Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thực trạng chi thường xuyên ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.83 KB, 23 trang )

I. Tổng quan về quản lý chi thường xuyên
1. Khái niệm, đặc điểm, và vai trò chi thường xuyên ngân sách nhà nước
1.1. Khái niệm
Chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực tài chính của
nhà nước nhằm trang trải những nhu cầu của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị xã hội thuộc khu vực công, qua đó thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước ở
các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin
thể dục thể thao khoa học và công nghệ môi trường và các hoạt động sự nghiệp
khác. Nói tóm lại, thì chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân
sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường
xuyên của nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội.
1.1.1. Phân loại chi thường xuyên
- Căn cứ vào tính chất kinh tế
Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm cụ thể như sau:
- Nhóm các khoản chi thanh toán cho cá nhân gồm: tiền lương; phụ cấp lương;
học bổng học sinh, sinh viên; phúc lợi tập thể; chi về công tác người có công với
cách mạng và xã hội; chi lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội; các khoản
thanh toán khác cho cá nhân.
- Nhóm các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn gồm: thanh toán dịch vụ công
cộng; vật tư văn phòng; thông tin tuyên truyền liên lạc; hội nghị; công tác phí;
chi phí thuê mướn; chi sửa chữa thường xuyên; chi phí nghiệp vụ chuyên môn
của từng ngành.
- Nhóm các khoản chi mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định và xây dựng nhỏ
gồm: sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ chuyên môn và các công trình cơ sở hạ
tầng; chi mua tài sản vô hình; mua sắm tài sản dùng cho công tác chuyên môn.
- Nhóm các khoản chi thường xuyên khác gồm: các mục của mục lục ngân sách
nhà nước không nằm trong 3 nhóm mục trên và các mục từ 147 đến mục 150 thuộc
khoản chi thường xuyên trong mục lục ngân sách nhà nước
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi cụ thể sau:
+ Chi cho sự nghiệp kinh tế: Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế


nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, quản lý KT-XH và tạo
điều kiện cho các ngành kinh tế hoạt động và phát triển một cách thuận lợi. Mục
đích hoạt động của đơn vị sự nghiệp kinh tế không phải là kinh doanh lấy lãi, do
vậy ngân sách nhà nước cần dành một khoản chi đáp ứng hoạt động của các đơn vị
này. Chi sự nghiệp kinh tế gồm:
• Chi sự nghiệp nông nghiệp, sự nghiệp thủy lợi, sự nghiệp
ngư nghiệp, sự nghiệp lâm nghiệp, giao thông, kiến thiết
thị chính và sự nghiệp kinh tế công cộng khác.
• Chi điều tra cơ bản, đo đạc địa giới hành chính các cấp.
1
• Chi về bản đồ, đo đạc cắm mốc biên giới, đo đạc lập bản
đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính.
• Chi định canh định cư và kinh tế mới
+ chi sự nghiệp văn hóa xã hội: chi sự nghiệp giáo dục đào tạo; chi sự nghiệp
y tế, sự nghiệp văn hóa thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp phát thanh, truyền
hình; sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường; sự nghiệp xã hội, sự nghiệp
văn xã khác.
+Chi quản lý hành chính: là các khoản chi cho hoạt động của các cơ quan
HCNN thuộc bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương.
Chi về hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chi về hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội: Bao gồm: mặt trận tổ quốc Việt
Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội CCB Việt
Nam, Hội LHPN, Hội nông dân Việt Nam.
Đối với nước ta, các tổ chức trên là các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước
ta, do vậy theo quy định của luật NSNN, NSNN có trách nhiệm bố trí chi ngân sách
đảm bảo hoạt động của các tổ chức này.
+ Chi trợ giá theo chính sách của nhà nước
+ chi các chương trình quốc gia.
+ Chi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội
+ Chi tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định của

pháp luật.
+Chi trả lãi tiền cho nhà nước vay.
+ chi viện trợ cho các chính phủ và các tổ chức nước ngoài.
+ các khoản chi khác theo quy định của Pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của chi thường xuyên
- nguồn lực Tài chính trang trải cho các khoản chi thường xuyên được phân bố
tương đối đều giữa các quý trong năm, giữa các tháng trong quý, giữa các
năm trong kỳ kế hoạch.
- Việc sử dụng kinh phí thường xuyên chủ yếu chi cho con người, sự việc nên
nó không làm tăng thêm tài sản hữu hình của quốc gia.
- Hiệu quả của chi thường xuyên không thể đánh giá, xác định cụ thể như chi
cho đầu tư phát triển. hiệu quả của nó không đơn thuần về mặt kinh tế mà
được thể hiện qua sự ổn định chính trị - xã hội từ đó thúc đẩy sự phát triển
bền vững của đất nước.
- Đặc điểm trên cho thấy vai trò chi thường xuyên có ảnh hưởng rất quan trọng
đến đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia.
1.1.3. Nội dung chi thường xuyên
- Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao.
- Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí.
- Chi cho các hoạt động dịch vụ(kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với ngân sách
nhà nướ, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi tiền vay
theo quy định của pháp luật).
2
Các khoản chi thường xuyên có thể được phân chia thành các nhóm :
- các khoản chi thanh toán cho cá nhân: tiền lương, tiềng công, phụ cấp lương,
các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản
thanh toán khác cho cá nhân theo quy định.
- Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn: chi thanh toán dịch vụ công cộng; chi
thuê mướn; chi vật tư văn phòng, chi công tác phí, chi các khoản đặc thù; chi
sửa chữa thường xuyên tài sản cố định phục vụ công tác chuyên môn; chi

đoàn ra đoàn vào.
- Chi mua sắm tài sản, trang thiết bị, phương tiện vật tư không theo các
chương trình dự án sử dụng nguồn kinh phí thường xuyên.
- Các khoản chi thường xuyên khác.
- Các khoản chi phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí theo quy định, bao
gồm: chi choi lao động trực tiếp thu phí, lệ phí, (các khoản tiền lương, tiền công,
các khoản đóng góp theo lương), trích quý t
1.1.4.Vai trò của chi thường xuyên
Chi thường xuyên có vai trò trong nhiệm vụ chi của NSNN.chi thường
xuyên đã giúp cho bộ máy nhà nước duy trì hoạt động bình thường để thực hiện tốt
chức năng QLNN; đảm bảo an ninh, an toàn xã hội , đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia
Thực hiện tốt nhiệm vụ chi thường xuyên còn có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc phân phối và sủ dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của đất nước, tạo
điều kiện giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chi thường xuyên
hiệu quả và tiết kiệm sẽ tăng tích lũy vốn NSNN để chi cho đầu tư phát triển, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, nâng cao niềm tin của nhân dân vào vai trò quản lý điều
hành của nhà nước.
1.1.5. Các nguyên tắc quản lý chi thường xuyên của NSNN
Nguyên tắc quản lý theo dự toán: Dự toán là khâu mở đầu của một chu trình
NSNN. Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi vào dự toán chi và đã
được cơ quan quyền lực Nhà nước xét duyệt được coi là chi tiêu pháp lệnh. Xét
trên giác độ quản lý, số chi thường xuyên đã được ghi trong dự toán thể hiện sự
cam kết của cơ quan chức năng quản lý tài chính nhà nước với các đơn vị thụ
hưởng NSNN, từ đó nảy sinh nguyên tắc quản lý chi thường xuyên theo dự toán.
Nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả: tiết kiệm, hiệu quả là một trong những nguyên
tắc quan trọng hành đầu của quản lý kinh tế, tài chính, bởi lẽ nguồn lực thì luôn có
giới hạn nhưng nhu cầu thì không có giới hạn. do vậy, trong quá trình phân bổ và
sử dụng nguồn lực khan hiếm đó luôn phải tính toán sao cho với chi phí ít nhất
nhưng phải đạt được kết quả cao nhất.

Mặt khác do đặc thù hoạt động NSNN diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và
phức tạp. nhu cầu chi từ NSNN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng
huy động nguồn thu có hạn, Nên càng phải tôn trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả
trong quản lý chi thường xuyên của NSNN.
3
Nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước: Một trong những chức năng
quan trọng của kho bạc nhà nước là quản lý quỹ NSNN. Vì vậy, kho bạc nhà nước
vừa có quyền, vừa có trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi ngân sách
nhà nước, đặc biệt là các khoản chi thường xuyên. Để tăng cường vai trò của
KBNN trong kiểm soát chi thường xuyên của NSNN, hiện nay ở nước ta và đang
thực hiện việc chi trực tiếp qua KBNN như là một nguyên tắc trong quản lý khoản
chi này.
Để thực hiện được nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước cần phải
giải quyết tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát trước,
trong và sau quá trình cấp phát, thanh toán. Các khoản chi phải có trong dự toán
NSNN được duyệt, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy
định và phải được thủ trưởng đơn vị sử dụng kinh phí NSNN hoặc người được ủy
quyền quyết định chi
Thứ hai, tất cả các cơ quan đơn vị, các chủ dự án,… sử dụng kinh phí NSNN
(gọi chung là ĐVSD ngân sách nhà nước) phải mở tài khoản tại kho bạc nhà nước;
chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan, tổ chức, kho bạc nhà nước trong quá trinh
lập dự toán, phân bổ dự toán, cấp phát thanh toán, hạch toán kế toán và quyết toán
NSNN.
Thứ ba, Bộ tài chính, Sở tài chính – vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, phòng tài chính kế hoạch quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là các cơ quan tổ chức) có trách nhiệm thẩm định dự toán và thông báo dự
toán đã được thẩm tra cho các đơn vị thụ hưởng kinh phí ngân sách; kiểm tra việc
sử dụng kinh phí, xét duyệt quyết toán chi của các đơn vị và tổng hợp quyết toán
chi NSNN.

Thứ tư, KBNN có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, điều kiện chi
và thực hiện cấp phát, thanh toán kịp thời các khoản chi NSNN theo đúng qui định;
tham gia với các CQTC, cơ quan QLNN có thẩm quyền trong việc kiểm tra tình
hình sử dụng NSNN và xác định số thực chi NSNN. KBNN có quyền tạm đình chỉ,
từ chối thanh toán, chi trả và thông báo cho các ĐVSD NSNN biết đồng gửi cho
CQTC đồng cấp giải quyết trong các trường hợp sau:
- Chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được duyệt.
- Chi không đúng chế độ, định mức chi tiêu tài chính nhà nước.
- Không đủ các điều kiện về chi theo qui định.
Thứ năm, mọi khoản chi NSNN được hạch toán bằng đồng Việt Nam theo
từng niên độ NS, từng cấp NS và MLNSNN. Các khoản chi NSNN bằng ngoại tệ,
hiện vật, ngày công lao động được qui đổi và hạch toán bằng đồng Việt Nam theo
tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày công lao động do cơ
quan có thẩm quyền qui định.
Thứ sáu, trong quá trình quản lý, cấp phát, quyết toán chi NSNN, các
khoản chi sai phải thu hồi giảm chi. Căn cứ vào quyết định của CQTC hoặc
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, KBNN thực hiện việc thu
4
hồi giảm chi NSNN.
1.1.6. Vai trò của KBNN trong quá trình kiểm soát chi thường xuyên
Ngân sách nhà nước
Đứng trên giác độ trong thực tiễn KBNN là người xuất quỹ NS thì chi NSNN
là việc sử dụng quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước,
phát triển KT-XH, cho an ninh quốc phòng, cho phúc lợi công cộng, cho an sinh
theo các nhiệm vụ mà NSNN phải trang trải bằng các hình thức tổ chức chi thích
hợp nhằm qua đó đảm bảo cho các khoản chi NS đáp ứng yêu cầu đúng mục đích,
tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó, trong quá trình thực hiện kiểm soát chi NSNN, nếu
phát hiện được các vi phạm chính sách, chế độ quản lý tài chính, KBNN có quyền
từ chối thanh toán. KBNN chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lệ của việc xuất
tiền. Vì vậy, KBNN phải kiểm tra việc sử dụng kinh phí NSNN cấp cho các đơn vị,

tổ chức kinh tế, bảo đảm đúng mục đích, đúng chế độ định mức chi tiêu của nhà
nước. Công việc kiểm tra đó được KBNN thực hiện thông qua việc xem xét các hồ
sơ, tài liệu chi thường xuyên NSNN trên các phương diện như dự toán NS được
duyệt thẩm quyền chuẩn chi, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi của nhà nước. Trong
quá trình kiểm tra, nếu phát hiện thấy cơ quan, đơn vị,10 tổ chức kinh tế sử dụng
kinh phí được NSNN cấp không đúng mục đích, không có hiệu quả hoặc không
đúng chế độ, chính sách của nhà nước thì KBNN từ chối cấp phát, thanh toán. Như
vậy, trong quá trình quản lý và điều hành NSNN, KBNN không thụ động thực hiện
theo các lệnh của CQTC, hoặc đơn vị thụ hưởng NS một cách đơn thuần. Ngược
lại, KBNN hoạt động có tính độc lập tương đối, theo cơ chế tác động trở lại đối với
các cơ quan, đơn vị này. Thông qua đó, KBNN có thể bảo đảm tính chặt chẽ trong
quá trình sử dụng công quỹ nhà nước, đặc biệt trong khâu mua sắm, xây dựng, sữa
chữa … Chính vì vậy, không những đã hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát,
tiêu cực mà còn bảo đảm cho việc sử dụng kinh phí NSNN đúng mục đích, hợp
pháp, tiết kiệm, có hiệu quả. Đồng thời tham gia kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng
tiền mặt trong thanh toán góp phần chống tiêu cực, đề cao kỷ cương, kỷ luật quản
lý tài chính, tiền tệ. Thông qua việc cấp phát, thanh toán các khoản chi của NSNN,
KBNN còn tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi NSNN qua KBNN
theo từng địa bàn, từng cấp NS và từng khoản chi chủ yếu. Từ đó rút ra những nhận
xét, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
cùng với các cơ quan hữu quan phối hợp nghiên cứu nhằm cải tiến và hoàn thiện cơ
chế cấp phát, thanh toán và kiểm soát chi NSNN qua Kho Bạc Nhà Nước.
II.Thực trạng chi thường xuyên ngân sách nhà nước
1. Thực trạng chi ngân sách nhà nước
Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội (QH)
về việc thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2010 vừa gửi các
ĐBQH, nhiều Bộ, ngành, địa phương, công tác quản lý, sử dụng kinh phí chi
thường xuyên vẫn còn bộc lộ những tồn tại; phân bổ và giao dự toán vượt định
mức, chi tiêu vượt dự toán, sử dụng sai nguồn kinh phí, vượt tiêu chuẩn, chế độ quy
định.

5
9 tháng đầu năm 2010, thông qua kiểm soát chi 236.661 tỉ đồng chi thường
xuyên, kho bạc Nhà nước (KBNN) đã phát hiện 25.883 khoản chi của hơn 10.136
lượt đơn vị chưa chấp hành đúng trình tự, thủ tục; từ chối thanh toán trên 160 tỉ
đồng chưa đủ điều kiện chi theo quy định.
Kiểm toán Nhà nước cũng phát hiện, kiến nghị xử lý tài chính trên 14,7
nghìn tỉ đồng; ngành tài chính, rồi thanh tra Chính phủ cũng phát hiện và xử lý vi
phạm tài chính hàng nghìn tỉ đồng…
Cũng theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, tình trạng sử dụng số vượt
thu, nguồn dự phòng, chi tạm ứng, cho vay sai đối tượng, sai chế độ, chi vượt dự
toán lớn, vượt chế độ định mức, nhất là số chi chuyển nguồn ngân sách lớn, tiếp tục
tăng và diễn ra trong nhiều năm vẫn chậm được khắc phục, là sự lãng phí đối với
ngân sách Nhà nước.
Báo cáo thẩm tra cũng nhấn mạnh đến tình trạng lãng phí, thất thoát, tham
nhũng trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư phát triển. “Tình trạng chấp hành chưa
nghiêm các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản, chất lượng của nhà
thầu, chất lượng chuẩn bị đầu tư thấp, khảo sát lập thiết kế không đúng quy định
diễn ra ở nhiều bộ, ngành, địa phương, các dự án đầu tư phải điều chỉnh tổng mức
đầu tư lớn và điều chỉnh nhiều lần (hầu hết các công trình vốn trái phiếu chính phủ
(TPCP) đều phải điều chỉnh tổng mức đầu tư; tổng mức đầu tư từ nguồn vốn TPCP
giai đoạn 2003 - 2010 đã tăng so với ban đầu khoảng 31.000 tỉ đồng”.
Ngoài những yếu kém về quản lý tài sản ở các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước
như đã đề cập ở các báo cáo liên quan trước đó, Ủy ban Tài chính Ngân sách cũng
chỉ rõ những bất cập, lãng phí, mặt trái trong việc tổ chức lễ hội và cho rằng “nhiều
nơi chi phí cho lễ hội đã gây tốn kém, lãng phí lớn cho cả xã hội và ngân sách Nhà
nước, nhưng hiệu quả đem lại không cao”.

Để chấn chỉnh tình trạng chi tiêu lãng phí, Ủy ban này kiến nghị tăng cường
hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH đối với việc chấp
hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đồng thời đề nghị Chính phủ cần

kịp thời biểu dương, khen thưởng các đơn vị, cá nhân làm tốt và phê bình, kỷ luật
nghiêm đơn vị, cá nhân sai phạm, gây thất thoát, lãng phí trong quản lý sử dụng tài
sản, ngân sách Nhà nước.
2. Thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhằm kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô
2.1. Khuôn khổ pháp lý
Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về một
số giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
an sinh xã hội trong năm 2011;
6
Căn cứ hướng dẫn thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhằm kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tại Công văn số 2665/BTC-NSNN ngày 28/2/2011
của Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (PTNT) hướng dẫn các
Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ (sau đây gọi tắt là các đơn vị) thực
hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên năm 2011 (ngoài khoản tiết kiệm 10%
chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương đã giao đầu năm) như sau:
2.1.1 Đối tượng thực hiện tiết kiệm:
Các đơn vị được Bộ giao dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm
2011 (bao gồm: kinh phí thường xuyên, không thường xuyên, tự chủ, không tự chủ
và kinh phí nghiên cứu khoa học) chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để thực
hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong năm 2011
nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô theo chỉ đạo của
Chính phủ.
2.1.2 Cách thức xác định số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên năm 2011:
Để tạo sự chủ động cho các đơn vị, Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn
cách xác định số tiết kiệm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong năm
2011 như sau:
Số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên =

A - (B + C + D + E)

x 9 x
0,1
12
Trong đó:
A: Là dự toán chi thường xuyên năm 2011 đã được cấp có thẩm quyền giao
(không bao gồm dự toán chi sự nghiệp của các chương trình mục tiêu quốc gia).
B: Là tổng số chi lương, phụ cấp, tiền công và các khoản chi khác cho con
người theo chế độ (học bổng học sinh, sinh viên; tiền ăn, tiền thưởng theo chế độ
quy định, tiền thuê chuyên gia; các khoản phụ cấp đặc thù của từng ngành kể cả
bằng tiền hoặc bằng hiện vật;…).
C: là số tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương đã
được cấp có thẩm quyền giao.
D: là các khoản bố trí trong dự toán chi thường xuyên để thu hồi kinh phí đã
ứng trước.
E: là tổng số các khoản chi đặc thù khác không tính tiết kiệm, gồm:
- Kinh phí tài trợ báo, tạp chí, xuất bản, chi trợ giá
- Chi từ nguồn vốn ngoài nước;
- Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; kinh phí đào tạo lưu học
sinh nước ngoài ở Việt Nam và đào tạo lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài diện
Hiệp định;
- Kinh phí mua sắm trang phục các ngành (Kiểm lâm, thanh tra).
7
- Kinh phí vốn đối ứng, kinh phí đóng niên liễm hoặc đóng góp cho các tổ
chức hoặc diễn đàn quốc tế, kinh phí nộp các loại thuế theo quy định;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ hợp tác khoa học kỹ thuật với một số
nước theo Hiệp định hoặc Nghị định thư;…;
- Kinh phí thực hiện các hợp đồng kinh tế, thoả thuận kinh tế có hiệu lực
trước 31/3/2011;
- Kinh phí phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh.
2.1.3. Quản lý số tiết kiệm:

Số tiết kiệm 10% chi thường xuyên của các đơn vị thực hiện theo hướng dẫn
tại công văn này được giữ lại, chưa được chi cho các nhiệm vụ khác. Đến Quý III
năm 2011, căn cứ tình hình thực tế sẽ xem xét, xử lý số tiết kiệm này theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính.
2.1.4. Rà soát, sắp xếp, bố trí lại các nhiệm vụ chi thường xuyên trong phạm
vi dự toán còn lại (sau khi đã tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên):
Để đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn đã được giao đầu năm
trong điều kiện thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên theo Nghị quyết
của Chính phủ và quy định hướng dẫn tại Công văn này, đề nghị các đơn vị thực
hiện rà soát, sắp xếp, bố trí lại nhiệm vụ chi thường xuyên đã được giao đầu năm,
trong đó tập trung ngay vào việc triển khai các công việc sau đây:
- Tạm dừng trang bị mới xe ô tô, mua sắm tài sản có giá trị lớn, điều hoà
nhiệt độ, thiết bị văn phòng
- Giảm tối đa số lượng, quy mô và kinh phí chi hội nghị, hội thảo, lễ hội,
tổng kết, sơ kết, đón nhận huân chương, danh hiệu thi đua, kỷ niệm ngày thành
lập… và các đoàn công tác trong và ngoài nước sử dụng kinh phí NSNN.
- Thực hiện tiết kiệm tối đa trong việc sử dụng điện, nước, điện thoại, văn
phòng phẩm, xăng dầu.
- Ngừng các khoản chi cho các nhiệm vụ khác chưa thực sự cấp bách, nội
dung không thiết thực.
2.1.5. Tổ chức thực hiện:
Thủ trưởng các đơn vị xác định số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên
theo hướng dẫn nêu tại mục 2 và Biểu đính kèm của Công văn này gửi Bộ Nông
nghiệp và PTNT (Vụ Tài chính) trước ngày 10/3/2011 để tổng hợp, báo cáo Bộ Tài
chính và Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Nông nghiệp và PTNT thông báo để các cơ quan, đơn vị biết và tổ chức
thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh về Bộ
(Vụ Tài chính) để kịp thời nghiên cứu, giải quyết./.
8
Văn bản mới ban hành của Bộ Tài chính (Thông tư 224/2009/TT-BTC) quy

định tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2010.
Như vậy, năm 2010 tiếp tục là năm thứ 3 cả nước thực hiện việc tiết kiệm
10% chi thường xuyên ngân sách nhà nước, tính từ thời điểm triển khai theo Thông
tư 34/2008/TT-BTC ngày 23/4/2008 của Bộ Tài chính về việc này nhằm kiềm chế
lạm phát.
Theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách tại phiên họp thứ
24 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan, đơn vị đã thực hiện nghiêm
túc việc tiết kiệm 10% chi thường xuyên. Qua đó, dành thêm nguồn ngân sách để
thực hiện chính sách kích cầu và bảo đảm an sinh xã hội.
Ở nhiều địa phương, việc triệt để thực hành tiết kiệm đã góp nguồn kinh phí
đáng kể vào ngân sách, tiêu biểu như: tỉnh Thanh Hóa đã tiết kiệm được khoảng
62,2 tỷ đồng; Thái Bình 33,3 tỷ; Hưng Yên 37,2 tỷ; Lai Châu 21,1 tỷ đồng …
Như vậy có thể thấy rằng, đối phó với khó khăn của nền kinh tế trong bối
cảnh suy thoái chung toàn cầu, chính sách thực hành tiết kiệm, chống lãng phí mà
Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã đề ra, trong đó có việc tiết kiệm 10% chi thường
xuyên ngân sách, đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công nhiệm vụ
kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội mà đất nước đã đạt được trong năm qua.
Bởi thế, việc Bộ Tài chính tiếp tục giao chỉ tiêu tiết kiệm 10% chi phí thường
xuyên trong năm 2010 cho thấy nhiệm vụ thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được
xác định là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài trong các cơ quan, tổ chức ở các cấp và
trong nhân dân, bên cạnh yêu cầu tiết kiệm phải gắn liền với các tiêu chí cụ thể, sát
thực để bảo đảm tính khả thi.
Dành 40% số thu để cải cách tiền lương
Cũng là một trong những nội dung quan trọng của Thông tư 224/2009/TT-
BTC, Bộ Tài chính đề nghị các Bộ, cơ quan Trung ương hướng dẫn các đơn vị trực
thuộc dành 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2010 (riêng ngành Y tế 35%,
sau khi trừ chi phí thuốc, máu, dịch truyền, hoá chất, vật tư thay thế, vật tư tiêu
hao) để thực hiện chế độ cải cách tiền lương trong năm 2010, đảm bảo mức lương
tối thiểu 650.000 đồng/tháng.

Đối với các địa phương, Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng 50% tăng thu ngân
sách địa phương (không kể số tăng thu từ nguồn thu tiền sử dụng đất) thực hiện
năm 2009 so với dự toán năm 2009 được Thủ tướng Chính phủ giao. đồng thời
9
thực hiện chuyển các nguồn thực hiện cải cách tiền lương năm trước theo quy định
chưa sử dụng hết (nếu có) sang năm 2010 để tiếp tục thực hiện. Toàn bộ nguồn
kinh phí này phải được hạch toán, quản lý riêng để tạo nguồn tiếp tục thực hiện cải
cách tiền lương, không sử dụng nguồn kinh phí này cho các mục đích khác.
Với các biện pháp tạo nguồn như trên mà các Bộ, cơ quan Trung ương cũng
như địa phương vẫn không đủ nguồn thì ngân sách Trung ương sẽ hỗ trợ để đảm
bảo nguồn thực hiện.
Như vậy để đối mặt với những khó khăn, thách thức trong năm 2010, Bộ Tài
chính khuyến khích việc tiết kiệm chi ngân sách công và đảm bảo tăng thu nhập tối
thiểu cho người lao động.
Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ban hành định
mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước áp dụng cho năm ngân
sách 2011, năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách mới.

Chi quản lý hành chính các Bộ, ngành tối đa 30 triệu đồng/biên chế/năm
Quyết định quy định cụ thể định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách
cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở
Trung ương bao gồm: Chi quản lý hành chính; chi sự nghiệp y tế; đào tạo và nghiên
cứu khoa học.
Theo đó, định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính cho khối cơ quan hành
chính từ 19-30 triệu đồng/biên chế/năm (tùy thuộc vào số biên chế của cơ quan).
Đối với khối các cơ quan Tư pháp, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ,
định mức phân bổ năm 2011 là 30 triệu đồng/biên chế/năm.
Định mức phân bổ dự toán chi sự nghiệp y tế, đào tạo thực hiện theo quy định hiện
hành của Nhà nước về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp công lập. Mức kinh phí ngân sách cấp chi thường xuyên hàng năm cho

các đơn vị này trên cơ sở yêu cầu các đơn vị phấn đấu nâng mức tự trang trải nhu
cầu chi từ nguồn thu phí và nguồn khác của mình để dành nguồn ưu tiên bố trí cho
những đơn vị hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách nhà nước.
Việc phân bổ dự toán chi nghiên cứu khoa học được thực hiện dựa trên các nhiệm
vụ chuyên môn về khoa học và công nghệ.
Phân bổ thêm cho các địa phương khó khăn
Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách cho các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương bao gồm chi cho sự nghiệp giáo dục; đào tạo và dạy nghề; y
tế; quản lý hành chính; văn hóa - thông tin; phát thanh truyền hình; thể dục thể
thao; đảm bảo xã hội; quốc phòng; an ninh, khoa học công nghệ; kinh tế; trợ giá,
trợ cước; hoạt động môi trường.
10
Trong đó, đối với chi sự nghiệp giáo dục, định mức phân bổ theo dân số trong độ
tuổi đến trường từ 1-18 tuổi như sau: định mức phân bổ vùng đô thị là 1.241.680
đồng/người dân/năm; vùng đồng bằng là 1.460.800 đồng/người dân/năm; miền núi
- vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu là 1.986.880 đồng/người dân/năm;
vùng cao - hải đảo là 2.775.520 đồng/người dân/năm.
Định mức phân bổ chi sự nghiệp y tế theo tiêu chí dân số cũng được xác định theo
từng vùng. Cụ thể, vùng đô thị là 105.600 đồng/người dân/năm; vùng đồng bằng là
142.700 đồng/người dân/năm; miền núi - vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng
sâu là 186.940 đồng/người dân/năm và vùng cao - hải đảo là 261.140 đồng/người
dân/năm.
Quyết định nêu rõ, đối với các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long được
phân bổ thêm 7% số chi tính theo định mức dân số nêu trên.
Đối với các tỉnh có dân số dưới 500 nghìn dân thì được phân bổ thêm 12%; những
tỉnh có dân số từ 500-800 nghìn dân được phân bổ thêm 10% số chi tính theo định
mức dân số trên.
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà
nước
1.Giải pháp chung

Trong điều kiện nước ta, nguồn lực tài chính cho phát triển KTXH còn hạn
chế thì vấn đề hiệu quả của chi NS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với một chính
sách phân bổ NS được cho là hợp lý thì hiệu quả của chi NS được quyết định bởi
cơ chế quản lý chi NS trong giai đoạn 2001- 2010 phải đạt được các mục tiêu và
yêu cầu chủ yếu sau đây:
Một là, xây dựng một dự toán chi NS toàn diện, chi tiết đúng MLNS hiện
hành, đảm bảo tài chính cho các bộ ngành, ĐP, thực hiện các nhiệm vụ phù hợp với
định hướng phát triển KT-XH trong năm kế hoạch. Thực hiện việc quản lý và điều
hành NSNN theo dự toán và phải coi dự toán là một đạo luật và chính phủ, bộ,
ngành, cá nhân có trách nhiệm thi hành.
Hai là, thiết lập qui trình chuẩn bị, chấp hành và quyết toán NS tuân thủ các
nguyên tắc và trình tự nghiêm ngặt đảm bảo việc kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau giữa
các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý chi NS cũng như nguyên tắc phân định
quyền hạn, trách nhiệm giữa các chủ thể nhằm nâng cao năng lực hiệu quả quản lý
chi ngân sách. Xoá bỏ sự can thiệp quá chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý
nhà nước đối với công việc của các đơn vị sử dụng ngân sách.
Ba là, thiết lập cơ sở truyền tin thống nhất trong lĩnh vực quản lý ngân sách
trên cơ sở nghiên cứu xây dựng một trung tâm tính toán và lưu dữ liệu thống nhất
trong ngành tài chính. Trong xu hướng phát triển chung của khu vực và trên thế
giới ngày nay, công nghệ thông tin đã, đang và sẽ là một công cụ đắc lực hữu hiệu,
11
không thể thiếu đối với công tác quản lý KT-XH. Quản lý chi NS cũng không thể
nằm ngoài xu hướng đó. Đây vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu và cũng là biện pháp
nâng cao chất lượng quản lý NS. Để đạt được các mục tiêu trên, về nguyên tắc
quản lý chi ngân sách sẽ tập trung vào các mặt sau:
- Hoàn thiện qui trình lập, phân bổ dự toán phải quán triệt nguyên tắc quản lý chi
theo dự toán, coi dự toán chi NS đã được Quốc hội, HĐND các cấp phê chuẩn là
một đạo luật bắt buột Chính phủ, bộ ngành, ĐP có trách nhiệm tuân thủ. Dự toán
chi NS theo MLNS là giới hạn tối đa đã được chi về tổng thể và cơ cấu chi. Nguyên
tắc này đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối qui định về MLNS trong cả chu trình NS từ

khâu lập, chấp hành và kế toán quyết toán NS. Đồng thời là căn cứ để hoàn thiện
các phương thức cấp phát NS hiện hành. Để đạt được mục tiêu này, BTC cần có
nghiên cứu thống 55 nhất định mức xây dựng NS và định mức chi NS. Hiện nay,
chúng ta có hai hệ thống định mức, một là định mức phân bổ hay định mức xây
dựng NS, hai là định mức chi NS. Thống nhất hai hệ thống định mức này sẽ là điều
kiện quan trọng để cho dự toán phù hợp với nhu cầu chi của đơn vị để tổng số cũng
như cơ cấu chi theo mục; đồng thời khi dự toán được Quốc hội phê chuẩn thì cũng
là lúc dự toán chi tiết của đơn vị được duyệt, đảm bảo ngày 1/1 hàng năm, Kho bạc
có dự toán để kiểm soát, đơn vị có dự toán được chi.
- Quán triệt nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc và nguyên tắc thanh toán trực
tiếp cho đơn vị thụ hưởng ngân sách. Nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc khẳng
định hai nội dung.
Một là KBNN là cơ quan đầu mối duy nhất được nhà nước giao nhiệm vụ
QLNN về quỹ NSNN, do vậy có nhiệm vụ trực tiếp thanh toán mọi khoản chi NS.
Khẳng định Kho bạc có nhiệm vụ kiểm soát mọi khoản chi NS trước khi xuất quỹ
NS và có quyền từ chối thanh toán đối với các khoản chi sai chế độ và chịu trách
nhiệm về quyết định của mình.
Hai là Nguyên tắc thanh toán trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng NS yêu cầu các
khoản chi NS phải được thanh toán trực tiếp đến đúng đối tượng thụ hưởng là
những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho chính phủ, bao gồm cả công chức,
viên chức hưởng lương từ NS nhằm hạn chế tối đa thanh toán qua trung gian…
Nguyên tắc này thực chất là một phần trong nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN.
Nhưng trong điều kiện ở nước ta hiện nay tình trạng chi qua khâu trung gian vẫn
còn rất phổ biến như chi hoạt động hành chính…gây tác động tiêu cực đến công tác
quản lý tiền mặt và tạo cơ hội cho những hành vi gian lận, biển thủ công quỹ, do
vậy cần nhấn mạnh nguyên tắc này.
- Qui trình kiểm soát chi NS phải đảm bảo phân định trách nhiệm giữa chuẩn chi và
KBNN. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quản lý tài chính. Nếu nhìn nhận toàn
bộ quốc gia như một thực thể thì trong lĩnh vực chi tiêu, vai trò thủ trưởng đơn vị
để thực hiện hành vi chuẩn chi là TTCP, các Bộ 56 trưởng, chủ tịch UBND các cấp

và những người được uỷ quyền, còn kho bạc là vai người kế toán có trách nhiệm
12
kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chế độ tài chính, kế toán của người chuẩn chi
khi thực hiện chế độ chi tiêu, kế toán các khoản chi tiêu đó. Do vậy cần phải có
nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa chuẩn chi và kế toán để có sự kiểm tra,
kiểm soát trong khi chi ngân sách, không đồng nghĩa với cản trở và bất hợp tác
- Cải tiến các phương thức cấp phát NS: để tăng cường tính chủ động của đơn vị
thụ hưởng ngân sách, hạn chế tối đa sự can thiệp không cần thiết của CQTC vào
quá trình chi tiêu của đơn vị, tuân thủ nguyên tắc điều hành NS theo dự toán đã
được Quốc hội, HĐND các cấp phê chuẩn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
NSNN. Khi mà chất lượng của công tác lập, duyệt và phân bổ ngân sách được ngày
một nâng cao sẽ tạo tiền đề cho việc hoàn thiện các phương thức cấp phát ngân
sách cụ thể: Xoá bỏ dần việc cấp phát NS bằng lệnh chi tiền của CQTC thay đó là
phương thức cấp phát bằng dự toán. Trừ những trường hợp chi đặc biệt phải sử
dụng hình thức cấp phát bằng lệnh chi tiền. Thực hiện quản lý và điều hành NS
theo dự toán tổng thể, không bó buộc đơn vị chấp hành theo dự toán từng nhóm
mục. Khi điều kiện cho phép, có nghĩa là khi công tác này đã ổn định, đi vào nề
nếp thì sẽ thực hiện theo dự toán được duyệt.
- Đa dạng các phương thức kiểm soát chi NS: từng bước thực hiện cơ chế tài chính
khoán cho các đơn vị SN và các DN công ích, tạo tiền đề để thay dần phương thức
kiểm soát chi đầu vào như hiện nay bằng quản lý theo đầu ra. Phương thức quản lý
chi theo đầu ra được hiểu là việc nhà nước bỏ ra một khoản tiền nhất định để mua
các dịch vụ công cộng do một bộ ngành hoặc đơn vị nào đó cung ứng cho xã hội, ví
dụ như dịch vụ y tế, giáo dục, cung cấp nước sạch…Các bộ trưởng, thủ trưởng các
đơn vị chịu trách nhiệm trước chính phủ và quốc hội về việc sử dụng khoản NS đó
đem lại 57 kết quả cam kết ban đầu. Nhà nước không can thiệp sâu vào việc sử
dụng khoản NS đó như thế nào, việc đó giao toàn quyền cho thủ trưởng đơn vị
quyết định. Nhà nước chỉ quan tâm đến hiệu quả chương trình đó đem lại như thế
nào từ nguồn ngân sách đó mà thôi.
- Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán nhà nước, thành lập trung tâm tính toán và

lưu trữ dữ liệu của ngành tài chính: phải sớm giải quyết tình trạng phân tán và
manh mún, không đồng bộ, ăn khớp trong công tác kế toán, cần phải lấy kế toán
kho bạc làm hạt nhân, để nghiên cứu hàng loạt các vấn đề xoay quanh kế toán nhà
nước như đối tượng kế toán, phương pháp kế toán, hệ thống chứng từ, mẫu
biểu với mục tiêu là KBNN phải là cơ quan duy nhất tham mưu giúp bộ tài chính
làm tổng quyết toán NSNN.
- Thực hiện công khai hoá NS, trong đó thực hiện công khai qui trình cấp phát NS
và kiểm soát chi NS: nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của nhà nước và bản
chất của NS Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi khoản chi NS
đều được đáp ứng từ các nguồn đóng góp của dân thông qua thuế, phí và lệ phí, vậy
người dân phải có quyền được biết về hoạt động thu-chi của ngân sách nhà nước.
Công khai qui trình cấp phát, kiểm soát chi NS trong chừng mực nào đó góp phần
xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của bên quản lý và bên được quản lý. Nhờ
13
vậy mà cơ quan quản lý kiểm soát các ĐVSDNS cho các đơn vị sử dụng NS có
điều kiện và cơ hội kiểm tra, giám sát ngược trở lại đối với các đơn vị quản lý mình
trong việc chấp hành các qui trình quản lý.
- Vấn đề cán bộ: chúng ta hay nói nhiều về trình độ cán bộ chưa đáp ứng được yêu
cầu và nhiệm vụ, song đây chỉ là một mặt của vấn đề. Nếu trình độ của cán bộ đã
được cải thiện, nhưng tinh thần và thái độ làm việc của đội ngũ cán bộ chúng ta
chưa được xác định đúng vị trí là những người phục vụ hoặc chưa đào tạo phải
phục vụ như thế nào thì công cuộc cải cách hành chính của chúng ta có lẽ sẽ bị hạn
chế rất nhiều, thậm chí có thể phản tác dụng. Chính vì vậy mà một trong những nội
dung cải cách hành chính trong quản lý chi NSNN thì vấn đề quan tâm đào tạo một
đội ngũ cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý chi NS có thái độ phục vụ hoàn toàn
mới theo tinh thần “Văn minh giao tiếp”. Vấn đề này tưởng như nhỏ, nhưng nếu
như không có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt thì
hậu quả sẽ không phải là nhỏ
2. Các giải pháp cụ thể:
2.1. Về dự toán NSNN:

 Thời gian quy trình xây dựng dự toán ngân sách:
Các nước đều quy định năm NS dài 12 tháng, có nước trùng với năm dương lịch,
có nước không trùng, tuỳ theo tập quán mỗi nước. Dự toán được phê chuẩn trước
ngày bắt đầu của năm NS mới. Năm NS là một nguyên tắc lớn trong quản lý NS
kiểu truyền thống. Hết năm NS, dự toán kinh phí chưa sử dụng đều hết giá trị.
Nhưng điều này sẽ khác khi quản lý NS theo mô hình mới, dựa theo kết quả đầu ra
gắn với tầm nhìn trung hạn. Năm ngân sách của Việt Nam, Hàn Quốc, Malaysia
trùng với năm dương lịch (bắt đầu từ 1/1 và kết thúc vào 31/12 hàng năm); Năm
NS của Nhật bản bắt đầu từ 1/4 và kết thúc 31/3 năm sau; Thái Lan bắt đầu từ 1/10
và kết thúc 30/9 năm sau. Mọi quy trình DTNS đều được kết thúc vào ngày cuối
cùng của một năm NS nhưng thời điểm bắt đầu của mỗi nước lại có sự khác nhau,
tạo nên độ dài thời gian xây dựng DTNS khác nhau. Quy trình DTNS của Việt
Nam dài khoảng 6 đến 7 tháng nhưng ở các nước trong khu vực thường là 10 đến
11 tháng. Thời gian xây dựng DTNS đủ dài và được quy định rõ ràng sẽ tạo thuận
lợi cho các cơ quan hữu quan (điều kiện thời gian) nâng cao chất lượng chuẩn bị,
lập, thẩm tra, thảo luận dự toán ngân sách tốt hơn. Khởi điểm quy trình DTNS của
Việt Nam khá muộn nên độ dài quy trình DTNS của Việt Nam ngắn hơn các nước.
Nếu tính từ khi Chỉ thị của Thủ tướng về xây dựng dự toán NSNN được ban hành
thì quy trình DTNS Việt Nam bắt đầu từ 31/5; Nếu tính từ thời điểm UBTVQH cho
ý kiến về định mức phân bổ, chế độ chi NS quan trọng thì thời điểm bắt đầu DTNS
từ 1/5; Quy định chính thức về thời điểm "xuất phát"của quy trình NS như ở Việt
Nam là khá muộn so với thế giới. Thông thường, các nước quy định các công việc
chuẩn bị dự toán bắt đầu ngay từ tháng thứ hai của năm NS hiện hành. Cá biệt có
nước quy định ngay từ tháng đầu tiên, ngay sau khi dự toán vừa được phê chuẩn( ở
14
Malaysia ban hành. Thông tư hướng dẫn lập DTNS ngày từ tháng thứ nhất; Hướng
dẫn DTNS và chính sách của Thái Lan được ban hành ngay từ tháng thứ 2; Hàn
Quốc ban hành Hướng dẫn lập DTNS từ tháng thứ 3 hàng năm). Do vậy, Về thời
gian xây dựng dự toán ngân sách cần nghiên cứu kéo dài tổng thời gian làm dự toán
NSNN, có thể đẩy sớm thời hạn chuẩn bị dự toán lên một vài tháng, bố trí thời gian

hợp lý cho các bước, các khâu của quy trình dự toán NSNN, đảm bảo quỹ thời gian
vật chất cần thiết để các Uỷ ban của Quốc hội, Quốc hội và HĐND các cấp có thể
nghiên cứu, thẩm định, thảo luận kỹ về dự toán NSNN.
 Cơ quan chủ trì và phối hợp lập dự toán ngân sách:
Tất cả các nước đều quy định một cơ quan cấp bộ chủ trì việc chuẩn bị và
soạn lập DTNS, nhưng không nhất thiết đó phải là Bộ Tài chính. Mỗi mô hình có
những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Việc tập trung một đầu mối có ưu điểm lớn
trong việc quản lý thống nhất, cung cấp cái nhìn toàn diện về NS trên cơ sở nắm
chắc nguồn thu, tạo cơ sở tốt cho việc bố trí sử dụng (chi) ngân sách. Mức độ tập
trung và sự phối hợp giữa nguồn và sử dụng nguồn được đẩy mạnh hơn, hiệu quả
hơn. Việc dành riêng một cơ quan độc lập với BTC soạn lập dự toán chi NS (Thái
Lan, Hàn Quốc) hoặc để "nhiều đầu mối" cùng làm dự toán, có ưu điểm nâng cao
mức độ chuyên môn hóa khi xây dựng NS nhưng cũng kéo theo sự cồng kềnh trong
quy trình NS; hiệu quả phối hợp cân đối thu, chi không cao. Đối với Việt Nam, nên
nghiên cứu các phương án thống nhất đầu mối quản lý NSNN từ cấp trung ương
đến các địa phương.
Phương án thứ nhất, là xây dựng lại chức năng, nhiệm vụ của BTC và Bộ
KH&ĐT trên cơ sở nhận thức về đối tượng quản lý phục vụ của các Bộ này phải có
sự thay đổi sâu sắc phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tôn
trọng cách thức quản lý vĩ mô theo các nguyên lý của kinh tế thị trường.
Phương án thứ hai là hợp nhất 2 bộ này lại thành một siêu bộ “Kinh tế và Tài
chính” với các chức năng tổng hợp cả về kinh tế và tài chính, NS. Trong đó, cần
thiết kế một Bộ trưởng phụ trách chung; một Bộ trưởng phụ trách tài chính, NS;
một Bộ trưởng phụ trách kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế.
Thẩm tra, cho ý kiến, thảo luận và phê chuẩn ngân sách 
- Việc thẩm tra, thảo luận và quyết định DTNS ở các nước đều giống nhau về tổng
thể nhưng có sự khác nhau về cách thức tổ chức thực hiện. Các nước có tổ chức
Thượng viện và Hạ viện thì việc thẩm tra, thảo luận, quyết định phê chuẩn được
tiến hành theo trình tự do nghị viện quyết định nhưng nhìn chung là DTNS được
thẩm tra và thảo luận ở Hạ viện trước, sau đó chuyển tới Thượng viện. Sau khi

được Thượng viện đồng ý, dự toán lại được quay về Hạ viện để biểu quyết thông
qua. Các nước đều sử dụng các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội để thực hiện
thẩm tra. Tại Việt Nam, dự toán được trình lên Uỷ ban Kinh tế và NS của Quốc
hội. UBKT&NS của Quốc hội chủ trì phối hợp với các cơ quan khác của Quốc hội
để thẩm tra. Tiếp đó UBTVQH cho ý kiến; Quốc hội thảo luận tổ, thảo luận hội
15
trường và biểu quyết thông qua dự toán ngân sách. Đại diện của Chính phủ có thể
được mời để báo cáo giải trình trong các phiên họp thẩm tra của các cơ quan của
Quốc hội. Sau đó, UBKT&NS lập Báo cáo thẩm tra trình UBTVQH cho ý kiến
trước ngày 18/10. UBKT&NS hoàn chỉnh báo cáo thẩm tra sau khi có ý kiến của
UBTVQH và gửi các đại biểu Quốc hội chậm nhất 10 ngày trước khi khai mạc kỳ
họp Quốc hội. Quốc hội họp, các đại biểu Quốc hội thảo luận tổ, thảo luận công
khai tại Hội trường, chất vấn và đi đến biểu quyết phê chuẩn dự toán trước ngày
15/11 hàng năm. Như vậy, Quốc hội Việt Nam đã bước đầu tăng được thực quyền
và phải làm việc kỹ hơn về dự toán ngân sách. Điều này dẫn đến khối lượng công
việc mà Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội phải thực hiện lớn hơn trước, cần
nhiều thời gian và sức lực hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng điều đó có thể cũng
dẫn đến việc can thiệp sâu quá mức cần thiết vào dự toán, đó là việc nên tránh.
Trong khi đó ở nhiều nước châu á, mức độ thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội
và Quốc hội tuy có nhiều thời gian hơn nhưng chất lượng thấp hơn. Tuy nhiên,
Quốc hội các nước này tập trung nhiều vào các vấn đề vĩ mô và hiệu quả chi tiêu,
phân bổ, sử dụng ngân sách. ( Mô hình thẩm tra, thảo luận và phê chuẩn NS tại các
nước châu Á (xem phụ lục 4).
- Hình thức văn bản phê chuẩn DTNS giữa Việt Nam và các nước có sự khác nhau
khá lớn. Các nước được nghiên cứu đều phê chuẩn dưới hình thức luật NS thường
niên. Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết Quốc hội (một về dự toán NSNN, một
về phân bổ NSTW). Hiệu lực pháp lý của văn bản phê chuẩn dự toán ngân sách ở
Việt Nam thấp hơn so với các nước nên hiệu lực thi hành thấp hơn. Trong khi đó ở
các nước, DTNS sau khi được Quốc hội phê chuẩn sẽ được ban hành dưới hình
thức luật (Luật Ngân sách thường niên). Do đó, hiệu lực thi hành cao hơn. Thông

thường, ở các nước tiên tiến hơn (Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc ), hàng năm,
Quốc hội đều ban hành một đạo luật cụ thể để phê chuẩn Dự toán thu chi NS cho
năm NS sắp tới. Các đạo luật này ở mỗi nước có tên gọi khác nhau nhưng tựu
chung lại là luật tài chính hoặc luật NS thường niên. Luật này khác với luật khung
về cách thức tổ chức NS. Luật NS thường niên bao gồm luật DTNS, luật điều chỉnh
DTNS và luật quyết toán ngân sách. Như đã trình bày, hiện nay, ở nước ta chưa có
luật NSNN hàng năm. Việc phê chuẩn dự toán, quyết toán NSNN hàng năm được
thực hiện dưới hình thức Nghị quyết của Quốc hội. Hình thức Nghị quyết (không
phải luật)phê chuẩn dự toán NSNN, phân bổ NSTW làm giảm tính pháp lý của văn
bản pháp quy về NS. Từ đó cũng làm giảm quyền lực của Quốc hội đối với các cơ
quan hành pháp khi tổ chức thực hiện dự toán ngân sách. Khi đã được ban hành
dưới dạng luật thì dự toán và dự toán điều chỉnh NS phải được chấp hành nghiêm,
tăng cường việc điều hành đất nước bằng pháp luật. Mức chi theo dự toán được phê
chuẩn ban đầu được tuân thủ, không có tình trạng chi vượt, làm sai ý đồ quản lý vĩ
mô trong kế hoạch sử dụng nguồn tài chính công của Nhà nước, góp phần đơn giản
hóa công tác duyệt quyết toán. Đồng thời, tăng tính nghiêm túc trong các hoạt động
lập pháp cũng như hành pháp NSĐP và Hội đồng nhân dân.
16
Các nước đều có NSTW và NS của các cấp chính quyền ĐP, nhưng cách
thức tổ chức và mức độ thẩm quyền của các cơ quan dân cử về NS của cấp mình có
sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước được nghiên cứu tại Việt Nam, NSNN bao
gồm cả NSTW và NSĐP; Trong NSĐP, NSX lồng ghép trong NSH, ngân sách
huyện lồng ghép trong ngân sách tỉnh. Trong khi đó, ở nước ngoài, đa số đều có sự
phân biệt rất rõ NSTW và NSĐP. NS được Quốc hội các nước thảo luận và quyết
định là NS của Nhà nước TW do các cơ quan của Chính phủ soạn thảo, trình Quốc
hội phê chuẩn. NS của các cấp chính quyền ĐP thuộc thẩm quyền của các cơ quan
dân cử ĐP và do các Hội đồng dân cử địa phương quyết định, không lồng ghép vào
NSTW, cho dù hàng năm TW đều có khoản trợ cấp cho NS các địa phương.
Vị trí, vai trò của cơ quan dân cử địa phương ở Việt Nam trong lĩnh vực NS
yếu hơn các nước và còn mang tính hình thức.

Tại Việt Nam, HĐND các cấp quyết định NSĐP cấp mình. Điều đó đã được
quy định trong luật NSNN. Tuy nhiên, luật cũng quy định Quốc hội quyết định
NSNN (bao gồm cả NSĐP). HĐND cấp tỉnh quyết định NSĐP trong phạm vi tỉnh
(bao gồm NS các cấp huyện, xã tổng hợp vào). Như vậy, HĐND cấp dưới sẽ được
quyết định cái mà cấp trên đã quyết định hoặc đã giao. Tính hình thức về thẩm
quyền NS của cơ quan dân cử địa phương được thể hiện khá rõ. Hơn nữa, thời gian,
trình độ năng lực chuyên môn của các đại biểu dân cử địa phương cũng còn hạn
chế nên HĐND các cấp khó có thể phát huy tốt thực sự vai trò của mình về ngân
sách. Tại các nước nghiên cứu, Cơ quan dân cử địa phương có thực quyền hơn về
NS do thẩm quyền và trách nhiệm được phân định rõ ràng hơn. Các cơ quan dân cử
các cấp được quyết định những gì thuộc phạm vi cấp mình. Ví dụ tại Thái Lan,
NSĐP được chia thành 2 phần: Một phần được sử dụng theo quy định của địa
phương và một phần sử dụng không theo quy định của địa phương. Hội đồng dân
cử địa phương chỉ quyết định các khoản thu, chi thuộc thẩm quyền quyết định của
địa phương mà không thông qua phần NS do trung ương cấp gắn liền với các chỉ
định từ trung ương. Mặc dù Thái Lan không lồng ghép tổng hợp NS cấp dưới vào
NS cấp trên nhưng việc quyết định NSĐP phải phù hợp với kế hoạch tài chính
trung hạn và các chính sách của TW.
Do vậy, phải phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp ngân sách một
cách rõ ràng hơn, thiết thực hơn. Mặc dù Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung
năm 2001 đã trao cho Quốc hội quyết định dự toán NSNN và phân bổ NSTW (điều
84), tăng thêm một bước quyền tự chủ của địa phương, nhưng để phát huy hơn nữa
tính chủ động của HĐND các cấp trong việc quyết định, phân bổ dự toán và phê
chuẩn quyết toán NSĐP; khắc phục tính hình thức, trùng lắp và chồng chéo trong
quyết định dự toán, phân bổ ngân sách của Quốc hội và HĐND các cấp, xin đề xuất
một số khuyến nghị như sau:
+ Quốc hội quyết định dự toán NSNN với tổng số thu, tổng số chi, mức bội
chi và các nguồn bù đắp; quyết định phân bổ NSTW theo từng loại thu, từng lĩnh
17
vực chi; quyết định số bổ sung cho NSĐP; giao nhiệm vụ về tổng số thu, tổng chi

ngân sách cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
+ Đối với những khoản chi trong cân đối NSĐP, HĐND tỉnh được quyền
quyết định DTNS cấp mình trước khi cấp trên quyết định. Đối với những khoản chi
từ nguồn NS cấp trên bổ sung thì HĐND được thông qua dự toán chi phù hợp với
những nhiệm vụ KT-XH ở địa phương và phù hợp với chính sách chế độ chung của
Nhà nước.
+ Nghiên cứu tiến tới thực hiện nguyên tắc: Quốc hội quyết định dự toán
NSTW, phân bổ NSTW, quyết toán NSTW, chi tiết cho từng Bộ, cơ quan TW;
quyết định số bổ sung từ NSTW cho NS từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW; quyết
định các chương trình, dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng
được đầu tư từ nguồn NSTW; quyết định điều chỉnh dự toán NSTW trong trường
hợp cần thiết. Quốc hội chỉ thông qua báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán
NSNN. HĐND các cấp quyết định dự toán, phân bổ NS, phê chuẩn quyết toán NS
cấp mình, không bao gồm NS cấp dưới. HĐND các cấp thông qua báo cáo tổng
hợp NS cấp mình và cấp dưới (có lồng ghép) và báo cáo lên cấp trên để thông qua
NS chung của cả nước.
2.2. Về hạch toán các khoản tạm ứng ngân sách.
Khi thực hiện tạm ứng NS, KBNN hạch toán, kế toán theo quy địnhcủa Chế
độ kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN và MLNSNN; trong đó, đối với
những trường hợp đã rõ nội dung chi, có thể chi tiết đến tiểu mục thì phải hạch toán
chi tiết đến tiểu mục; trường hợp chưa rõ về nội dung, không thể xác định được tiểu
mục thì nên cho phép hạch toán tạm ứng vào nhóm mục của MLNSNN nhằm hạn
chế sự điều chỉnh mục khi thực hiện thanh toán tạm ứng, tăng cường tính chủ động
của ĐVSD NSNN; khi thanh toán tạm ứng thực hiện hạch toán theo đúng các tiểu
mục thực tế phát sinh.
2.3.Thủ tục kiểm soát chi:
- Đối với đơn vị không thực hiện tự chủ: Khi thanh toán các khoản chi nghiệp vụ
chuyên môn, ngoài thủ tục như qui trình kiểm soát chi, đơn vị vẫn phải cung cấp hồ
sơ và tài liệu liên quan ( kể cả văn bản riêng chuyên ngành) để KBNN kiểm soát
theo chế độ qui định.

- Đối với các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ: Khi thanh toán chỉ cần lập bảng kê
chứng từ có nội dung phù hợp với từng khoản chi và định mức chi tiêu qui định tại
qui chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. KBNN không kiểm soát từng hồ sơ, tài liệu,
chứng từ có liên quan và thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách ký tên trên bảng kê
chứng từ này phải chịu hoàn toàn trách nhiệm liên quan đến tổng số tiền trên bảng
kê.
- Đối với đơn vị sự nghiệp có thu: KBNN xây dựng qui trình, chương trình tin học
kiểm soát toàn bộ các khoản chi có trong dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, kể cả phần thu sự nghiệp được để lại sử dụng theo qui định cho phép. Tuy
18
nhiên điều kiện kiểm soát chi cũng nên áp dụng như đối với các đơn vị thực hiện
chế độ tự chủ về tài chính như trình bày ở trên.
2.4.Hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm cơ sở thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí:
Việc cần làm ngay là phải tiến hành công tác rà soát các định mức, tiêu
chuẩn, chế độ trong các lĩnh vực, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực quản lý, sử dụng
NSNN; ĐTXDCB; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà công vụ, công trình phúc
lợi công cộng và tài sản công khác Yêu cầu đặt ra là không để xảy ra tình trạng
không có định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc định mức, tiêu chuẩn, chế độ có nhưng
lại quá lạc hậu, không phù hợp với thực tế. Việc sửa đổi, bổ sung định mức, tiêu
chuẩn, chế độ trong các lĩnh vực theo hướng: hạn chế số lượng định mức cứng (áp
dụng thống nhất trong cả nước), tăng số lượng các khung định mức, trần định mức
để các Bộ, ngành, địa phương, đơn vị áp dụng cho phù hợp với tình hình thực tế và
khả năng ngân sách tại Bộ, ngành, địa phương mình; phù hợp với phương thức lập
dự toán ngân sách và phân bổ DTNS cho các cơ quan, đơn vị theo kết quả đầu ra;
phải bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tế, tiến bộ khoa học công nghệ
2.5.Phân công rành mạch, khắc phục những trùng lắp, chồng chéo trong
quản lý và kiểm soát chi:
Phân công rành mạch, rõ ràng việc kiểm soát NS giữa CQTC và cơ quan
KBNN cũng là một trong những nội dung thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy, là công

việc quan trọng trong quá trình thực hiện cải cách hành chính. Chức năng cụ thể, rõ
ràng, không trùng lắp, không chồng chéo, không bỏ trống quản lý là hết sức cần
thiết trong thực tiễn kiểm soát chi giữa cơ quan Tài chính và KBNN bởi lẽ hiệu lực
quản lý của CQTC có quan hệ rất mật thiết đến xử lý công việc của cơ quan KBNN
và ngược lại. Theo quy định hiện nay, CQTC kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi
tiêu và sử dụng NS ở các cơ quan, ĐVSDNS. Để kiểm tra, CQTC cũng phải đưa
cán bộ đến đơn vị để kiểm tra chứng từ chi NS có trong dự toán, có đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức không? trong khi đó, khi thanh toán cho ĐVSDNS theo dự
toán được giao thì KBNN cũng đã thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi đối với quyết
định chi của thủ trưởng ĐVSDNS tức đã kiểm tra khoản chi có trong dự toán được
giao không, có đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức không. Như vậy, ở đây có sự
trùng lắp trong kiểm tra của ngành “Tài chính”. Trong trường hợp này, CQTC
(Phòng Tài chính, Sở Tài chính, các vụ thuộc BTC) chỉ nên thực hiện sự kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm hoặc kiểm tra theo chuyên đề có như thế hiệu quả công tác
quản lý chi NS sẽ tốt hơn và đơn vị sử dụng NS cũng không phải “bị kiểm tra trùng
lắp” như hiện nay. Và số liệu của KBNN là số liệu chính xác để CQTC thực hiện
quyết toán với các ĐVSDNS.
2.6. Hoàn thiện các hình thức cấp phát Ngân sách nhà nước
19
- Hình thức ghi thu – ghi chi: cần phải được hạn chế và đi đến xoá bỏ. Hình thức
này chỉ áp dụng đối với các khoản thu – chi bằng hiện vật và bằng ngày công lao
động.
- Hình thức lệnh chi tiền: cần xác định rõ phạm vi và đối tượng sử dụng. Hình thức
này chỉ nên áp dụng đối với một số khoản chi như cấp vốn cho các DNNN, các tổ
chức KT-XH không có quan hệ thường xuyên với NSNN; chi trả nợ, viện trợ; chi
bổ sung từ NS cấp trên cho NS cấp dưới
2.7. Đổi mới quản lý NS theo hướng quản lý NS theo kết quả đầu ra:
Hiện nay, đổi mới quản lý NS theo mô hình mới, dựa theo kết quả đầu ra gắn
với tầm nhìn trung hạn đang diễn ra ở hầu khắp các nước phát triển như Hàn Quốc,
Malaysia, Thái Lan, Úc, NiuZilân, Anh, Pháp, Mỹ, Thuỵ Điển Trong đó, điểm

nổi bật là sự thay đổi tư duy về cách thức quản lý NS đã dẫn đến các trào lưu đổi
mới quy trình lập, phân bổ NS theo khuôn khổ NS trung hạn và khuôn khổ chi tiêu
trung hạn, lấy tiêu thức kết quả đầu ra (của quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực
công) làm căn cứ chủ yếu để lập dự toán, thiết lập quy trình kiểm tra, đánh giá kết
quả sử dụng ngân sách. Trong khi đó, ở nước ta vẫn thực hiện quản lý NS theo quy
trình truyền thống. Tư duy quản lý NS truyền thống dựa chủ yếu trên cơ sở tổng
nguồn lực hiện có và dự báo sẽ có trong năm để xây dựng dự toán và phân bổ NS.
Theo đó, các chế độ quản lý, các định mức chi tiêu, MLNS được thiết lập để kiểm
soát theo phương châm càng chặt chẽ càng tốt. Thực tiễn chỉ rõ cách thức quản lý
theo kiểu truyền thống (cả ở Việt Nam và trên thế giới) là một quá trình quản lý
duy ý chí, mang tính chủ quan, áp đặt từ phía các nhà quản lý nguồn lực, từ trên
xuống. Điều đó thường dẫn đến các kết cục là: Hiệu lực quản lý thấp. Ít gắn kết
giữa kinh phí cấp ra với mục tiêu phải đạt được. Tầm nhìn ngắn hạn và thiếu chủ
động. Bất cập ngay từ khâu chuẩn bị xây dựng dự toán. Phân bổ dàn trải, thiếu
trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp. Trên thực tế, theo quy
trình và phương pháp quản lý NS truyền thống, thì mức độ gắn kết giữa các chỉ tiêu
tài chính (nguồn và sử dụng nguồn tài chính) với chỉ tiêu của các kế hoạch phát
triển KT-XH hoặc các kế hoạch phát triển ngành còn hạn chế, nhiều khi không chỉ
rõ được mối liên hệ giữa chúng (mặc dù mọi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
hoặc kế hoạch phát triển ngành đều cần đến tài chính). Thiếu sự gắn kết rõ ràng
giữa việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính với các mục tiêu và
chính sách phát triển KT-XH sẽ dẫn đến việc có thể không có đủ nguồn lực để thực
hiện các mục tiêu, chính sách đã đề ra; hoặc có thể sử dụng không đúng chỗ, không
đúng thời điểm Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc phân bổ dàn trải, chi
tiêu không hiệu quả, ít nhất cũng là do lo thiếu nguồn tài chính nên bố trí công trình
kéo dài hoặc chi không đủ lượng cần thiết. Qua nghiên cứu quá trình chuyển đổi
mô hình quản lý NS ở các nước cho thấy quản lý, phân bổ NS theo kết quả đầu ra
là phương thức quản lý tiên tiến, hiệu quả. Tuy nhiên, để thực hiện theo phương
thức mới này, cần chuẩn bị rất chu đáo, trước hết cần nâng cao nhận thức chung
20

của các cơ quan chức năng về phương pháp quản lý mới; Tiếp đến là xây dựng
được hệ thống các chỉ số đánh giá kết quả hoạt động và nâng cao năng lực cung cấp
thông tin về tài chính - NS của các cơ quan, đặc biệt là cơ quan dân cử. Thực hiện
đổi mới quy trình xây dựng dự toán và phương pháp phân bổ NS dựa theo kết quả
đầu ra gắn với tầm nhìn trung hạn chính là cách làm thích hợp và tốt nhất để Quốc
hội và HĐND chủ động thực hiện vai trò giám sát hiệu quả nhất đối với quá trình
xây dựng dự toán, phân bổ và sử dụng nguồn NSNN của đất nước. Đồng thời, cách
thức quản lý mới cũng đảm bảo nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử trong việc
phân bổ, sử dụng ngân sách vì các mục tiêu công bằng xã hội, xóa đói, giảm
nghèo
2.8. Cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công khai, đơn giản
hoá các thủ tục và nâng cao hiệu quả quản lý
Trong các hoạt động nghiệp vụ KBNN, công tác quản lý chi NSNN là trọng
tâm cần đẩy mạnh cải cách hành chính bởi vì đây là một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhất của KBNN, đồng thời có quan hệ trực tiếp và ảnh hưởng đến tất cả
các đối tượng sử dụng NSNN. Thực tế công tác quản lý chi NSNN của KBNN hiện
nay cho thấy việc bố trí quy trình kiểm soát các khoản chi cơ bản trong đó có chi
thường xuyên đã đảm bảo tương đối phù hợp. Quy trình kiểm soát chi NS đã được
cải tiến theo hướng đơn giản hoá, minh bạch và phù hợp thực tiễn nhằm quản lý
chặt chẽ, an toàn tiền vốn của Nhà nước; đồng thời tạo thuận lợi cho đối tượng giao
dịch. Tuy nhiên, công tác này đang còn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết.
- Những nội dung chi giống nhau, cùng một loại công việc như nhau nhưng
được giao cho nhiều bộ phận quản lý, tạo sự phân tán; quy trình luân chuyển và xử
lý công việc giữa các bộ phận còn nhiều điểm chưa hợp lý. Đây là một thực tế cần
nghiên cứu để có các giải pháp mang tính tổng thể, toàn diện và lâu dài, nhằm xây
dựng quy trình nghiệp vụ của KBNN hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu: quản lý
tài chính nhà nước chặt chẽ, đúng luật; tạo thuận lợi cho các đối tượng giao dịch;
đạt hiệu quả cao trong hoạt động quản lý. Ví dụ, một số đơn vị thực hiện chương
trình mục tiêu là các đơn vị dự toán như Sở Y tế, Văn hoá, Thể dục thể thao…
được giao dự toán chi thường xuyên và do bộ phận kế toán kiểm soát thanh toán.

Đồng thời, nhiều nội dung chi chương trình mục tiêu có tính chất giống chi thường
xuyên ( chi cho con người, chi hoạt động chương trình mục tiêu về y tế, văn hoá,
giáo dục, ) cũng được CQTC giao dự toán theo chương trình mục tiêu và được
phân công cho bộ phận kế hoạch kiểm soát thanh toán. Như vậy, đơn vị sử dụng
NSNN có cùng một bản dự toán, chi cho công việc có tính chất giống nhau nhưng
lại giao dịch với hai bộ phận của KBNN nên có nhiều điểm không thuận tiện cho cả
đơn vị và KBNN. Để giải quyết vấn đề này cần phân công phòng kế toán chịu trách
nhiệm kiểm soát toàn bộ các khoản chi chương trình mục tiêu có tính chất thường
xuyên được giao bằng dự toán; phòng kế hoạch tổng hợp là đầu mối tổng hợp
21
thông tin để báo cáo tình hình thực hiện chương trình mục tiêu theo yêu cầu của các
cấp có thẩm quyền.
- Về việc đối chiếu tình hình sử dụng dự toán của các đơn vị với KBNN: Để
giảm bớt công việc lập đi lập lại nhiều lần đối với KBNN khi đơn vị thực hiện đối
chiếu không khớp đúng đến từng mục chi của MLNS đồng thời hạn chế bớt những
tiêu cực nhỏ ( cơ chế xin cho số liệu) phát sinh trong quá trình đối chiếu giữa
KBNN và đơn vị sử dụng NSNN. KBNN nên cung cấp số liệu công khai đến từng
mục chi trên báo cáo chi hàng tháng, quí của KBNN trên các ki-ốt thông tin hoặc
cung cấp báo cáo giấy cho các đơn vị tự kiểm tra đối chiếu khớp đúng trước khi
đến KBNN. Điều này thể hiện tính minh bạch trong kiểm soát chi qua KBNN đồng
thời đơn vị sử dụng NSNN cùng tham gia và chịu trách nhiệm về kết quả theo dõi
chi đến từng mục của MLNSNN, phát hiện kịp thời những sai xót từ phía KBNN
do hạch toán nhầm mục chi và yêu cầu KBNN chỉnh sửa. Mặt khác đơn vị không bị
lệ thuộc vào KBNN khi muốn đối chiếu chính xác số liệu chi của mình.
2.9. Hoàn thiện quản lý và kiểm soát chi NS xã:
Thống nhất hình thức, biểu mẫu và cơ chế kiểm soát chi như các cấp ngân
sách. Sử dụng giấy rút dự toán phù hợp với cơ chế kiểm soát theo dự toán.
2.10. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống thông tin
Để nâng cao hiệu quả giám sát NS và vai trò của các cơ quan, đơn vị. Cần tổ
chức luân chuyển thông tin giữa cơ quan hành pháp và lập pháp một cách khoa học,

hiện đại. Tổ chức phân loại chi ngân sách một cách thống nhất, có đầy đủ các chỉ
tiêu cần thiết, tuân thủ thông lệ quốc tế, tạo dựng được cơ sở dữ liệu tài chính, NS
có chiều dày lịch sử, toàn diện. Thực hiện thống nhất các chỉ tiêu về NS cả ở khâu
dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách, cả ở đơn vị sử dụng và cơ quan quản
lý NSNN các cấp. Tính đầy đủ, liên tục, có hệ thống, nhất quán về chỉ tiêu của hệ
thống thông tin và cách thức luân chuyển thông tin luôn chiếm vị trí quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội và HĐND. Trên thực tế, muốn
nâng cao hiệu quả can thiệp của Quốc hội đối với DTNS thì vấn đề không thể thiếu
là việc cung cấp và xử lý thông tin
- Tài liệu có liên quan đến dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW và
quyết toán NSNN. Trong thời gian gần đây, mặc dù đã có những chuyển biến nhất
định nhưng những thông tin về thu, chi NSNN của từng cấp ngân sách chưa được
nêu trong tài liệu trình cho Quốc hội một cách có hệ thống, toàn diện và đầy đủ. Tài
liệu ngân sách được trình cho Quốc hội vẫn dừng lại ở các nhóm thu chính và các
nhóm chi theo chức năng mà những nội dung này cũng cần nhanh được hiện đại
hoá.
22
MỤC LỤC
23

×