Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Truyện và ký la quán miên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 123 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

















Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ HỒNG MY






Thái Nguyên - Năm 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong
bất cứ công trình nào.


Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014

Tác giả luận văn






Trịnh Thị Huyền Thương




Xác nhận
của khoa chuyên môn
Xác nhận
của ngƣời hƣớng dẫn khoa học















TS. Lê Hồng My




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Luận văn đã được chỉnh sửa theo đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học
chấm luận văn ngày 07 tháng 06 năm 2014 tại trường Đại học Sư phạm - Đại
học Thái Nguyên.


Xác nhận
của khoa chuyên môn
Xác nhận
của ngƣời hƣớng dẫn khoa học















TS. Lê Hồng My

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
MỤC LỤC iv
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
6. Phương pháp nghiên cứu 9
7. Đóng góp của luận văn 10
8. Bố cục của luận văn 10
PHẦN NỘI DUNG 11
Chƣơng 1.
LA QUÁN MIÊN – NHÀ VĂN DÂN TỘC THÁI (THỜI KÌ
HIỆN ĐẠI)
11
1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc Thái thời kì hiện đại 11
1.1.1. Đội ngũ sáng tác 11
1.1.2. Thể loại 12
1.1.3. Nội dung 15
1.1.4. Nghệ thuật 19
1.2. Giới thiệu nhà văn La Quán Miên 22
1.2.1. Hành trình đến với văn chương 22
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sáng tác của La Quán Miên 24
Chƣơng 2. CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI MIỀN NÚI TRONG
TRUYỆN VÀ KÝ CỦA LA QUÁN MIÊN 34
2.1. “Bức tranh” cuộc sống 34


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2.1.1. Khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi 34
2.1.2. Phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số Nghệ An 38
2.1.3. Những dấu tích lịch sử trên đất Nghệ An 47
2.1.4. Một số đổi thay không thuận chiều 50
2.1.4.2. Những “va đập” của đời sống “kinh tế thị trường” đối với người
dân miền núi 54
2.2. Hình ảnh con người miền núi trong truyện và ký La Quán Miên 57
2.2.1. Những con người chất phác, hồn hậu 57
2.2.2. Những con người có số phận bất hạnh, khổ đau 61
2.2.3. Người trí thức vùng cao giàu nhiệt huyết, khát khao vươn lên, mang
lại hạnh phúc cho bản làng 63
Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
VÀ KÝ CỦA LA QUÁN MIÊN 68
3.1. Tính chất giao thoa thể loại giữa truyện và ký 68
3.1.1. Chất liệu nghệ thuật giàu tính xác thực 68
3.1.2. Người trần thuật là người tham gia, chứng kiến các tình tiết, sự kiện . 72
3.2. Ảnh hưởng cốt truyện dân gian 77
3.2.1. Cốt truyện theo trình tự thời gian 77
3.2.2. Lối kết thúc có hậu, theo quy luật nhân quả 79
3.2.3. Cấu trúc truyện ngắn gọn, tự nhiên và linh hoạt 81
3.3. Ngôn ngữ gần với cách diễn đạt của đồng bào Thái 84
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là từ những năm 60 trở
lại đây, văn học các dân tộc thiểu số đã vận động, phát triển nhanh chóng và đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo,
các thể loại ngày càng phong phú. Thành tựu đó đã được khẳng định trong
Nghị quyết Trung ương V khóa VIII: “…văn học các dân tộc thiểu số có bước
tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn hóa người dân tộc thiểu số phát triển cả
về số lượng lẫn chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các
lĩnh vực văn học nghệ thuật” [13, tr.44].
Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với thơ ca nhưng văn xuôi các dân tộc
thiểu số đã nhanh chóng phát triển và đóng góp vào thành tựu của văn xuôi
Việt Nam thời kì hiện đại. Trong đó, hai thể loại truyện và ký đã xuất hiện
những tác phẩm có giá trị. Sự thành công của hai thể loại này đã được ghi nhận
và phản ánh qua các giải thưởng ở trong nước và khu vực. Tiêu biểu như: Vi
Hồng với truyện ngắn “Ngôi sao đỏ trên núi Phja Hoàng” (Giải nhì của Tổng
hội sinh viên Việt Nam năm 1960), “Cây su su noọng Ỷ” (Giải nhì của báo
Người giáo viên nhân dân năm 1962)…; Vương Trung với truyện ngắn “Hoa
trong men”, Lò Văn Sỹ với “Người bán hàng trên Cò Mạ” và Hoàng Hạc với
“Ké Nàm” (Giải khuyến khích cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn nghệ, 1964);
Cao Duy Sơn với tập truyện ngắn “Ngôi nhà xưa bên suối” (Giải thưởng của
Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008 và giải thưởng Văn học Asean năm
2009).v.v…
Đóng góp vào sự phát triển và thành công chung của văn xuôi các dân tộc
thiểu số Việt Nam có nhà văn La Quán Miên. Ông là một trong những nhà văn
tiêu biểu của văn học dân tộc Thái thời kì hiện đại. Sinh ra và lớn lên trong
nguồn mạch văn hóa của dân tộc mình, ông gắn bó, yêu quí và tự hào biết bao về
truyền thống văn hóa, lịch sử của đồng bào dân tộc Thái và các dân tộc anh em.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Từ nguồn mạch ấy, sáng tác của La Quán Miên thấm đẫm niềm tự hào về truyền
thống lịch sử và truyền thống văn hóa của quê hương. Bên cạnh đó, nhà văn còn
phản ánh chân thực, sinh động hiện thực cuộc sống và con người miền núi trong
cuộc sống hiện tại; từ đó gửi gắm đến bạn đọc bao điều suy nghĩ, trăn trở, khát
khao về sự đổi mới của quê hương, đất nước. Qua những trang viết vừa chân
thực vừa giàu cảm xúc của mình, La Quán Miên đưa độc giả đến với cuộc sống
của đồng bào dân tộc Thái và các dân tộc thiểu số vùng cao; cùng nhà văn cảm
thông, chia sẻ những khó khăn, vất vả, nỗi buồn, niềm vui.v.v của người dân
miền núi. Bên cạnh đó, những sắc thái riêng trong cách cảm, cách nghĩ và trong
“lời ăn tiếng nói” hàng ngày của đồng bào dân tộc Thái cũng sống động trên
trang viết của nhà văn. Chính điều này cũng góp phần tạo nên giá trị đặc sắc của
truyện và ký La Quán Miên, giúp cho tác phẩm của ông đi vào đời sống văn học,
mang lại những vinh dự cho nhà văn trong quá trình sáng tác. Ông được kết nạp
vào Hội Nhà văn Việt Nam. Nhiều tác phẩm của La Quán Miên đã được nhận
giải thưởng văn học; trong đó, truyện và ký là hai thể loại chính và đạt được
nhiều thành công của tác giả.
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số, chúng tôi
nhận thấy có nhiều công trình hoặc bài viết nghiên cứu về văn học dân gian dân
tộc Thái ở nhiều góc độ (loại thể, thi pháp hoặc các tác phẩm tiêu biểu) như:
cuốn Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (Nxb Đại học và
THCN Hà Nội, 1983) của tác giả Võ Quang Nhơn; cuốn Văn học dân gian
dân gian Việt Nam (Nxb Giáo dục, 1991) của tác giả Đỗ Bình Trị; cuốn Đóng
góp của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái trong tiến trình lịch sử Việt
Nam (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006) của Viện Việt Nam học và Khoa
học phát triển; Giá trị truyện thơ Xống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu) của
dân tộc Thái (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5, 1961) của tác giả Mạc Phi;
Thử tìm hiểu nguồn gốc truyện U Thền của người Thái ở Việt Nam (Tạp chí
Văn hóa dân gian, số 4, 1991) của Nguyễn Tấn Đắc…Bên cạnh đó, nhiều tác


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

giả luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ đã dành nhiều công sức và tâm huyết
nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Thái như: tác giả Ngô Thị Thanh Quý
với đề tài Nghiên cứu thi pháp truyện thơ Tiễn dặn người yêu dân tộc Thái,
luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Thái Nguyên (2001); tác giả Lò
Xuân Dừa với đề tài Bước đầu tìm hiểu một vài đặc điểm của truyện thơ Thái
“Chàng Lú – nàng Ủa” về phương diện thi pháp, luận văn Thạc sĩ Ngữ văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội (2002); tác giả Nguyễn Ngọc Bảo với đề tài Góp
phần tìm hiểu thi pháp truyện thơ tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái, luận
văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội (2005); tác giả Phạm Đặng
Xuân Hương nghiên cứu Đặc điểm thể loại của sử thi Chương ở Việt Nam -
Trường hợp Chương Han của người Thái – Tây Bắc, luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Đại học Sư phạm Hà Nội (2013);…Trong khi đó, văn xuôi dân tộc Thái
thời kì hiện đại chưa được nghiên cứu sâu, số công trình còn ít. Trong tình hình
đội ngũ sáng tác của văn học dân tộc Thái chưa mạnh bằng dân tộc Tày, việc
tập trung nghiên cứu sáng tác của một tác giả người dân tộc Thái không chỉ có
giá trị khoa học mà còn có ý nghĩa khích lệ, động viên và góp phần tạo động
lực cho sự phát triển. Từ quan niệm đó, với mong muốn tìm hiểu và xác định
sự đóng góp của La Quán Miên đối với văn xuôi dân tộc Thái nói riêng và văn
xuôi dân tộc thiểu số nói chung, mong muốn đi sâu khám phá cuộc sống, con
người miền núi (nơi tác giả luận văn gắn bó và công tác), chúng tôi lựa chọn đề
tài “Truyện và ký La Quán Miên”. Chọn đề tài nghiên cứu này, tác giả luận
văn cũng muốn gửi gắm tình cảm trân trọng đối với La Quán Miên - một nhà
văn dân tộc thiểu số có nhiều nỗ lực và thành công trong quá trình sáng tác, góp
phần đưa cuộc sống và con người miền núi đến với bạn đọc gần xa qua những
trang văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã thu thập được 15 bài viết về tác

giả và tác phẩm của La Quán Miên. ố chất văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

chương, La Quán Miên sớm đến với trang viết và có được những thành công
đáng khích lệ. Sáng tác của ông được các cây bút chuyên nghiệ ạn đọc
nhiệt tình đón nhận. Nhận thấy sức hấp dẫn riêng trong truyện và ký của La
Quán Miên, một số nhà nghiên cứu đã trân trọng viết bài giới thiệu tác phẩm
của ông với bạn đọc.
(
:“Truyện của La Quán Miên rất ngắn. Đó là một ưu điểm về
thể loại. Anh viết hồn nhiên, giản dị, đậm đà hương vị đời sống thiên nhiên,
phong tục tập quán của đồng bào Thái miền Tây Nghệ An, vừa cổ xưa, vừa
hiện đại. Giọng văn La Quán Miên hồn nhiên, khỏe khoắn, có sức lực và triển
vọng”
Miên ngay từ tập tác phẩm đầu tay.
Năm 1997, Bùi Việt Thắng có bài viết “Độc đáo La Quán Miên” đăng
trên tạp chí Văn nghệ Dân tộc và Miền núi. Tác giả bài viết thật sự bị “gây ấn
tượng mạnh mẽ . Ông nhận xét: “Gặp
La Quán Miên là gặp một cách viết hồn nhiên như được uống nước từ nguồn,
trong sạch, mát lành mà không cần qua khử trùng”, “viết truyện đến như thế là
đã gọt rũa tác phẩm đến sắc nhọn, như là đã nén chặt thuốc nổ vào ruột đạn.
La Quán Miên có cách viết nhuần nhuyễn để cho triết lý không lộ liễu và chất
liệu không sống sượng” [64, tr.28]. Bùi Việt Thắng cũng có ý kiến về ký của
La Quán Miên: “kí được viết rất hoạt, có thể ví như những bài giảng đạo đức
công dân được viết bằng văn chương” [64, tr.28].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



: “trong lòng tôi như có những làn gió nhẹ thoang
thoảng hương rừng mang phong vị bản sắc Thái (Nghệ An)” [61, tr.20].
(
: “những trang văn
của La Quán Miên viết về rẻo cao, về dân tộc thiểu số rất hoạt, mềm mại, rất
có không khí là điều dễ hiểu. Khung cảnh, tính cách, tâm lý, ngôn ngữ ở đây
đều nhuyễn, hài hòa, có hồn, có đường nét, sắc màu, giàu chi tiết. Nhiều trang,
La Quán Miên nói về phong tục của người thiểu số, rất gợi cảm, thú vị, vừa có
văn, vừa là một tài liệu có giá trị về mặt dân tộc học, văn hóa học ”
5, 1999).
Về tập truyện Năm học đã qua (xuất bản năm 2003) của La Quán Miên,
tác giả Bùi Hồng nhận xét: “Bên cạnh những câu chuyện về những nhân vật
của mình, trong truyện này bạn đọc sẽ được biết thêm về những phong tục tập
quán, cưới hỏi, ma tang của một số dân tộc miền núi qua một vài trang. Với
một cốt truyện giản dị, lối hành văn mộc mạc, giàu hình ảnh – “Năm học đã
qua” có sức lôi cuốn bạn đọc” “cốt truyện giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đọc,
đấy là điều nhà văn La Quán Miên đã làm được ”(
)
nét riêng khó lẫn và ưu thế nổi bật trong truyện và ký La Quán Miên.
Tìm hiểu về truyện và ký của La Quán Miên, bên cạnh những nhận xét,
đánh giá chung, chúng tôi còn tập hợp được những bài thẩm bình, nhận xét cụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

thể về một phương diện đặc sắc nổi bật của tác phẩm. Tiêu biểu như nhận xét
của nhà nghiên cứu phê bình Văn Giá về “tứ truyện” trong truyện ngắn
Coóng: “Gọn ghẽ như một cổ tích. Tứ truyện chìm sâu vào trong mạch
truyện. Nhờ thế, câu chuyện chứa nhiều sức gợi, để lại nhiều dư vị trong lòng
người đọc” [25, tr.84]; hoặc nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện
về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được phản ánh trong truyện ngắn

Tình yêu của hổ: “tác giả phải chăng muốn gửi đến chúng ta một thông điệp
nghệ thuật rằng: Trên thế gian này giữa người với người, người với vật và
rộng ra là với thiên nhiên quanh ta, chúng ta phải biết sống nương tựa vào
nhau, hòa hợp và yêu thương nhau, cho sự bình yên và hạnh phúc. Người – vật
– thiên nhiên phải là bạn của nhau, nâng đỡ lẫn nhau, theo quy luật nhân quả,
có trước có sau” [25, tr.77].
. Đó là hiện tượng “cốt truyện còn sơ sài”, “nhân vật
còn mờ nhạt”: “Hầu như các truyện chưa thành truyện, vì còn quá đơn giản,
(…). Phần ký cũng mới chỉ là những kỷ niệm đáng yêu, đáng nhớ được kể lại
một cách thật thà, được ghi chép lại một cách đơn sơ, còn sa vào kể việc, giải
thích, trích dẫn nhiều, chưa thành những bút ký văn học hay” (
) [61, tr.20]; “nhiều truyện còn đơn sơ”
) [61, tr.20].
Tập hợp tư liệu nghiên cứu về La Quán Miên, chún
-
- -
. Từ các tài liệu thu thập được, chúng tôi đánh giá tình hình
nghiên cứu về truyện và ký của La Quán Miên trên những nét cơ bản như sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

- Về mức độ: chủ yếu là các bài viết có dung lượng ngắn với mục đích
giới thiệu hoặc trình bày cảm nhận về tác phẩm của La Quán Miên khi xuất bản
hoặc khi được nhận giải thưởng;
- Về phạm vi: mỗi bài viết tập trung vào một (hoặc một nhóm) tác phẩm
của nhà văn;
- Về kết quả nghiên cứu:
+ Xác định được nội dung cơ bản của truyện và ký La Quán Miên là
hiện thực cuộc sống và con người miền núi, đặc biệt là đời sống của đồng bào
dân tộc Thái trong mối quan hệ gắn bó giữa truyền thống và hiện tại;

+ Khẳng định nét riêng trong truyện và ký La Quán Miên là bản sắc
dân tộc Thái, thể hiện đậm nét trong nhiều phương diện (khung cảnh, nhân vật,
ngôn ngữ…) của các tác phẩm;
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu mới dừng lại ở những nhận xét, đánh
giá mang tính khái quát hoặc những cảm nhận, thẩm bình về một tác phẩm
cụ thể; chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu toàn bộ truyện và ký của
La Quán Miên.
Đây chính là “khoảng trống” để chúng tôi lựa chọn đề tài, tiếp tục nghiên
cứu truyện và ký của La Quán Miên ở mức độ rộng và sâu hơn, trên cơ sở
những ý kiến đánh giá, gợi mở của người đi trước.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài truyện và ký La Quán Miên, chúng tôi xác định
mục đích:
Khẳng định ý nghĩa của truyện và ký La Quán Miên đối với cuộc sống và
con người miền núi; khẳng định những đóng góp của nhà văn đối với văn xuôi
dân tộc Thái nói riêng và văn xuôi dân tộc thiểu số nói chung;
Góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu có ưu thế của Đại học
Thái Nguyên: nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số khu vực miền núi
phía Bắc;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Góp phần khẳng định vị trí của văn học dân tộc thiểu số trong nền văn học
Việt Nam hiện đại; khẳng định bước trưởng thành của các nhà văn dân tộc
thiểu số.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài này, chúng tôi xác định những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu những vấn đề cơ bản của văn xuôi dân tộc Thái thời kì
hiện đại về đội ngũ sáng tác, thể loại, những đặc điểm nội dung và nghệ
thuật, từ đó đưa ra những đánh giá khái quát về thành tựu, đóng góp của bộ

phận văn học này;
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến con đường sáng tác văn
chương của nhà văn La Quán Miên làm cơ sở để giải thích những thành công
và hạn chế (nếu có) trong sáng tác của nhà văn đặc biệt là mảng truyện và ký;
- Khảo sát, xác định và phân tích những đặc điểm cơ bản về nội dung
và nghệ thuật trong truyện và ký của nhà văn La Quán Miên; so sánh những
đặc điểm đó với sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số khác.
- Đánh giá ý nghĩa của truyện và ký của La Quán Miên trong mối quan
hệ với cuộc sống, con người miền núi; đặc biệt là cuộc sống của đồng bào dân
tộc Thái hiện nay; đánh giá đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn
xuôi dân tộc Thái nói riêng và văn xuôi dân tộc thiểu số nói chung.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động văn học của La Quán Miên bao gồm sáng tác, nghiên cứu, sưu
tầm và dịch thuật. Sáng tác của ông có các thể loại: thơ, truyện và ký. Trong
khuôn khổ của đề tài, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là các tác phẩm
thuộc thể loại truyện và ký của nhà văn.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
a) Những tập truyện và ký của La Quán Miên đã được xuất bản (gồm 5 tập
truyện, từ năm 1996 đến 2003):

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

- Hai người trở về bản (Truyện và ký, Nxb Văn học, 1996).
- Vùng đất hoa kờ mạ (Truyện và ký, Nxb Văn học, 1997).
- Trời đỏ (Truyện và ký, Nxb Nghệ An, 1998).
- Bản nhỏ tuổi thơ (Truyện vừa, Nxb Kim Đồng, 2000).
- Năm học đã qua (Truyện vừa, Nxb Nghệ An, 2003).
b) Một số truyện ngắn và bài ký được in trên các báo và tạp chí:
- Gặp lại một dòng sông (ký, Báo Nghệ An - Dân tộc - Miền núi, 2007);

- Bản mới ven sông (ký, Báo Nghệ An - Dân tộc - Miền núi, 2007);
- Ký ức, suy tư về lũ đầu nguồn (ký, Báo Văn nghệ, 2010);
- Cầm Quý (Truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ Vinh số 13, 2012).
- Nhả Póm (Truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ Vinh số 14, 2013).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê các tác phẩm văn học của nhà văn La
Quán Miên; những tác phẩm văn xuôi dân tộc Thái thời kì hiện đại và những
bài viết nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của La Quán Miên.
- Phương pháp so sánh đối chiếu để thấy được nét chung và nét riêng về
nội dung và nghệ thuật truyện và ký của nhà văn La Quán Miên so với một số
cây bút văn xuôi dân tộc thiểu số tiêu biểu khác.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để xác định những đặc
điểm cơ bản của văn xuôi dân tộc Thái; đánh giá thành công và hạn chế (nếu
có) của truyện và ký La Quán Miên.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành giữa văn học, lịch sử, văn hóa học
được sử dụng để tìm hiểu các giá trị văn hóa, lịch sử và xã hội trong truyện và
ký của nhà văn La Quán Miên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu truyện và ký của La Quán Miên.
Việc lấy truyện và ký của nhà văn La Quán Miên làm đối tượng nghiên cứu là
một cách ghi nhận, khẳng định những đóng góp và vị trí của văn học dân tộc
Thái cũng như văn học dân tộc thiểu số đối với nền văn học Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là một tài liệu tham khảo hữu ích đối với
những người nghiên cứu, đặc biệt là văn xuôi dân tộc Thái và văn học dân tộc
thiểu số nói chung.

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, chúng
tôi đã triển khai nội dung của luận văn thành 3 chương:
Chương 1: La Quán Miên - nhà văn dân tộc Thái (thời kì hiện đại).
Chương 2: Cuộc sống và con người miền núi trong truyện và ký của La
Quán Miên.
Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật trong truyện và ký của La
Quán Miên.





















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
LA QUÁN MIÊN – NHÀ VĂN DÂN TỘC THÁI (THỜI KÌ HIỆN ĐẠI)

1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc Thái thời kì hiện đại
1.1.1. Đội ngũ sáng tác
Là một thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc Thái
có nền văn học dân gian phong phú. Theo dòng lịch sử, văn học Thái vẫn
không ngừng vận động, phát triển từ văn học truyền khẩu đến văn học thành
văn. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, văn học dân tộc Thái đã có được một
diện mạo mới với đội ngũ các nhà văn, nhà thơ ngày càng phát triển: Cầm Biêu,
Lương Quý Nhân, Hoàng Nó, Lò Văn Cậy, Tòng Ín, Vương Trung, Bùi Tiên, Sa
Phong Ba, La Quán Miên, Lò Vũ Vân, Lò Cao Nhum, Cầm Hùng, Thái Tâm, Vi
Hợi, Lang Quốc Khánh, Cầm Bá Lai, Vi Văn Thứa, Kha Thị Thường.v.v…Văn
học dân tộc Thái đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn học Việt Nam
vốn phong phú, đa dạng và giàu bản sắc. Trong sự vận động và phát triển chung,
văn xuôi dân tộc Thái cũng đạt được những kết quả đáng ghi nhận về các
phương diện: đội ngũ sáng tác, số lượng và chất lượng tác phẩm.
Đội ngũ sáng tác văn xuôi dân tộc Thái ngày càng phát triển. Từ hai
gương mặt xuất hiện vào những năm 60 của thế kỉ trước là Vương Trung và Lò
Văn Sỹ, đến nay, văn xuôi dân tộc Thái có thêm nhiều gương mặt mới như: Sa
Phong Ba, La Quán Miên, Cầm Hùng, Lang Quốc Khánh, Vi Hợi, Kha Thị
Thường… Trong đội ngũ sáng tác đó, có những nhà văn được đào tạo chính
quy (Vương Trung, Sa Phong Ba, Kha Thị Thường); có người viết từ niềm say
mê và kinh nghiệm cá nhân; đa số vừa sáng tác vừa dạy học, làm báo hoặc làm
công tác văn học nghệ thuật ở địa phương (Vương Trung, La Quán Miên, Cầm
Hùng, Lang Quốc Khánh, Vi Hợi…). Các cây bút văn xuôi dân tộc Thái hiện
nay chủ yếu tập trung ở một số tỉnh của khu vực Tây Bắc và miền Trung; trong


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

đó, chủ yếu là Sơn La và Nghệ An: Vương Trung, Lò Văn Lả, Cầm Hùng, Sa
Phong Ba, (Sơn La), La Quán Miên, Thái Tâm, Lang Quốc Khánh, La Minh
Thư, Vi Hợi, Kha Thị Thường, (Nghệ An). Đây cũng là địa bàn cư trú chủ yếu
của đồng bào dân tộc Thái ở nước ta. Điều đó cho thấy, các nhà văn dân tộc
Thái luôn gắn bó, gần gũi với đồng bào mình. Sự gắn bó đó giúp cho ngòi bút
nhà văn có điều kiện “bắt rễ” sâu vào cuộc sống, con người quê hương, làng
bản và lưu giữ bản sắc dân tộc trên trang viết. Chính sự trưởng thành của các
nhà văn dân tộc Thái trở thành niềm tự hào của đồng bào quê hương.
So với văn xuôi dân tộc Tày, văn xuôi dân tộc Thái chưa có được những
nhà văn có bút lực dồi dào (như Vi Hồng, Cao Duy Sơn); song văn xuôi dân
tộc Thái đã có được một đội ngũ những người cầm bút say mê, nhiệt huyết.
Tình yêu với cuộc sống, con người quê hương và niềm say mê đối với văn
chương đã đưa nhiều người con của dân tộc Thái từ những làng bản và những
ngành nghề khác nhau đến với văn chương. Bằng vốn sống phong phú và sự
nhiệt tình, tận tâm với trang viết, các cây bút văn xuôi dân tộc Thái đã mang lại
cho mảng văn chương này những thành công đáng ghi nhận, đưa văn xuôi dân
tộc Thái hòa vào dòng chảy chung của nền văn học dân tộc.
1.1.2. Thể loại
Bên cạnh sự phát triển về lực lượng sáng tác, văn xuôi dân tộc Thái đã đạt
được sự phong phú về thể loại.
Truyện ngắn của các tác giả người dân tộc Thái xuất hiện vào những thập
niên đầu 60, 70 của thể kỉ XX. Những truyện đầu tiên: Hoa trong men của
Vương Trung, Người bán hàng trên Cò Mạ của Lò Văn Sỹ, Công việc của
ông Ngắt của Sa Phong Ba. Đến năm 1982, tập truyện ngắn đầu tiên của văn
học dân tộc Thái ra mắt người đọc, đó là tập truyện ngắn Những bông ban tím
(Sa Phong Ba). Từ những thập niên 90 trở lại đây, thể loại truyện ngắn, truyện
vừa của dân tộc Thái thực sự phát triển mạnh với sự ra đời của hàng loạt tập

truyện: Vùng đồi gió quẩn (1994), Chuyện ở chân núi Hồng Ngài (2005),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Nhà ấy có ma xó (2010) của Sa Phong Ba; Con thuyền lá (1995), Cửa hàng
dược trong nghĩa trang (1998) của Cầm Hùng; Đêm canh ba (tập truyện ngắn
in chung, 2000), Lũ núi (2002), Mùa hoa lù cù (2008) của Kha Thị Thường;
tập truyện, ký Xuống núi (2010) của Vi Hợi; nhiều tập truyện và ký, truyện
vừa của La Quán Miên: Hai người trở về bản (1996), Vùng đất hoa kờ mạ
(1997), Trời đỏ (1998), Bản nhỏ tuổi thơ (2000), Năm học đã qua
(2003);…Theo đánh giá của chúng tôi, cho đến nay, truyện ngắn vẫn là thể loại
đạt được nhiều thành công nhất của văn xuôi dân tộc Thái thời kì hiện đại.
Trong văn xuôi dân tộc Thái, so với truyện ngắn, tiểu thuyết xuất hiện
muộn hơn. Người mở đầu cho thể loại này là nhà văn Vương Trung với Mối
tình Mường Sinh (1994). Từ đó đến đầu những năm 2000, Vương Trung cũng
như các cây bút văn xuôi dân tộc Thái khác không có thêm cuốn tiểu thuyết
nào. Hơn mười năm sau, nhà văn Vương Trung mới hoàn thành cuốn tiểu
thuyết thứ hai là Đất bản quê cha (2007). Hai năm sau đó, nhà văn Cầm Hùng
gửi đến bạn đọc cuốn tiểu thuyết Cơn lốc đen (2009). Như vậy, cho đến nay,
tác phẩm thuộc tiểu thuyết tuy có số lượng ít nhưng cũng đã góp phần làm cho
diện mạo thể loại của văn xuôi dân tộc Thái thêm phần phong phú, hiện đại.
Bên cạnh truyện ngắn và tiểu thuyết, thể loại ký cũng có nhiều tác phẩm
với sự góp sức của các nhà văn: Sa Phong Ba, La Quán Miên, Hà Sủm, Lang
Quốc Khánh, Vi Hợi…Trong đó có thể kể đến sự thành công của những tác
phẩm: bút ký Lặng lẽ Phiêng Côn của Sa Phong Ba; một số bài ký trong các
tập truyện và ký Hai người trở về bản, Vùng đất hoa kờ mạ, Trời đỏ của La
Quán Miên; tập bút ký Những miền thương nhớ (2005) của Lang Quốc
Khánh; một số bài trong tập truyện, ký Xuống núi (2010) của tác giả Vi Hợi…
Trong quá trình sáng tác, nhiều cây bút văn xuôi dân tộc Thái đã đạt được
giải thưởng văn học đánh khích lệ:

Tác giả Sa Phong Ba với truyện ngắn Công việc của ông Ngắt - Giải
chính thức của Bộ Nội thương năm 1973, truyện ngắn Ông Pán đưa thư - Giải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

chính thức của Tổng cục Bưu điện năm 1978; bút ký Lặng lẽ Phiêng Côn -
Giải thưởng về đề tài công nhân lao động năm 1985, truyện ngắn Gói lương
hưu - Giải nhì cuộc phát động sáng tác về bảo hiểm xã hội Sơn La và Hội Văn
học nghệ thuật Sơn La phối hợp tổ chức năm 2000, truyện ngắn Chuyện ở
chân núi Hồng Ngài - Giải khuyến khích của Hội Văn học nghệ thuật các dân
tộc thiểu số Việt Nam năm 2006.
Bên cạnh đó, có thể kể đến thành công của nhiều cây bút khác: Vương
Trung với tiểu thuyết Mối tình Mường Sinh - Giải A Ủy ban toàn quốc Liên
hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1995; Vi Hợi với truyện ngắn
Xuống núi - Giải A Cuộc vận động sáng tác, quảng cáo tác phẩm văn học nghệ
thuật, báo chí chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tổ
chức năm 2009; Hà Sủm với bút ký Đất rừng thân yêu - giải B trong cuộc thi
sáng tác về đề tài miền núi và dân tộc do Tạp chí Văn hóa các dân tộc tổ chức
năm 2001; Lang Quốc Khánh với tập bút ký Những miền thương nhớ - giải C,
giải thưởng Hồ Xuân Hương của Hội Văn học nghệ thuật Nghệ An trao tặng
năm 2005.v.v…
Giải thưởng trao tặng cho các nhà văn dân tộc Thái gồm cả tiểu thuyết,
truyện ngắn, truyện vừa, ký. Đây là một phương diện khẳng định sự trưởng
thành về chất lượng sáng tác của văn xuôi dân tộc Thái trong hành trình vừa qua.
Qua quá trình phát triển, với nỗ lực tìm kiếm các thể loại phù hợp để phản
ánh cuộc sống, con người miền núi ở những chiều, kích khác nhau, các nhà văn
dân tộc Thái đã tạo nên một diện mạo thể loại văn xuôi khá đa dạng. Tuy nhiên,
so với “mặt bằng” chung, có lẽ diện mạo thể loại của văn xuôi dân tộc Thái
chưa thật đầy đủ, phong phú và toàn diện. Nhìn một cách khái quát, ưu thế thể
loại của văn xuôi dân tộc Thái thuộc về truyện ngắn và ký; tiểu thuyết số lượng

còn ít, mức độ thành công chưa nhiều; phóng sự, tùy bút chưa hiện diện. Hy
vọng trong hành trình phát triển, cùng với sự phát triển về đội ngũ sáng tác, văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

xuôi dân tộc Thái sẽ có một diện mạo thể loại ngày càng phong phú, đa dạng và
đạt được nhiều thành công hơn.
1.1.3. Nội dung
Văn xuôi dân tộc Thái là một bộ phận của văn xuôi Việt Nam hiện đại do
vậy nó vừa mang đặc điểm chung lại vừa có những đặc điểm riêng của một bộ
phận văn học mà chủ thể sáng tạo là các tác giả người dân tộc Thái và đối
tượng phản ánh chủ yếu là thiên nhiên, cuộc sống và con người miền núi.
Đối với các cây bút văn xuôi dân tộc Thái, thiên nhiên là một đối tượng
thẩm mỹ quan trọng. Qua việc miêu tả thiên nhiên, nhà văn vừa thể hiện tình
yêu đối với quê hương miền núi, vừa thể hiện sự khám phá về cuộc sống và con
người. Bức tranh thiên nhiên trong văn xuôi dân tộc Thái thường hiện lên trong
trạng thái vừa hùng vĩ, huyền bí vừa mang vẻ đẹp nên thơ. Đó là vẻ hùng vĩ, dữ
dội của dãy núi Răng Voi cao vời vợi, sừng sững “trông giống như hàm răng
dưới của một con thú dữ” (Sao Lạ Phiềng Xa - Sa Phong Ba); vẻ hoang lạnh
của cánh rừng Pả Đông trong truyện Bản nhỏ tuổi thơ (La Quán Miên); những
đêm trăng “đổ ánh sáng như bạc xuống thung lũng Piêng-luồng” trong truyện
Công việc của ông Ngắt (Sa Phong Ba). Dưới ngòi bút của nhà văn Vi Hợi,
thiên nhiên tràn đầy sức sống: “Tháng ba, tiết trời trở nên ấm áp. Trên những
cành cây khẳng khiu, những chồi xanh biếc được ủ ấm trong mùa đông giá
buốt, nay chợt bừng tỉnh, chui ra khỏi lớp vỏ khô cứng. Xa xa, hoa ban đua sắc
điểm trắng cho những cánh rừng, hoa cờ mạ nở rộ, nhuộm vàng hai bên suối
( ), hàng xoài xanh ngát, những chùm quả mới nhú ra khỏi đài hoa, non tơ
phơi mình dưới nắng xuân ấm áp” (bút ký Gian khó với rừng) [20, tr.72].
Qua trang viết của các tác giả, người đọc như được tắm mình trong không
khí nguyên sơ của núi rừng, cảm thấy mình gần gũi với thiên nhiên hơn. Qua

đó, người đọc cũng cảm nhận rất rõ tình cảm gắn bó của nhà văn với cảnh vật
miền núi qua những trang văn miêu tả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Một trong những nội dung được các nhà văn phản ánh, miêu tả chân thực
trong các sáng tác đó là những phong tục, tập quán truyền thống của đồng bào
miền núi từ phong tục ma chay, cưới xin, buộc vía, tỏ tình, giao tiếp, ứng xử
trong cuộc sống hàng ngày…đến những phong tục tín ngưỡng như: lễ cúng
cơm mới, lễ mừng tiếng sấm đầu năm, lễ Cắm Phạ Ky Mọc (lễ ăn chay), cúng
Bà Bếp, cúng con trâu…và những làn điệu dân ca Thái, các lễ hội: lễ hội gội
đầu, cầu mùa, lễ hội Kin lẩu nó…Điều đó được thể hiện rất rõ trong tập truyện
vừa Bản nhỏ tuổi thơ, Năm học đã qua (La Quán Miên), tiểu thuyết Mối tình
Mường Sinh, Đất bản quê cha (Vương Trung)
Bên cạnh đó, văn xuôi viết về tình bạn, tình yêu, hôn nhân gia đình cũng
khá phong phú. Có những câu chuyện về tình bạn chân thành, trong sáng với
một tình yêu chung thủy, đầy lòng yêu thương và trách nhiệm như khúc ca ấm
áp lòng người (Con thuyền lá, Tù binh của mẹ, Ngựa ôm - Cầm Hùng;
Những mùa hoa nở, Rừng - Kha Thị Thường…). Nhưng cũng có những câu
chuyện tình đầy éo le, trắc trở (Cửa hàng dược trong nghĩa trang, Hoa vông
đỏ - Cầm Hùng; O Long, Dập dìu ngày xuân, Khuôn mặt tình yêu, Những
mùa hoa nở - Kha Thị Thường…). Trong nội dung này, các nhà văn đã miêu tả
được trạng thái tâm lí của nhân vật trong những hoàn cảnh, tình huống khác
nhau. Đó có thể là sự đau đớn khi bị phản bội (Cửa hàng dược trong nghĩa
trang, Khuôn mặt tình yêu) hay ngờ vực (O Long), tình yêu bị ngăn cấm,
không trọn vẹn (Những mùa hoa nở, Rừng)…Trong số các nhà văn dân tộc
Thái viết về tình yêu và hôn nhân, cây bút nữ trẻ Kha Thị Thường đã có nhiều
trang văn gây xúc động lòng người. Ngòi bút của chị đã thể hiện những cảm
xúc rất sâu sắc, tinh tế và sự cảm thông với người phụ nữ gặp nhiều nỗi trắc trở,
bất hạnh trong tình yêu và nỗi chật vật, vất vả trong cuộc sống đời thường.

Tình đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc anh em Thái, Thổ, H’mông,
Mường, Kinh cũng là một nội dung mà các nhà văn muốn truyển tải đến bạn
đọc. Trong đó có một số tác phẩm tiêu biểu: truyện ngắn Chuyện ở chân núi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Hồng Ngài, Tết mới ở Cáy Khẹ (Sa Phong Ba); Xuống núi, Nơi trời đất gặp
nhau (Vi Hợi).v.v…Truyền thống đạo lý quý báu đó đã làm nên sức mạnh
chiến thắng thiên nhiên trong lao động sản xuất và trong xây dựng, bảo vệ tổ
quốc đồng thời khẳng định sức mạnh đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Bám sát những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong từng giai
đoạn cụ thể, văn xuôi dân tộc Thái đã tập trung phản ánh, ca ngợi cuộc sống mới,
con người mới và sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn miền núi như: xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp, làm thủy lợi, thủy điện, trồng rừng, xây dựng quê
hương mới, cuộc sống định canh định cư, chống mê tín dị đoan, chống tư tưởng
lạc hậu…Trong đó nhiều truyện ngắn của Sa Phong Ba như: Những bông ban
tím, Nắng gió Phiêng Tam, Chuyện ở chân núi Hồng Ngài, Sao lạ Phiềng Xa,
Bố con ông Pấng, Công việc của ông Ngắt… đã thể hiện niềm vui hân hoan,
phấn khởi, sự tin tưởng của nhân dân khi được làm chủ tập thể, được chứng kiến
sự thay đổi kì diệu trên quê hương khi có Đảng lãnh đạo. Ở đó có những con
người cần cù, thông minh, dám thay đổi cách nghĩ, cách làm; đặc biệt là thế hệ
trẻ năng động, sáng tạo, được trang bị kiến thức khoa học kĩ thuật: nhân vật
Nhọm, Nhớ, Bóng trong truyện ngắn Những bông ban tím; Di, Dụ trong Lòng
rừng.v.v…Trong tập bút ký Những miền thương nhớ, Lang Quốc Khánh kịp
thời phản ánh những con người dám xả thân lăn lộn, tìm mọi cách để vượt lên
cái đói nghèo. Đó là ông Vi Văn Thơm, ông Quang Văn Phiêng…quyết không
phá rừng, đào vàng mà bỏ mồ hôi công sức khai khẩn đất hoang để lập nên trang
trại chăn nuôi, cây ăn quả, quế…cho giá trị kinh tế cao. Nội dung ca ngợi cuộc
sống mới, con người mới trong văn xuôi dân tộc Thái thể hiện rõ niềm tin tưởng

tuyệt đối của đồng bào dân tộc thiểu số và của chính những người cầm bút đối
với chính sách phát triển kinh tế, văn hóa miền núi của Đảng và Nhà nước.
Mối quan hệ hòa hợp giữa thiên nhiên và con người là một nội dung thể
hiện chiều sâu suy nghĩ và phản ánh của văn xuôi dân tộc Thái. Các tác phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

của Sa Phong Ba (Lòng rừng, Rừng bương của ông già Pàn); Kha Thị
Thường (Lũ núi); Lang Quốc Khánh (Mường Khát, Vàng lộ thiên)…tập trung
vào nội dung này. Qua tác phẩm của mình, các nhà văn đã phản ánh tình trạng
hủy hoại môi trường, tàn phá thiên nhiên (nạn phá rừng, săn bắn, khai thác
khoáng sản…) dẫn đến những tai họa khủng khiếp đối với cuộc sống của con
người; từ đó gióng lên tiếng chuông cảnh báo về cách ứng xử và hành động của
con người đối với thiên nhiên.
Các nhà văn dân tộc Thái đã kịp thời phản ánh những ảnh hưởng và mặt trái
của cuộc sống hiện đại, của quyền lực, của đồng tiền lên số phận, nhân cách con
người miền núi. Điều này được phản ánh rất rõ nét trong tiểu thuyết Cơn lốc đen
của tác giả Cầm Hùng, Hoa nở trái mùa, Người trong họ, Sương rơi từ núi của
Kha Thị Thường. Trong đó, Sa Phong Ba là cây bút có bản lĩnh, dám nhìn thẳng
vào sự thật để phanh phui, mổ xẻ căn bệnh tham ô, cửa quyền, thiếu trách nhiệm
của một số kẻ có chức quyền trong xã hội. Nội dung đó được ông phản ánh trong
nhiều truyện ngắn như: Gói quà bí mật, Thông cảm bác nhé, Chậc! tại mình
cả, Chuyện của một người dạy thú thất nghiệp, Một hội bí mật của những
người giàu, Câu chuyện ruột bút bi có kiến kim, Chuyện ông Póm tếu ở Nà
Cút, Nhà thích cổng sau
Một trong những nội dung được các nhà văn quan tâm và phản ánh trong
các tác phẩm đó là vấn đề an ninh quốc phòng ở miền núi. Tuy số lượng tác
phẩm viết về nội dung này chưa nhiều nhưng các nhà văn phần nào phản ánh
được âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt, thâm hiểm của các thế lực phản động. Chúng
lợi dụng sự thật thà, cả tin và mê tín của đồng bào để mua chuộc, xúi giục, chia

rẽ tình đoàn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
núi. Điều đó được phản ánh trong các tác phẩm: Mối tình Mường Sinh (Vương
Trung), Sói mặt người (Cầm Hùng), Nơi trời đất gặp nhau (Vi Hợi).v.v…
Bên cạnh đó, văn xuôi dân tộc Thái đã mở rộng phạm vi phản ánh và đối
tượng thưởng thức, có những trang viết trong trẻo dành cho thiếu nhi: tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

truyện vừa Bản nhỏ tuổi thơ - La Quán Miên, tập truyện Mùa hoa lù cù - Kha
Thị Thường; có những trang viết đầy cảm động của về người lính: Con thuyền
lá, Biên Hòa trong anh, Má con bé Lai, Ăn mừng ngày chiến thắng 30-4 -
Cầm Hùng; những dòng viết xúc động về Bác Hồ: Sao lạ Phiềng Xa - Sa
Phong Ba, Bức ảnh - Hà Sủm, Người con trai bản, Câu chuyện đêm bản Pha
- La Quán Miên
Trên hành trình sáng tác, các cây bút văn xuôi dân tộc Thái đã không ngừng
mở rộng biên độ phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Qua tác phẩm của các nhà
văn, thiên nhiên, cuộc sống, con người và những phong tục tập quán của đồng
bào các dân tộc thiểu số hiện lên cụ thể, chân thực, rõ nét; nhiều vấn đề cấp thiết
của đời sống cũng đi vào trang viết. Điều đó góp phần khẳng định ưu thế về khả
năng phản ánh hiện thực cuộc sống ở bề rộng và chiều sâu trong văn xuôi dân
tộc Thái nói riêng và trong văn xuôi Việt Nam thời kì hiện đại nói chung.
1.1.4. Nghệ thuật
Một trong những đặc điểm dễ nhận thấy đó là sự ảnh hưởng khá đậm nét
của văn học dân gian lên các sáng tác văn xuôi hiện đại dân tộc Thái ở các
phương diện: kết cấu, ngôn ngữ và cách xây dựng nhân vật; tạo nên ấn tượng
vừa quen thuộc, vừa mới mẻ, hấp dẫn đối với người đọc
Về phương diện kết cấu truyện, kiểu kết cấu truyền thống mang tính phổ
biến, xuất hiện ở nhiều tác phẩm. Cốt truyện chủ yếu vẫn tuân theo trật tự thời
gian tuyến tính, nhân vật, sự kiện trong tác phẩm còn đơn giản, chưa tạo được
nhiều kiểu kết cấu nhân vật và sự kiện đa dạng. Có những truyện chỉ có 2, 3

nhân vật (Một dịp may để trả thù, Cửa hàng dược trong nghĩa trang - Cầm
Hùng; Mùa hoa ban nở rộ - La Quán Miên; Món quà bí mật - Sa phong Ba…).
Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác, các cây bút văn xuôi dân tộc Thái đã có ý
thức đổi mới, phát triển cốt truyện theo hướng hiện đại. Đó là việc xây dựng kiểu
cốt truyện gấp khúc, có sự đảo lộn thời gian (Đất bản quê cha - Vương Trung)
và kết thúc mở, kết thúc không có hậu (Hai người trở về bản của La Quán Miên;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Rừng, O Long, Sương rơi từ núi… của Kha Thị Thường). Cách mở đầu, diễn
biến và kết thúc tác phẩm của văn xuôi dân tộc Thái thường nhanh, ngắn gọn,
linh hoạt và tự nhiên. Điều đó ta thấy rất rõ trong các tác phẩm như: Những
bông ban tím, Sao lạ Phiềng Xa, Nỗi bực của y sĩ Pằn…(Sa Phong Ba); trong
các truyện ngắn của La Quán Miên, Cầm Hùng, Kha Thị Thường. Sự đổi mới
trong kết cấu truyện của các nhà văn dân tộc Thái chưa phải là những sáng tạo
mang tính đột phá, song cũng phản ánh ý thức mang lại hình thức mới cho tác
phẩm của những người cầm bút.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, trong văn xuôi dân tộc Thái thời kì hiện
đại, ngoài cách xây dựng nhân vật đơn tuyến, một số tác giả đã xây dựng được
những nhân vật mang tính đa diện như: Long Phúc (Đất bản quê cha - Vương
Trung), Y Sương (Sương rơi từ núi - Kha Thị Thường). Nhiều nhà văn đã xây
dựng nhân vật theo tuyến và sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản theo lối
truyền thống (Những bông ban tím, Lòng rừng, Bố con ông Pấng, Nỗi bực của
y sĩ Pằn - Sa Phong Ba; Hai người trở về bản - La Quán Miên ). Tuy nhiên, để
phản ánh cuộc sống “đa đoan”, “đa sự”, một số tác phẩm đã xuất hiện kiểu nhân
vật tâm lý (Ảo ảnh, Khuôn mặt tình yêu, Ngày biết tuổi…Kha Thị Thường; Mối
tình Mường Sinh - Vương Trung). Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật đặc biệt
là thủ pháp độc thoại nội tâm đã được các nhà văn chú ý khai thác (nhân vật
Sương trong Mối tình Mường Sinh của Vương Trung; y sĩ Pằn trong Nỗi bực
của y sĩ Pằn,…của Sa Phong Ba; nhân vật “tôi” trong Khuôn mặt tình yêu của

Kha Thị Thường.v.v…).
Cũng như các nhà văn dân tộc thiểu số khác, trong các sáng tác của Vương
Trung, Sa Phong Ba, La Quán Miên, Kha Thị Thường…chúng ta đều bắt gặp thủ
pháp nghệ thuật so sánh, ví von giàu hình ảnh rất gần gũi với cách cảm, cách nói
của người miền núi. Những từ ngữ địa phương mang màu sắc dân tộc, những câu
tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, câu chuyện cổ, bài cúng lễ của người Thái
được các nhà văn vận dụng linh hoạt góp phần tạo nên hiệu quả về nghệ thuật.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×