Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.08 KB, 83 trang )

Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hiện nay khi khu vực hoá toàn cầu hoá đang trở thành xu
hướng phổ biến thì bên cạnh quá trình hợp tác hoá theo nguyên tắc hai bên cùng
có lợi bên cạnh đó là sự cạnh tranh gay gắt khốc liệt giữa các chủ thể trong nền
kinh tế và giữa các quốc gia. Trong môi trường kinh tê thế giới như vậy yêu cầu
khách quan và cấp thiết đối với nước ta là phải nâng cao năng lực cạnh tranh
kinh tế của mình để ngày càng hội nhập sâu rộng và hiệu quả hơn. Một trong
những biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế là phải lành mạnh hoá hệ
thống tài chính ngân hàng .Như chung ta đã biết, ngân hàng là một loại hình tổ
chức kinh doanh có vai trò hết sức quan trọng sự hoạt động hiệu quả của hệ
thông ngân hàng gắn liền với sự hưng thịnh của nền kinh tế. Các hoạt động của
ngân hàng trong đó có hoạt động sử dụng vốn phải được hiệu quả và an toàn thì
sẽ có những đóng góp tích cực vào việc ổn định và cải thiện môi trường kinh tế
vĩ mô như kiềm chế lạm phát, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm gần đây HĐKD của NHTM CP Quân đội là khá tốt,
dư nợ cho vay tăng, tỷ lệ nợ quá hạn giảm, các dịch vụ ngân hàng phát triển
thu phí dịch vụ kinh doanh ngoại tệ tăng .Tuy nhiên không thể nói là không
có những tồn tại và khó khăn cần khắc phục trong việc sử dụng vốn. Hiệu quả
sử dụng vốn không chỉ là mối quan tâm của nhà quản lý ngân hàng mà còn là
mối quan tâm của toàn xã hội. Vì đây là tín hiệu phản ánh trình độ hoàn thiện
biện pháp lệnh theo cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế nói chung và hoạt
đông quản lý của ngân hàng nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn vừa phản ánh sử
lớn mạnh của một ngân hàng vừa phản ảnh những mặt còn bất cập trong quản
lý điều hành. Nh vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là
vấn đề luôn đặt lên hàng đầu trong quản lý ngân hàng nói chung và của
1
NHTM CP Quân đội nói riêng. Chính vì vậy sau một thời gian thực tập tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội, em đã lùa chọn đề tài “Giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân
đội” làm khoá luận tốt nghiệp cho mình.


Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về NHTM và hệ số sử dụng vốn của
NHTM.
- Phân tích tổng quan tình hình kinh doanh của NHTM CP Quân đội, đặc
biệt đi sâu phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của NHTM CP
Quân đội. Trên cơ sở đó tìm ra những mặt đã làm được, những tồn tại
cần khắc phục và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
NHTM CP Quân đội.
- Đề xuất hệ thống kiến nghị nhằm thực hiện hệ thống giải pháp trên.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn của NHTM
- Phạm vi nghiên cứu: số liệu nghiên cứu các năm 2005, 2006, 2007
của NHTM cổ phần Quân Đội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng với lý thuyết hệ thống
kết hợp với thực tiễn để đưa ra đề xuất.
5. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận,danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
bao gồm ba chương nh sau:
Chương 1: NHTM và hiệu quả sử dụng vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM cổ phần Quân
Đội.
2
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM cổ
phần Quân Đội.
Chương 1
NHTM và hiệu quả sử dụng vốn của NHTM
1.1. NHTM trong nền kinh tế thị trường.

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, chức năng và vai trò của Ngân hàng thương
mại [5],[6]
1.1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán.
1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Thứ nhất: NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ và đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ.
Thứ hai: NHTM chiụ sự giám sát một cách chặt chẽ và thương xuyên
của chính phủ thông qua NHNN, Luật pháp và các quy định. Để Chính phủ
thực hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ, hạn chế những tác động xấu của
hoạt động ngân hàng.
Thứ ba: Hoạt động ngân hàng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro nh: Rủi
ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản …những loại rủi
ro này có tác động rất lớn tới hoạt động của ngân hàng.
Thứ tư: Hoạt động của ngân hàng có mức độ cạnh tranh cao. Bởi hoạt
động ngân hàng ngày càng phát triển cùng với sự ra đời của nhiều ngân hàng
với loại hình như cổ phần, liên doanh, nước ngoài và nhiều công ty tài chính
3
phi ngân hàng được phép kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy để tồn
tại và phát triển ngân hàng phải cạnh tranh với mức độ cao.
1.1.1.3. Chức năng của Ngân hàng thương mại :
* Trung gian tín dụng :
Ngân hàng thương mại một mặt thu hót các khoản tiền nhàn rỗi trong
xã hội, bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ
quan nhà nước. Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay
đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ sung
vốn.

Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng thương mại là một trung gian
tài chính quan trọng để điều chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu.
Thông qua sự điều khiển này, Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức
sống của dân cư, ổn định thu chi chính phủ.
Chính với chức năng này, Ngân hàng thương mại góp phần quan trọng
vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế lạm
phát.
* Trung gian thanh toán:
Nếu nh mọi khoản chi trả của xã hội được thực hiện bên ngoài ngân
hàng thì chi phí để thực hiện chúng sẽ rất lớn, bao gồm: chi phí in đúc, bảo
quản vận chuyển tiền.
Với sù ra đời của Ngân hàng thương mại, phần lớn các khoản chi trả về
hàng hoá và dịch vụ của xã hội đều được thực hiện qua ngân hàng với những
hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến.
Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng, nên việc
giao lưu hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng an toàn và tiết
kiệm hơn. Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán,
Ngân hàng thương mại có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội trước hết là
4
các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư, đẩy mạnh
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
* Nguồn tạo tiền:
Sù ra đời của các ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển về chất trong
kinh doanh tiền tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận
tiền gửi và rồi cho vay cũng chính bằng các đồng tiền đó, thì nay các ngân
hàng đã có thể cho vay bằng tiền giấy của mình, thay thế tiền bạc và vàng do
khách hàng gửi vào ngân hàng.
Hơn nữa, khi đã hoạt động trong một hệ thống ngân hàng, Ngân hàng
thương mại có khả năng “ tạo tiền” bằng cách chuyển khoản hay bót tệ để

thay thế cho tiền mặt. Điều này đã đưa Ngân hàng thương mại lên vị trí là
nguồn tạo tiền. Quá trình tạo tiền của hệ thống Ngân hàng thương mại dùa
trên cơ sở tiền gửi của xã hội. Xong số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi
ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân
hàng.
1.1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại:
Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế ngày càng quan
trọng nó được thể hiện qua các vai trò sau:
Thứ nhất: Ngân hàng thương mại là nơi tập trung vốn tạm thời nhận rồi
trong xã hội để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế, qua đó chuyển tiền
thành tư bản để đầu tư phát triển sản xuất và tăng cường hiệu quả hoạt động
của tiền vốn. Trong xã hội luôn luôn tồn tại tình trạng thừa và thiếu vốn một
cách tạm thời. Những cá nhân, tổ chức có tiền nhàn rỗi tạm thời thì muốn bảo
quản số tiền một cách an toàn nhất và có hiệu quả nhất. Trong khi đó những
cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì muốn vay được những khoản vốn
nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy Ngân hàng
thương mại là một trung gian tài chính tốt nhất để thực hiện chức năng là cầu
nối giữa cung và cầu về vốn. Ngân hàng là một điạ chỉ tốt nhất mà những
5
người dư thừa về vốn có thể gửi tiền một cách an toàn và hiệu quả nhất và
ngược lại cũng là một nơi sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu về vốn của các cá
nhân và doanh nghiệp.
Thứ hai: Hoạt động của các Ngân hàng thương mại góp phần tăng
cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp qua đó góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại với địa vị là
một trung gian tài chính thực hiện chức năng là chiếc cầu nối giữa cung và
cầu về vốn trên thị trường tiền tệ đã góp phần đẩy nhanh hoạt động của nền
kinh tế, đem lại thuận lợi cho hoạt động của các cá nhân và tổ chức. Những cá
nhân và tổ chức đã giảm được các khoản chi phí trong việc tìm kiếm các
nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, và ngoài ra có thể vân dụng các

dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng để đẩy nhanh hoạt động của
mình. Việc vay vốn từ ngân hàng của các doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh
nghiệp phải có phương án sản xuất tối ưu và có hiệu quả kinh tế thì mới có
thể trả lãi và trả vốn cho ngân hàng. Việc lập phương án sản xuất tối ưu do
doanh nghiệp lập ra phải qua sự kiểm tra, thẩm định kỹ lưỡng của ngân hàng
nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể sảy ra.
Ngược lại những cá nhân và tổ chức dư thừa về vốn có thể yên tâm
đem gửi tiền của mình vào ngân hàng vì ngân hàng là một địa chỉ có thể bảo
quản tiền vốn một cách an toàn và hiệu quả tốt nhất. Khách hàng có thể yên
tâm về sự an toàn và khả năng sinh lời của đồng vốn và cũng có thể rút tiền
của mình bất cức lúc nào muốn. Có thể lãi suất mà ngân hàng trả cho khách
thấp hơn so với việc đầu tư tiền vốn vào những lĩnh vực nh: mua cổ phiếu,
đầu tư vào kinh doanh nhưng việc gửi tiền vào ngân hàng là có hệ số an
toàn cao nhất. Thêm vào đó những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách
hàng nh: chuyển tiền, thanh toán hộ, các dịch vụ tư vấn sẽ tạo thêm thuận
tiện cho khách hàng trong hoạt động kinh doanh của mình.
6
Tất cả những hoạt động của ngân hàng là cơ sở giúp cho việc tăng cường
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Thứ ba: Ngân hàng thương mại thông qua những hoạt động của mình
góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia như:
ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm cao, ổn định lãi xuất,
ổn định thị trường tài chính, thị trường ngoại hối, ổn định và tăng trưởng kinh
tế. Với các công cụ mà Ngân hàng trung ương dùng để thực thi chính sách
tiền tệ như: Chính sách chiết khấu; tỷ lệ dự trự bắt buộc của Ngân hàng trung
ương đối với Ngân hàng thương mại: lãi suất tín dụng hoặc bằng các nghiệp
vô thị trường tự do. Thì các ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong
việc thi hành chính sách tiền tệ quốc gia. Các Ngân hàng thương mại có thể
thay đổi lượng tiền trong lưu thông bằng việc thay đổi lãi suất tín dụng hoặc
bằng các nghiệp vụ trên thị trường mở qua đó góp phần chống lạm phát và ổn

định sức mua của đồng nội tệ.
Thứ tư: Ngân hàng thương mại bằng hoạt động của mình đã thức hiện
việc phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển kinh
tế đồng đều giữa các vùng khác nhau trong một quốc gia. Các vùng kinh tế
khác nhau thì có sự phát triển khác nhau. Hiện tượng thừa vốn hoặc thiếu vốn
một cách tạm thời giữa các vùng diễn ra thường xuyên. Do đó vấn đề đặt ra là
làm sao thực hiện tốt nhất hiệu quả huy động của vốn và chính hoạt động điều
chuyển vốn trong nội bộ ngân hàng đã thực hiện tốt vấn đề này.
Thứ năm: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền kinh tế các nước
và thế giới, tạo điều kiện cho việc hoà nhập của nền kinh tế trong nước với
nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới. Với xu hướng toàn cầu hóa
nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới cùng với chính sách mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới thì
hoạt động của các Ngân hàng thương mại được mở rộng và thúc đẩy cho việc
mở rộng hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nước. Với hoạt động
7
rộng khắp của mình, các ngân hàng có khả năng được nguồn vốn từ các cá
nhân và các tổ chức nước ngoài góp phần bảo đảm được nguồn vốn cho nền
kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể mở
rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách dễ dàng hơn, hiệu quả hơn nhờ
hoạt động thanh toán quốc tế, bảo lãnh.
Chính từ sự mở rộng các quan hệ quốc tế mà nền kinh tế trong nước có
sự thâm nhập vào thị trường quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh với
các nước khác trên thế giới.
1.1.2. Hoạt động sử dụng vốn trong Ngân hàng thương mại [7],[8]
1.1.2.1. Khái niệm và cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
* Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng

a/ Vốn tự có
VTC của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu ngân hàng. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng (khoảng dưới 10%) nhưng nó mang tính chất ổn định và
có một vị trí quan trọng, quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở
để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh, huy động vốn và cho vay. Có
thể nói nó như là cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản Có
của ngân hàng mà nó có thể đẩy ngân hàng đến tình trạng thiếu khả năng chi
trả và phá sản.
VTC của NHTM bao gồm các thành phần sau:
- Vốn pháp định là những mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân
hàng do pháp luật quy định.
8
- Vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ
hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
- Vốn bổ sung gồm có:
+ Quỹ dữ trữ bổ sung vốn điều lệ: quỹ này nhằm mục đích tăng
cường số vốn VTC ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt: để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình
hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
+ Ngoài các quỹ trên, VTC bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận
chưa phân phôí hoặc các quỹ khác nh: quỹ phóc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ
khâú hao tài sản cố định.
b/ Nguồn vốn huy động
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn kinh
doanh của ngân hàng. Nguồn vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán
- Tiền gửi có kỳ hạn
- Tiền gửi tiết kiệm
• Tiền gửi không kỳ hạn

Là loại tiền gửi có số dư không ổn định vì khách hàng có thể gửi vào và
rót ra lúc nào cũng được. Các cá nhân tổ chức gửi tiền theo hình thức không kỳ
hạn để phục vụ cho những khoản thanh toán thường xuyên có thể phát sinh trong
quá trình hoạt động. Do sự tiện lợi trong thanh toán nên loại tiền gửi này hiện
nay trên thế giới có nhiều quốc gia không trả lãi suất hoặc có trả thì cũng trả rất
thấp , nh Việt nam hiện nay khoảng 0,3%/ tháng .
• Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời hạn rút tiền giữa khách
hàng và ngân hàng. Nh vậy theo nguyên tắc thì khi khách hàng đã xác định
một kỳ hạn cụ thể thì họ không thể rút tiền trước kỳ hạn. Tuy nhiên trong thực
9
tế thì họ có thể rút trước kỳ hạn nhưng theo quy định của ngân hàng thì có
được rút và được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi.
Khách hàng có thể gửi tiền với kỳ hạn ngắn hoặc dài, khách hàng gửi tiền có
kỳ hạn là để phục vụ cho nhu cầu chi trả đã xác định trước sẽ phát sinh trong
tương lai, họ được đảm bảo cho sù an toàn và ngoài ra họ còn được hưởng lãi
suất, loại tiền gửi kỳ hạn này được ngân hàng sử dụng chủ động hơn nhưng
lại phải trả cho khách hàng chí phí cao hơn loại tiền gửi không kỳ hạn .
• Tiền gửi tiết kiệm
Loại tiền gửi này là công cụ truyền thống huy động vốn của các
NHTM, tiền gửi tiết kiệm chia thành:
- Tiết kiêm không kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cũng giống nh tiền gửi không kỳ hạn ở
điểm khách hàng có thể rót ra lúc nào cũng được. Khách hàng gửi tiền với
mục đích tiết kiệm cho những khoản chi phí bất chợt tại thời điểm nào đó. Lãi
suất tiền gửi tiết kiệm là vấn đề người gửi tiết kiệm quan tâm hàng đầu vì để
thu hót các tầng líp dân cư gửi tiết kiệm thì ngân hàng phải đưa ra những mức
lãi suất phù hợp nhất.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời hạn gửi, có mức lãi suất cao

hơn mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Có thể thấy vốn huy động từ các khoản tiền gửi tiết kiệm là thành phần
quan trọng mà các NHTM quan tâm mở rộng để kích thích tăng tiết kiệm vì
đây là nguồn vốn ổn định cao có thể phục vụ cho mục đích cấp tín dụng dài
hạn.
c/ Nguồn vốn đi vay
Khi nguồn vốn huy động từ dân cư không đủ phục vụ cho yêu câù dùng
vốn thì NHTM phải đi vay từ NHNN hoặc vay từ các tổ chức tín dụng khác.
Các khoản vay nhằm đảm bảo nhu cầu vốn trong thời gian ngắn. Trong quá
10
trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại có những ngày cho vay quá
nhiều hoặc có nhu cầu lớn về các nghĩa vụ tài chính dẫn đến sự thiếu hụt dự
trữ tại ngân hàng Trung ương. Trong khi đó lại có những ngân hàng thương
mại khác trong tình trạng thừa dự trữ. Hành vi vay lẫn nhau giữa các ngân
hàng là nhằm điều hoà nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu
chuyển liên tục trong hệ thống ngân hàng.
Trong trường hợp vốn vay trên vẫn không đáp nhu cầu sử dụng vốn của
NHTM thì NHTM sẽvay NHNN tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay
vốn, vốn vay NHNN được chia thành các loại sau:
• Vốn vay ngắn hạn bổ sung: là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ
sung ngắn hạn của mình. Trong hình thức này các ngân hàng chỉ được vay khi
còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tin dụng đã thoả thuận.
• Vốn vay để thanh toán: Các NHTM vay NHNN nhằm mục đích
thực hiện công tác thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm
thời trong thanh toán.
• Tái cấp vốn: Là hình thức mà NHNN cho NHTM vay trên cơ sở
chứng từ có gía. Các chứng từ này phải là các chứng từ có chất lượng, tức là
phải thoả mãn các điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn…
Tái cấp vốn gồm hai hình thức:
+ Cho vay tái chiết khấu: NHNN nhận các giấy tờ có giá mà các

NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống nh các
NHTM đã làm.
+ Cho vay có đảm bảo: Là hình thức các NHTM đêm các chứng từ có
giá đÕn NHNN để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các
chứng từ có giá làm đảm bảo, NHNN sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuy theo
sự quản lý của nhà nước.
d/ Các nguồn vốn khác.
11
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo ra được
một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín
dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức…các khoản tiền tạm thời
được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên tạm
thời được coi là tiền nhàn rỗi.
NHTM còng thu được một lượng vốn đáng kể thông qua quá trình thu
chi hộ khách hàng, làm đại lý cho TCTD khác, nhận và chuyển vốn cho khách
hàng hay một dự án đầu tư. Do việc thực hiện theo tiến độ công việc nên có
thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn nó phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các
mục đích nhằm tìm kiếm lợi nhuận cũng như bảo đảm an toàn của ngân
hàng. Nó là việc chuyển hoá tiền gửi và vốn thành tài sản dự trữ và các tài
sản khác có sinh lêi. Những loại tài sản này đem lại thu nhập cho NH và tạo
ra lợi nhuận cho NH. Được chia thành các loại sau:
a/ Khoản mục ngân quỹ
Theo quy định thì các ngân hàng thương mại và các tổ chức tin dụng
nhận tiền gửi bao giê cũng duy trì một phần tài sản của mình dưới dạng dự trữ
bao gồm tiền mặt và số dư tiền gửi trên tài khoản ở NHNN nhằm đáp ứng nhu
cầu rút tiền, thoả mãn cầu tín dụng và cung cấp các hoạt đéng khác từ phía
khách hàng. Khoản mục ngân quỹ bao gồm: Dự trữ pháp định, tiền mặt tại
quỹ và tiền gửi ở các ngân hàng khác.

• Dự trữ pháp định.
Dự trữ pháp định do pháp luật quy định được áp dụng cho tất cả các
ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi. Dự trữ pháp định là một phần trong số
vốn mà NHTM thu được để gửi vào một tài khoản ở NHNN. Nó được xác
định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một
khoảng thời gian nào đó.
12
• Tiền gửi thanh toán tại NHNN là một lượng tiền trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của ngân hàng tại NHNN. NHTM duy trì loại ngân quỹ
này bởi vì có rất nhiều khoản thanh toán giữa các ngân hàng được thực hiện
qua NHNN, khoản tiền này có thể sinh lời song rất thấp.
• Tiền mặt tại quỹ.
Tiền mặt tại quỹ là lượng tiền mà NH cất giữ tại kho của mình. Bao
gồm tiền giấy và tiền kim loại, lượng tiền này không có khả năng sinh lời vì
vậy các nhà quản lý ngân hàng cố gắng giữ nó càng Ýt càng tốt nhưng song lý
do an toàn mà tuỳ theo từng ngân hàng, từng khu vực và từng thời kỳ mà các
NH dự trữ tiền mặt khác nhau.
• Tiền gửi ở các ngân hàng khác.
Nhiều ngân hàng nhỏ gửi tiền vào trong những ngân hàng lớn để đổi
lấy nhiều dịch vụ khác nh thanh toán giữ các ngân hàng, giao dịch ngoại tệ,
mua chứng khoán…
Như vậy, ngân quỹ của ngân hàng là tài sản không sinh lời hoặc sinh
hoặc sinh lời thấp, song lại có tính lỏng cao nhất đảm bảo khả năng thanh
toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho ngân hàng, nó hạn chế rủi ro thanh
khoản, nâng cao uy tín cho ngân hàng tạo tiền đề vững chắc cho ngân hàng
phát triển.
b/ Khoản mục cho vay.
Cho vay là khoản mục sinh lời chủ yếu của NHTM, mục tiêu của việc
cho vay của ngân hàng là lợi nhuận, còn tính thanh khoản của khoản mục này
là thứ yếu. Đối với khoản mục này mối quan tâm lớn nhất của các nhà quản

trị là quản lý rủi ro và chấp hành đúng các giới hạn do pháp luật và NHNN
quy định. Việc cấp tín dụng ngân hàng này chứa đựng ba nội dung sau:
• Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang
người sử dụng.
13
• Sự chuyển nhượng này có thời hạn.
• Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
Cấp tin dụng có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau tùy theo
những tiêu thức phân loại khác nhau.
• Dùa theo mục đích cho vay có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
• Dùa vào thời hạn cho vay, theo tiêu thức nàycó thể chia thành
các loại sau:
+ Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, mục
đích của việc cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu
động.
+ Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm mục đích
của việc cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm mục đích của
loại cho vay này là tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
• Dùa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, Theo tiêu thức này
thì tín dụng có thể thành các loại sau:
+ Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dùa vào uy tín của bản
thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dùa trên cơ sở có bảo đảm tiền
vay nh thế chấp cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba.

• Dùa vào phương thức cho vay, theo phương thức này có thể chia
cấp tín dụng theo các loại sau:
14
+ Cho vay theo mãn vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng.
• Dùa theo phương thức hoàn trả nợ, thì chia thành các loại sau:
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một
lần khi đáo hạn.
+ Cho vay nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
+ Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy
theo khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
c/ Khoản mục đầu tư.
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp Ngân
hàng Thương mại sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động.
Đồng thời, nó cũng mang lại nguồn thu nhập quan trọng cho Ngân hàng
Thương mại. Ngân hàng Thương mại có thể đầu tư vốn mua chứng khoán
ngắn hạn của chính phủ. Những chứng khoán này vừa mang lại thu nhập cho
Ngân hàng Thương mại, vừa góp phần vào việc cân bằng thu chi ngân sách
thường xuyên; đồng thời góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ trong nền kinh
tế quốc dân.
Ngân hàng Thương mại còn được phép đầu tư vốn để mua cổ phiếu và
trái phiếu của các doanh nghiệp, qua đây những Ngân hàng thương mại lớn
tham gia vào việc thành lập quản lý các doanh nghiệp . Tuy nhiên, Ngân hàng
Thương mại chỉ được đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định, không
được để hoạt động này lấn át hoạt động cho vay. Trong nghiệp vụ đầu tư
chứng khoán, NHTM thường đầu tư vốn vào hai loại chứng khoán có kỳ hạn
dài là:
• Chứng khoán do nhà nước phát hành: Đầu tư vào loại chứng
khoán này thu được lợi nhuận thấp, song hầu như không có rủi ro và có tính
15

thanh khoản cao vì nhà nước luôn có nguồn bảo đảm khả năng thanh toán lớn
nhất đó là thuế và quyền lực phát hành.
• Chứng khoán do các công ty phát hành: Các NHTM thường mua
cổ phiếu của công ty cổ phần để hưởng thu nhập hàng năm. Đầu tư vào loại
chứng khoán này thu được lợi nhuận cao hơn chứng khoán của chính phủ
nhưng độ an toàn lại thấp hơn.
Đầu tư chứng khoán là một nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro, nó ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản, bảo tồn ngân quỹ và nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy trong quá trình ra quyết định lùa
chọn loại chứng khoán để đầu tư, ngân hàng cần phải cân nhắc kỹ càng về
những yếu tố thuế đối với ngân hàng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro
lạm phát, các yêu cầu cam kết bảo lãnh.
d/ Tài sản cố định và các tài sản có khác
• TSCĐ là một bộ phận tài sản được ngân hàng duy trì chủ yếu
nhằm bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động bộ máy ngân hàng. Đó là nơi
thực hiện các giao dịch với khách hàng, lưu giữ và bảo quản các hợp đồng, thực
hiện các hoạt động thanh toán …TSCĐ bao gồm các loại sau:
+ Nhà xưởng và trang thiết bị: gồm trụ sở làm việc, phương tiện và hệ
thống vi tính, các trang thiết bị và phần nâng cấp tài sản thuê.
+ Bất động sản thuộc sở hữu của ngân hàng.
+ Tài sản vô hình gồm bản quyền công nghệ, uy tín hoặc địa thế tốt…
• Tài sản có khác: là những khoản mà ngân hàng bị các tổ chức
khác chiếm dụng như các khoản chi phí trả trước, như vậy tài sản có khác ở
ngân hàng có tinh thanh khoản thấp không được xem như loại tài sản có tính
sinh lời, nó chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng.
16
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm [7]
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì
vấn đề đặt ra đối với nhà quản trị doanh nghiệp cũng như những nhà quản trị

ngân hàng là phải làm sao mà một đồng vốn bỏ ra phải thu về nhiều đồng lợi
nhuận hơn hay nói một cách khác là vốn được sử dụng hiệu quả nhất.
Hiệu quả sử dụng vốn nói chung là sự đạt được mục tiêu đề ra khi sử
dụng một lượng vốn nhất định vào kinh doanh với những chi phí thấp nhất,
hiệu quả trực tiếp đó là phải kinh doanh phải có lãi để đổi mới trang thiết bị,
đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh, đảm bảo duy trì được năng lực của
vốn. Hoạt động của ngân hàng bao gồm hai mạng chính đó là huy động vốn
và sử dụng vốn, do đặc thù của ngành ngân hàng mà quan điểm về hiểu quả
sử dụng vốn được hiểu
Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù phản ánh trình độ và khả
năng thực hiện công tác sử dụng vốn nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất
với chi phí và rủi ro thấp nhất có thể. Có nghĩa là về mặt lượng hoạt động
sự dụng vốn biểu hiện giữa kết quả đạt được (số lượng, thời gian) với chi
phí bỏ ra. Còn về mặt chất là phản ánh năng lực, trình độ quản lý của
ngân hàng.
Một điều dÔ thấy là một khi ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả thì là
cơ sở thuận lợi để hoạt động huy động vốn của ngân hàng có hiệu quả. Còn
xét trên một phạm vi rộng hơn, hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng không
chỉ mục đích là lợi nhuận mà nó còn nó còn ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống
ngân hàng và nền kinh tế.
Thông qua việc đi sâu nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn của một ngân
hàng ta có thể thấy được năng lực, trình độ quản lý của ngân hàng đó như thế
17
nào, chẳng hạn như việc huy động vốn có phù hợp với sử dụng vốn hay
không?, ngân hàng đã khai thác hết khả năng của mình chưa ?, cơ cấu của sử
dụng vốn có phù hợp cơ cấu nguồn vốn không ? và bên cạnh sự tăng trưởng
của sử dụng vốn thì sự tăng trưởng đó có ổn định không? Từ việc phân tích
này ta có thể rót ra được mặt mạnh của ngân hàng để phát huy, những hạn chế
còn tồn đọng tìm ra nguyên nhân từ đó đưa ra phương pháp giải quyết. Nhằm
mục đích giúp ngân hàng sử dụng vốn hiệu quả hơn.

1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của NHTM
Căn cứ vào quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn, thì hiểu quả sử dụng
vốn được đánh giá qua các nhóm sau:
1.2.2.1. Chỉ tiêu về quy mô đầu tư và cho vay.[7]
a/ Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế: Dư nợ tín dụng đối với nền kinh
tế: Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ thể hiện được mối quan hệ tín dụng giữa
ngân hàng với khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu phản ánh phần vốn đầu tư
hiện đang còn lại tại một thời điểm của ngân hàng mà ngân hàng đã cho vay
chưa thu về. Đồng thời, chỉ tiêu này cũng phản ánh mối quan hệ với doanh sè
cho vay (Dư nợ đầu kỳ +Doanh sè cho vay - Doanh thu số nợ = Dư nợ cuối
kỳ) với khả năng đáp ứng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại đối với
những nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.
b/ Doanh sè cho vay: Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái
quát có hệ thống đối với những khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định
doanh sè cho vay, chưa có sự đánh giá cụ thể về chất lượng các khoản vay và
phần rời của những khoản vay trong một thời kỳ nhất định ( trong ngày,
tháng, quý, năm ) nhưng đây là chỉ tiêu cho biết khả năng luân chuyển sử
dụng vốn của một ngân hàng, quy mô đầu tư và cấp vốn tín dụng của ngân
hàng đó đối với nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ.
18
c/ Doanh sè thu nợ: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng thu hồi nợ của
những khoản cho vay khi đến thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
d/ Hệ số sử dụng vốn: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng vốn so
với tổng nguồn vốn, hệ số này luôn nhỏ hơn 1 và được xác định theo công
thức
Hệ số sử dụng vốn =
Tổng vốn sử dụng
Tổng nguồn vốn
e/ Vốn vay / Khả năng giải quyết, xử lý vốn tồn đọng: Là chỉ tiêu phản
ánh độ nhạy bén, khả năng luân chuyển vốn tồn đọng theo chiều hướng đem

lại lợi nhuận cho ngân hàng .
1.2.2.2. Chỉ tiêu về chất lượng cho vay.
a/ Tỷ lệ nợ quá hạn: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản
cho vay và khả năng bảo đảm của nã trong một thời hạn nhất định. Thực chất,
chỉ tiêu này cho biết sự luân chuyển lượng tiền mặt trong một ngân hàng, phán
ánh phần chất đối với doanh thu nợ. Đây cũng là yếu tố đánh giá tính chất trình
độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng và trình độ quản trị ngân hàng đồng thời thể
hiện tình hình biến động chung của nền kinh tế.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn
x
100
%
Tổng dư nợ
b/ Vòng quay vốn được xác định theo công thức sau:
Vòng quay vốn =
Doanh số nợ
x 100%
Dư nợ bình quân
Vòng quay vốn càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay của ngân hàng càng
luân chuyển nhanh, tham gia vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá.
19
Ngoài ra, còn có thể đánh giá tình hình sử dụng vốn qua các chỉ tiêu:
Nợ khó đòi / tổng dư nợ
Nợ quá hạn / Vốn chủ sợ hữu
Dự phòng tổn thất tín dụng /Dư nợ tín dụng
1.2.2.3. Các tỷ lệ phản ánh khả năng sinh lời chủ yếu trong hoạt động
Ngân hàng.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng kinh doanh của
các NHTM. Do đó các chỉ tiêu tài chính về lợi nhuận luôn là điểm hấp dẫn

đối với nhà phân tích. Một số nhà quản trị thường dùng các chỉ số sau đây để
đánh giá lợi nhuận của ngân hàng:
a/ Chỉ số ROA
ROA =
Lợi nhuận ròng
x 100%
Tổng tài sản có
Chỉ tiêu nay phản ánh khả năng của ban điều hành ngân hàng trong việc
tận dụng các nguồn vốn để tạo ra thu nhập, nghĩa là một đồng tài sản thì tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng. ROA giúp nhà quản trị thấy được khả
năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có.
ROA là thước đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng, vì mọi tài sản có đều
là những khoản đầu tư. Tất cả các loại tài sản có như cho vay, chuyển nhượng
dự trữ … đều sinh ra lãi mỗi ngày, ngoại trừ hai loại tài sản là dự trữ tiền mặt
và tài sản cố định, nói cách khác ROA giúp ta xác định hiệu quả kinh doanh
của một đồng tài sản có. ROA cao khẳng định hiệu quả kinh doanh tốt , ngân
hàng có cơ cấu tài sản có hợp lý, có sự điều chỉnh linh hoạt giữa các mục trên
tài sản có trước những biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu ROA càng
cao thì thể hiện mức độ rủi ro càng cao. Vì vậy so sánh giữa các kỳ hoạch
toán, đối chiếu với sự di chuyển các loại tài sản có nhà quản trị có thể rót ra
nguyên nhân của thành công hoặc thất bại của ngân hàng.
20
b/ Chỉ số ROE (thu nhập ròng trên vốn)
ROE =
Lợi nhuận ròng
x 100%
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này đo lường tính lành mạnh trong hoạt động của một ngân
hàng. Hệ số ROE phản ánh lợi nhuận kiếm được từ việc đầu tư vốn của mình,
cứ một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng.

Nhược điểm của hệ số ROE: đối với một ngân hàng cụ thể, lợi nhuận trên
toàn bộ tài sản có tương đối thấp, tuy nhiên mức lợi nhuận trên vốn cổ phần
có thể rất cao. Trong trường hợp này, vốn cổ phần của ngân hàng sẽ nhỏ hơn
so với tổng tài sản của nó, tức là ngân hàng mất nhiều khả năng độc lập nên
có thể đang có nhiều rủi ro về ký thác, mặc dù mức lợi nhuân trên vốn cổ
phần cao tạo thành hình ảnh ngân hàng hoạt động có vẻ như rất tốt.
1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Sử dụng vốn là yếu tố quan trọng của NHTM nó ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động kinh doanh của ngân hàng và từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế. Do
vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yếu tố quan trọng được các nhà quản trị
quan tâm hàng đầu, nó quyết định đến sự sống còn của ngân hàng.
Thứ nhất: Hiệu quả hoạt động sử dung vốn là yếu tố quyết định đến năng
lực canh tranh của một NHTM. Thực hiện tốt việc sử dụng vốn là động lực làm
nên hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng, doanh số hoạt động của một ngân
hàng nhờ đó mà tăng lên và từ đó ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong kinh
doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường.
Thứ ha : hoạt động sử dụng vốn có hiệu quả sẻ góp phần nâng cao uy
tín, vị trí của ngân hàng trên thị trường.
Thứ ba: Sử dụng vốn tốt giúp cho ngân hàng có thể kinh doanh đa đạng
trên thị trường. Không chỉ đơn thuần cho vay mà còn mở rộng hình thức liên
doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ khác. các hình thức này không chỉ làm
tăng lợi nhuận cho ngân hàng mà còn làm phân tán rủi ro cho ngân hàng.
21
Thứ tư:Sự dụng vốn có hiệu quả góp phần tạo điều kiện phát triển toàn
diện cho nền kinh tế. Khi ngân hàng thực hiện đầu tư, cho vay có hiệu quả thì
tạo ra công ăn việc làm, và thu nhập cho nhiều người lao động góp phần làm
giảm tệ nạn xã hội đồng thời tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp
phần tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện nền kinh tế. Điều đó lại có tác
động hỗ trở cho ngân hàng phát triÓn hơn.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn trong ngân hàng

thương mại
Trong quá trình hoạt động ngân hàng, hoạt động sử dụng vốn chịu sự
chi phối của nhiều nhân tố, gồm hai nhóm nhân tố sau:
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
a/ Tốc độ phát triển của nền kinh tế: Để có một nền kinh tế phát triển
một cách lành mạnh, tốc độ phát triển cao bền vững đòi hỏi các định chế tài
chính nói chung và ngành ngân hàng nói riêng phải luân chuyển vốn được từ
nhà đầu tư cho sản xuất một cách thông suốt, như vậy ngành ngân hàng đã
góp phần phát triển kinh tế cho xã hội. Ngược lại, một nền kinh tế phồn thịnh
là tiền đề phát triển của ngành ngân hàng, điều này cũng có nghĩa là góp phần
làm cho hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao, chẳng hạn như khi nền kinh tế
phát triển thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có khả năng thanh toán
lúc này ngân hàng có thể thu được gốc và lãi của các khoản cho vay, đồng
thời khi nền kinh tế phát triển thì kéo theo các dịch vụ khác của ngân hàng
cũng phát triển như dịch vụ thanh toán,… làm tăng thu nhập của ngân hàng
lên phân tán giảm rủi ro cho ngân hàng. ngược lại nếu nh nên kinh tế rơi vào
khủng hoảng thì dẫn đến công việc làm ăn của ngân hàng gặp nhiều rủi ro, có
thể gây phá sản ngân hàng do không thể thu hồi được nợ. Lịch sử cho thấy
các cuộc khủng hoảng kinh tế nh cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á diễn ra
vào những thập niên 90 làm cho hàng loạt các ngân hàng bị phá sản.
22
b/ Các chính sách kinh tế của nhà nước và chính phủ: Mét quyết định
về chính sách đường lối của nhà nước có thể dẫn đến một bước ngoặt khác nhau
cho nÒn kinh tế, chẳng hạn như bước chuyển đổi từ chế độ bao cấp sang kinh tế
thị trường vào năm 1991 nước ta là một bước ngoặt lớn, tiếp theo vừa mới đây
1/7/2006 Việt Nam chính thức gia nhập WTO mở ra cho nền kinh tế có nhiều cơ
hội và thách thức, điều này tạo ra động lực thúc đẩy cạnh tranh cho nền kinh tế
nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Để tồn tại và có vị trí của mình trên
thương trường đòi hỏi các ngân hàng phải quan tâm tới việc nâng cao hiệu sử
dụng vốn, không như thời kỳ bao cấp.

c/ Sù gia tăng cạnh tranh trên thị trường tài chính: Xã hội ngày càng
phát triển thì cơ cấu kinh tế ngày dần chuyển đổi tỷ trọng từ công nghiệp sang
dịch vụ. Lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng ngày càng cạnh tranh quyết liệt
hơn, các đối thủ cạnh tranh ngày càng mở rộng danh mục đầu tư và đa dạng hoá
các dịch vụ tiện Ých của mình. Cạnh tranh gay gắt trên thị trường sẽ thúc đẩy
các ngân hàng phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
d/ Sự phát triển công nghệ thông tin: Lao động thủ công trong những
năm 80 tại các NH Việt Nam đang được thay thế bằng hệ thống máy tính. Công
nghệ thông tin khiến cho thành phần trong tổng tài sản thay đổi, vốn dành cho
trang thiết bị TSCĐ tăng lên như vậy làm giảm vốn cho hoạt động tín dông, tuy
nhiên công nghệ thông tin phát triển thì việc quản lý thông tin các khách hàng
cho vay thuận tiện, nhanh gọn hơn. Công nghệ thông tin phát triÓn kéo theo
nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới ra đời làm đa dạng hoá danh mục dịch vụ
ngân hàng, tăng hiệu quả kinh doanh.
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan
a/ Quy mô hoạt động của ngân hàng
Quy mô hoạt động của ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng, qua nghiên cứu
gần đây cho thấy đường cong chi phí trung bình của các ngân hàng (đo bằng
23
tổng lượng tiền gửi hoặc tổng tài sản) với chi phí hoạt động trên một đơn vị sản
phẩm đầu ra có dạng gần giống hình chữ U, có đáy là một mặt tương đối là
phẳng, đáy phẳng này có thể được coi là phạm vi hợp lýcủa việc tăng trưởng quy
mô. Mặt khác qua nghiên cứu cũng cho thấy rằng các ngân hàng nhỏ có danh mục
dịch vụ khác với ngân hàng lớn hơn, do đó đối với ngân hàng nhỏ và vừa thì quy
mô tối ưu là tính theo tổng tài sản (ở Mỹ) để có thể giảm chi phí tới mức thấp nhất
là khoảng 100 -500 triệu USD còn đối với ngân hàng lớn nằm trong khoảng 2 tỷ
đến 10 tỷ USD. Tuy nhiên ta thấy rằng một ngân hàng nếu có một quy mô lớn
thông thường hoạt động trong một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ hơn, mặt khác
ngân hàng có khó khăn về tài chính thường có xu hướng hoạt động kém hiệu quả
hơn, do đó ngân hàng lớn sẽ có thể hoạt động với chi phí thấp hơn.

b/ Năng lực của các nhà quản trị và nhân viên ngân hàng :
Yếu tè con người luôn là yếu tố quan trọng nhất, khi một ngân hàng có
một nhà quản trị tài ba, họ biết xác định mục tiêu mục đích rõ ràng đúng hướng
cho ngân hàng thì giúp ngân hàng đó phát triển bền vững. Những nhân viên
thông minh nhanh nhẹn giúp ngân hàng đưa ra nhòng danh mục đầu tư hiệu quả,
thậm định dự án và đánh giá khách hàng chính xác làm giảm thiểu rủi ro hơn.
Ngân hàng là một loại hình dịch vụ ngoài sự thông minh sáng tạo nhân viên
ngân hàng phải khéo léo tận tính để thu hót khách hàng, tạo lợi nhuận, tăng uy
tín cho ngân hàng.
Tóm tắt Chương 1
Ở chương này, khoá luân đã tập trung giải quyết những vấn đề lý luận cơ
bản liên quan tới hiệu quả sử dụng vốn của NHTM đó là: Các nội dung về
NHTM, hiệu quả sử dụng vốn của NHTM và những nhóm nhân tố ảnh hưởng
tới hiểu quả sử dụng vốn trong NHTM. Đây chính là cơ sở luận để phân tích
đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM CP Quân đội ở chương 2.
24
Chương 2
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại cổ
phần quân đội
2.1. Tổng quan tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại cổ phần quân đội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHTMCP Quân Đội
NHTMCP Quân đội ra đời và hoạt động trong bối cảnh đất nước ta
đang trong quá trình đổi mới. Cuối năm 1989 những tiến bộ trong nến kinh tế
cho phép Việt Nam chuyển thời kỳ, đưa ra những chính sách và mô hình
Ngân hàng thích hợp với cơ chế thị trường trong nền kinh tế nhiều thành
phần. Nhà nước chủ trương cải thiện hệ thống Ngân hàng thành hai cấp trong
đó cấp quản lý nhà nước do NHNN đảm nhận, cấp kinh doanh do các NHTM
đảm nhận tạo ra một sức sống mới cho Ngân hàng, các NHTM hoạt động vì
mục đích lợi nhuận không ngừng mở rộng mạng lưới kinh doanh cũng như

dịch vụ Ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu của khách hàng, đồng
thời trong thời kỳ này nhà nước cũng có chủ trương thành lập các NHTMCP
nhằm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Trong bối cảnh đó NHTMCP Quân đội được thành lập theo quyết định
số QĐ005/NH-GP do NHNN cấp ngày 14/9/1994 và giấy phép kinh doanh sè
060297 do sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp ngày 30/9/1994 (sửa đổi ngày
27/12/2002), hoạt động kinh doanh dưới hình thức là NHTMCP chuyên
doanh về tiền tệ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng với định hướng phục vụ các
doanh nghiệp Quân đội sản xuất quốc phòng và làm kinh tế, với số vốn điều
lệ ban đầu là 20 tỷ đồng do các cổ đông là các doanh nghiệp quốc phòng và
một số thể nhân đóng góp.
25

×