trong vùng, đồng thời đề xuất một số giải pháp phòng tránh, khắc phục.

I. MỞ ĐẦU
Cao Bằng là một tỉnh miền núi biên giới thuộc Đông Bắc Bộ. Phía bắc và đông bắc giáp
Trung Quốc với đường biên giới dài 314 km; phía tây giáp Hà Giang; phía nam là Bắc Kạn
và phía đông nam là Lạng Sơn. Chiều dài của tỉnh từ đông sang tây là 170 km, từ nam lên
bắc 50-60 km. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 6690,72 km
2
, dân số 514.600 người (Niên
giám thống kê năm 2005) và được phân thành 11 huyện và 1 thị xã.
Địa hình chủ yếu gồm các núi trung bình và núi thấp có độ cao từ 300 đến gần 2000 m,
trong đó độ cao phổ biến từ 600 đến 900 m, bị phân dị, chia cắt mạnh mẽ và chịu tác động phá
huỷ bởi một loạt các đới đứt gãy kiến tạo hiện đại như: đới đứt gãy Cao Bằng - Tiên Yên, đới
đứt gãy sông Bắc Vọng, đới đứt gãy sông Quây Sơn, đới đứt gãy Tổng Cọt - Trà Lĩnh, v.v…
Các tuyến đường đi qua nhiều dạng địa hình khác nhau, nhiều đoạn phải san gạt, làm mất chân
hoặc bạt các mái dốc tự nhiên, có những đoạn phải tôn bằng đất đắp; phổ biến hơn cả là cắt xẻ


vào các sườn dốc tạo các vách dương có độ dốc lớn. Tất cả những tác động nói trên đã dẫn đến
hình thành nhiều khối trượt dọc theo các tuyến đường trong tỉnh, gây thiệt hại nhiều về tài sản.
Vào tháng 6/2005 [1], mưa lớn đã gây sạt lở đất trên các tuyến đường giao thông liên
huyện, liên xã của tỉnh Cao Bằng. Tuyến quốc lộ 34 từ thị xã Cao Bằng đi qua các huyện
Nguyên Bình, Bảo Lạc và Bảo Lâm đã bị sạt lở vách đường, sụt nền đường, thiệt hại ước tính
4,6 tỷ đồng. Các tuyến tỉnh lộ 205, 206, 207, 211, 212 cũng bị sạt lở vách, giá trị thiệt hại 2,5
tỷ đồng. Kè chống xói lở trên tuyến đường liên xã từ xã Hoa Thám đến xã Hưng Đạo (huyện
Nguyên Bình) dài gần 100 m bị hỏng nặng, ước tính thiệt hại đến 500 triệu đồng. Cũng trong
năm 2005 [1], các công trình giao thông trên địa bàn toàn tỉnh bị sạt lở một khối lượng đất đá
rất lớn, khoảng 160.000 m
3
, và trong 9 tháng đầu năm 2006 [2], khối lượng sạt lở gần 120.000
m
3
và làm trôi 41 cầu dân sinh.
Tháng 10/2006 và tháng 4/2007, các tác giả đã tiến hành hai đợt khảo sát thực địa về tai
biến trượt lở đất, tai biến lũ quét, lũ bùn đá trong tỉnh Cao Bằng và vùng phụ cận. Bài báo này
giới thiệu một số kết quả nghiên cứu về hiện trạng và nguyên nhân trượt lở đất trên một số
tuyến đường giao thông của tỉnh Cao Bằng và vùng phụ cận.
II. HIỆN TRẠNG TRƯỢT LỞ ĐẤT ĐÁ DỌC THEO MỘT SỐ TUYẾN ĐƯỜNG CỦA
TỈNH CAO BẰNG VÀ VÙNG PHỤ CẬN
Hiện trạng trượt lở đất đá trên một số tuyến đường giao thông trong phạm vi tỉnh Cao
Bằng và vùng phụ cận thể hiện trên các tuyến đường sau:
1. Tuyến tỉnh lộ 206 từ Trùng Khánh đi Hạ Lang dài 68 km: Tai biến trượt lở đất đá xảy ra
chủ yếu trên đoạn đường đi qua các xã Minh Long, Lý Quốc và Đồng Loan của huyện Hạ
Lang với chiều dài khoảng 18 km. Đoạn đường này đi trong thung lũng kiến tạo hẹp nằm ở
mực địa hình thấp có độ cao tuyệt đối khoảng 500-600 m, trùng với hệ thống đứt gãy
phương TB-ĐN của đới đứt gãy sông Quây Sơn. Đoạn đường đi bên cánh của nhân nếp lồi
cổ Hạ Lang trên nền đá gốc là trầm tích lục nguyên cuội kết, cát kết, bột kết, đá phiến sét
của hệ tầng Sông Cầu (D

1
sc) và trên đá vôi sét, đá silic của hệ tầng Nà Quản (D
1-2
nq) [6].
Trên đoạn đường này đã thống kê được 40 điểm trượt lở với hình thức trượt xoay xảy ra
chủ yếu trong lớp vỏ phong hoá dày. Kích thước của các khối trượt trên tuyến đường này
cũng khác nhau, nhưng nhìn chung có quy mô nhỏ. Chiều rộng của các khối trượt khoảng
20-25 m, cao 20-30 m, cắt sâu vào sườn 2-3 m. Các khối trượt xảy ra chủ yếu trên vách
dương của đuờng với độ dốc 40-50
o
và xảy ra trong lớp vỏ phong hoá bị phá huỷ, vò nhàu,
vỡ vụn.
2. Tuyến tỉnh lộ 207 từ Quảng Uyên đi Hạ Lang dài khoảng 33 km: Tuyến đuờng đi chủ yếu
trong thung lũng đá vôi nằm ở cao độ khoảng 400 m trên nền đá vôi sét, đá silic của hệ tầng Nà
Quản (D
1-2
nq). Riêng ở đoạn đèo Khau Mon, đường đi trên bề mặt sườn núi đất thấp ở độ cao
550-600m chạy qua nhân nếp lồi Hạ Lang, được cấu tạo bởi cát bột kết, cát kết, đá phiến sét
vôi xen thấu kính đá vôi của hệ tầng Thần Sa (ε
3
ts). Tại tuyến đường này đã thống kê được
khoảng 20 điểm trượt lở đất, một số điểm có cả nứt đất đi kèm [3]. Các điểm trượt lở đất xảy
ra chủ yếu trên địa phận các xã Độc Lập, Cai Bộ (Quảng Uyên), An Lạc và Thanh Nhật (Hạ
Lang). Tại đoạn đèo Khau Mon thuộc địa phận bản Nà Pheo, xã Độc Lập, trượt lở đất xảy ra
theo kiểu trượt xoay trong lớp vỏ phong hoá vụn thô dày 10-15 m, với sản phẩm là đất đá bị
phá huỷ vò nhàu mạnh. Kích thước các khối trượt tuy không lớn, nhưng xảy ra trên vách
dương của đường đèo dốc nên gây hậu quả nghiêm trọng, vùi lấp nhiều đoạn đường. Hiện đã
được khắc phục bằng kè tường đá phản áp. Các điểm trượt lở xảy ra ở các xã An Lạc, Thanh
Nhật (Hạ Lang), nơi có địa hình sườn dốc không lớn, nhưng tầng phong hoá dày, đất đá bở rời
dễ thấm nước nên khi mưa lớn có nguy cơ trượt lở rất cao.

3. Tuyến tỉnh lộ 208 đoạn Đông Khê - Phục Hoà dài 25 km: Quan sát được khoảng 30 điểm
trượt lở đất tập trung ở các xã Lê Lai (Thạch An), Mỹ Hưng và Đại Sơn (Phục Hoà). Đường đi
chủ yếu trên sườn núi có độ dốc lớn >50
o
, lại nằm ở bậc độ cao 550-600 m, đường quanh co,
gấp khúc chạy trên nền cát kết thạch anh, cát bột kết, đá phiến sét vôi bị biến chất của hệ tầng
Thần Sa (ε
3
ts), bột kết, cát kết, đá phiến sét của hệ tầng Lược Khiêu (D
1
lk) và đá vôi sét-silic
của hệ tầng Nà Quản (D
1-2
nq). Trượt lở đất đá theo kiểu trượt xoay và trượt phẳng, xảy ra
mạnh, vùi lấp nhiều đoạn đường, gây ách tắc giao thông.
4. Tuyến tỉnh lộ 211 từ thị trấn Trùng Khánh đi thị trấn Trà Lĩnh dài khoảng 30 km: Đường đi
chủ yếu trong thung lũng đá vôi nằm ở độ cao khoảng 500-550 m, một số đoạn vượt qua
đèo đá vôi cao 700-750 m, một số đoạn đi trên sườn núi đất. Nền địa chất của tuyến đường
là đá vôi, sét vôi của hệ tầng Tốc Tát (D
3
tt) và hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs); bột kết, cát kết, đá
phiến sét của hệ tầng Lược Khiêu (D
1
lk). Trên tuyến đường này đã thống kê được gần 30
điểm trượt lở đất tại các xã Xuân Nội, Quang Trung, Hùng Quốc (Trà Lĩnh), xảy ra trong lớp
vỏ phong hoá bột kết, cát kết, phiến sét của hệ tầng Lược Khiêu. Đối với vỏ phong hoá đất
đỏ hình thành từ đá vôi, rất hiếm gặp hiện tượng trượt lở đất đá.
5. Tuyến quốc lộ số 3 từ Cao Bằng đi Quảng Uyên dài 20 km: Ghi nhận được khoảng 20 điểm
trượt lở tại các xã Nguyễn Huệ (Hoà An) và Quốc Toản (Trà Lĩnh). Các điểm trượt đều có quy
mô nhỏ, xảy ra trong lớp vỏ phong hoá vụn thô và không gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động

giao thông của đoạn đường này.
6. Tuyến quốc lộ 4A, đoạn Cao Bằng đi Đông Khê dài 45 km: Đường đi trong thung lũng
kiến tạo hẹp có phương TB-ĐN của đới đứt gãy Cao Bằng - Tiên Yên với bề mặt đáy thung
lũng nằm ở độ cao 250-300 m. Địa hình xung quanh chủ yếu là núi đất thấp có độ cao 500-600
m. Đây là đới phá huỷ kiến tạo mạnh, đất đá bị vò nhàu, biến vị mạnh mẽ. Nền địa chất của
tuyến đường là các thành tạo ryolit porphyr, spilit, cuội kết tuf, cát kết tuf của hệ tầng Sông
Hiến (T
1
sh). Tại các xã Thái Cường, Lê Lai, thị trấn Đông Khê, đường đi trên nền đá vôi, vôi
sét, đá vôi silic của hệ tầng Nà Quản (D
1-2
nq), bị xiết ép vò nhàu mạnh. Đường đang trong giai
đoạn cải tạo nâng cấp, xuất hiện một loạt các điểm trượt lở đất dọc hai bên đường, tập trung ở
xã Thái Cường (10 điểm) và ít hơn, ở xã Kim Đồng (4 điểm). Trượt lở xảy ra trên các vách
dương dạng trượt xoay trong lớp vỏ phong hoá bở rời với quy mô không lớn (Ảnh 1). Do
tính chất và qui mô của các điểm trượt nhỏ nên không gây ảnh hưởng nặng nề đến đường
giao thông và đời sống của cư dân hai bên đường. Cũng trên tuyến đường này, tại phường
Tân Giang (thị xã Cao Bằng), hoạt động xói lở bên bờ phải sông Bằng Giang đã làm sập
một số nhà dân nằm trên rìa thềm của sông và có nguy cơ cắt xẻ vào nền đường.
7. Tuyến quốc lộ 34 từ thị xã Cao Bằng đi thị trấn Pác Miều, Bảo Lâm dài 170 km: Xuất hiện
nhiều điểm trượt lở dọc theo tuyến đường, tập trung tại các đoạn thị trấn Nguyên Bình - thị
trấn Tĩnh Túc, ngã ba Cao Sơn đi Bản Khuông và đoạn từ Nà Phòng đi Mông Ân.
- Từ thị trấn Nguyên Bình đi Tĩnh Túc dài 10 km, đường chủ yếu đi trên đèo Pắc Bó ở
độ cao 850-900 m, đường quanh co uốn khúc, xác định được hơn 10 điểm trượt lở tại các
vách dương của đường. Trượt lở đất dạng trượt khối trong lớp vỏ phong hoá hình thành từ
cát bột kết, sét kết của hệ tầng Sông Hiến (T
1
sh).
- Từ ngã ba Cao Sơn đi Bản Khuông, đường đi dọc theo bờ phải sông Nheo trên độ cao
khoảng 300 m. Dọc đoạn này, nguy cơ trượt lở đất rất cao. Cụ thể tại bản Riềm và bản Cốc

Hoà, xã Hưng Đạo (huyện Bảo Lạc), trên đoạn đường dài khoảng 1 km, hiện tượng sạt lở
và trượt lở đất trên sườn khiến cho 70 hộ dân sống tại đây (30 hộ bản Riềm, 40 hộ bản Cốc
Hoà) phải chuẩn bị dời đi nơi khác. Trường tiểu học của xã Hưng Đạo ngay sát QL.34 nằm
trên thân một khối trượt đang hoạt động, hiện bị nứt tường và có nguy cơ bị sập nhà dẫn
tới tình trạng trường không sử dụng được. Khu chợ của xã nằm ngay sát đường giao thông
cũng ở trong tình trạng bị đe doạ vùi lấp khi trượt trên sườn đổ xuống. Ngoài ra, khối trượt
lở lớn tại vách dương ven đường ở Bản Khuông (xã Hồng Trị, Bảo Lạc) đã đưa một lượng
lớn đất đá khoảng 100.000 m
3
vùi lấp tuyến đường và có nguy cơ chặn dòng chảy của sông
Nheo nằm dưới vách âm (Ảnh 2).
- Từ Nà Phòng đi Mông Ân, dài khoảng 30 km, đường đi dọc thung lũng bên bờ trái
sông Gâm, với vách dương là sườn núi đất dốc xen với các vách núi đá
vôi dựng đứng. Đoạn này đang được cải tạo, nâng cấp mở rộng mặt đường nên cắt xẻ sâu
vào sườn tạo các vách rất dốc. Tại đoạn đường này đã thống kê được 20 khối trượt, xảy ra
trong lớp vỏ phong hoá vụn thô vùi lấp đuờng. Ngoài ra, dọc theo đoạn này còn gặp 3 điểm
trượt lở từ vách đá vôi, gây ách tắc giao thông cục bộ.

Ảnh 1. Trượt lở đất trong lớp vỏ phong hoá của hệ tầng Sông Hiến trên tuyến đường 4A qua xã
Thái Cường, Thạch An.
Ảnh 2. Trượt xoay trong lớp vỏ phong hoá chưa hoàn toàn xảy ra trên vách dương QL.34, đoạn Bản
Khuông, Hồng Trị, Bảo Lạc.
8. Tuyến QL.3, phía nam đèo Gió, dài khoảng 7 km: Thống kê được 15 điểm trượt lở bao
gồm cả các thân khối trượt đất cổ nằm trên sườn núi và các thân trượt mới trên các vách
dương và vách âm của đoạn đường này. Trên đoạn đường đi trên sườn núi, đường đèo dốc
quanh co uốn lượn theo địa hình có độ cao thay đổi đột ngột từ khoảng 350 m ở chân đèo
lên đến 800 m ở đỉnh đèo. Nền địa chất của tuyến dường là sét bột kết, đá phiến sét, đá
phiến sét vôi và đá vôi của hệ tầng Mia Lé (D
1
ml) cùng với sự phân bố của các thành tạo

xâm nhập granit, granit hai mica của phức hệ Ngân Sơn (γD
3
ns). Đoạn đường lại đi trùng
với hệ đứt gãy nhỏ trong vùng có phương á vĩ tuyến, bị tác động dịch chuyển bởi các đứt
gãy nhỏ có phương á kinh tuyến [4], khiến cho đất đá bị cà nát vỡ vụn, dẫn đến nguy cơ
trượt lở đất rất cao, đe doạ tới cuộc sống của người dân nơi đây (Hình 1). Các dạng tai biến
trượt lở đất đá khá đa dạng bao gồm: trượt phẳng xảy ra trong môi trường đá cứng có các
bề mặt phân lớp, phân phiến, khe nứt của đá phiến sét-silic, đá phiến sét vôi của hệ tầng
Mia Lé; trượt dạng nêm xảy ra dọc nơi giao nhau của hai bề mặt trượt phân lớp có lực dính
kết yếu và trượt hỗn hợp trong môi trường xảy ra trong môi trường nửa đất, nửa đá, giữa
lớp vỏ phong hoá mạnh nằm trên nền đá gốc phong hoá yếu.
- Ngay cách chân cầu Bản Mạch khoảng 200 m về phía đông, dọc theo tuyến đường
xuất hiện khối trượt lớn trên vách dương (tọa độ 22
o
23

478 và 105
o
55

674) có cung trượt
rộng 200 m, chiều cao thân trượt 30 m. Trượt lở xảy ra mang tính hỗn hợp bao gồm trượt
xoay xảy ra trong lớp vỏ phong hoá dày và trượt phẳng xảy ra trên mặt lớp của đá phiến sét
silic và trượt dạng nêm xảy ra tại nơi giao nhau giữa hai bề mặt trượt của hai khối trượt
nằm liền kề nhau. Đường phương và góc dốc của bề mặt trượt trong đá phiến sét là 160-
190
o
∠35
o
. Thành phần vật chất của khối trượt khá hỗn tạp bao gồm các tảng, mảnh dăm

vụn của đá phiến sét lẫn với đất đá của lớp vỏ phong hoá. Một khối lượng lớn vật chất của
khối trượt ước tính khoảng 30.000 m
3
đã lấp xuống tuyến đường đã được thu dọn đổ xuống
phần vách âm. Khối trượt này vẫn đang đe doạ tiếp tục trượt lở xuống vùi lấp tuyến đường
khi có mưa lớn.
- Tại toạ độ 22
o
23

870 và 105
o
55

838, cách cầu Bản Mạch về phía đông bắc khoảng 800
m, trượt lở đất xuất hiện ở khúc quành tay áo ngay trên bề mặt nền đường. Khối trượt xảy

×